TIN TỨC

Chất Folklore trong Lục bát khóc cười và Lục bát phố

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-06-19 08:08:18
mail facebook google pos stwis
923 lượt xem

NGUYỄN VŨ TIỀM

Cầm hai tập thơ thuần thể loại lục bát quen thuộc, nghĩ đọc cũng hơi ngại bởi cứ đều đều một điệu, dễ chán. Nhưng đọc một vài bài mở đầu trong tập “Lục bát khóc cười” và “Lục bát phố” của Lê Tiến Vượng thì cảm giác ấy dần mất đi và thay vào đó là cảm giác hào hứng và thú vị.

Dừng lại, tôi tự hỏi, vì sao? À đây, chất Folklore cộng với chất uy-mua tan hòa trong mỗi câu mỗi vần, ấy là lý do thứ nhất; nhưng lý do thứ hai mới là chủ yếu, ấy là sự lựa chọn đề tài của anh.

Chất Folklore trong “Lục bát khóc cười” và “Lục bát phố”


Nhà thơ Lê Tiến Vượng với tập "Lục bát đùa chơi"

 

Đó là những đề tài thời sự sốt dẻo, đôi khi nóng bỏng của xã hội chúng ta ngày nay, những điều mắt thấy tai nghe hàng ngày. Mấy năm nay, nghe nhiều bạn đọc phàn nàn là thơ bây giờ xa rời thực tế đời sống, né tránh những chuyện cọ xát, gay gắt của xã hội. Điều này có thật, vậy nên thơ Lê Tiến Vượng được cảm tình của bạn đọc, ghi được điểm cũng là chính đáng thôi. Theo dõi tin tức trên mạng, tôi được biết, với hai tập thơ này anh đều tổ chức ra mắt phát hành lấy tiền gây quỹ từ thiện giúp đỡ học sinh nghèo ở vùng cao còn nhiều khó khăn thiếu thốn.

***

1. Trong tập “Lục bát khóc cười”, Lê Tiến Vượng viết về công việc làm thơ:

Bắc nồi lục bát nấu thơ
Nhặt bao con chữ ta vơ vào nồi
Lửa tim ta cháy rực rồi
Bao nhiêu ý đứng ý ngồi đang reo (Nấu thơ)

Khái niệm thơ vốn mơ hồ, hư ảo vậy mà nhà thơ cụ thể hóa trở nên rất sinh động tưởng như có thể cầm nắm được. Khi “nấu”, nhà thơ còn cảm nhận rõ hơn: “Bao nhiêu ý đứng ý ngồi đang reo”, đã đứng ngồi, còn reo nữa, hoạt náo quá, người đọc bị cuốn hút!

Từ lăng kính thơ như thế, anh rọi chiếu vào những vấn đề xã hội hiện nay, từng mảng hiện thực hiển lộ và mang sắc thái riêng. Về quê hương, anh có những phác họa lý thú:

Quê hương là những hàng tre
Khi trời trở gió tiếng nghe mệt nhoài (Quê hương)

Hình ảnh hàng tre quê hương thường là dịu mát mến thương, nhưng Lê Tiến Vượng không mòn sáo: “Tiếng nghe mệt nhoài” thật tâm trạng, nỗi niềm…

Ta ngồi ru nắng trưa hè
Mẹ ta quần xắn kéo te ngoài đồng (Ru)

Chắc nhiều bạn cũng như tôi, chưa hề nhìn thấy “cái te” bao giờ, hình như để đơm những con tôm tép nhỏ, Lê Tiến Vượng đưa “cái te” vào thơ một cách tự nhiên, rất dân dã và bất ngờ. Ta đọc thấy mến thương làm sao và “cái te” chưa biết kia bỗng thành kỷ niệm, nâng niu, cảm mến. Thêm một trải nghiệm, khi viết về đồng quê dân dã, những hình ảnh, phương ngữ cũng đóng góp một phần không nhỏ.

Hình ảnh chợ quê rất độc đáo:

Đầu làng dăm bảy người ngồi
Khi dăm nải chuối, khi nồi ngô non
Bán xong đứng dậy cười giòn
Xắn quần móng lợn, lon ton ra đồng (Chợ cóc)

Chợ này có lẽ nằm ngoài khái niệm chợ thông thường. Chợ của Đoàn Văn Cừ hay Anh Thơ của thế kỷ trước tuy quê mùa nhưng cũng ít nhiều mang dáng dấp “chuyên nghiệp”, thị trường rồi, còn “Chợ cóc”, thì có chút gì gần như “nguyên sơ” còn sót lại. Khả năng quan sát, nắm bắt chi tiết của Lê Tiến Vượng khá tinh tế khiến thơ anh có sinh thái rất riêng. Đọc thơ anh ngỡ như được tham gia một chuyến “phượt” về đồng quê khá lý thú.

Nhớ về tuổi thơ, Lê Tiến Vượng có chi tiết rất thật:

Tuổi thơ là khúc đồng dao
Có khi chẳng thuộc vẫn gào rõ to

Nét ngộ nghĩnh đáng yêu của trẻ thơ thôn quê ở dòng thứ hai thật cảm động. Ai đã từng tham gia trong “cuộc chơi” ấy chắc tâm đắc “chẳng thuộc vẫn gào rõ to”. Nhưng cuộc sống không phải lúc nào cũng yên ả mà còn xót xa đau đớn:

Tuổi thơ trắng chiếc khăn tang
Bom rơi, nhà cháy cả làng đưa ma. (Tuổi thơ)

Tình làng nghĩa xóm được thể hiện tự nhiên mà máu thịt qua bốn chữ “cả làng đưa ma”. Không sinh ra và lớn lên ở quê, không có những gắn bó buồn vui đau khổ khó viết được tự nhiên mà lay động như thế. Chất chân quê khi trải nghiệm tình yêu cũng có nét riêng:

Ví đời như giọt mắt em
Ta kẻ chết đuối vớt lên… lại chìm. (Ví đời)

Ví như “kẻ chết đuối” thì đã gặp nhiều trong thơ, nhưng “vớt lên lại chìm” thì rất Lê Tiến Vượng. Và khi trải nghiệm ít nhiều về tình yêu thì lại có bất ngờ khác:

Vẫn câu… chín ngại mời ngờ
Trước kia dại một bây giờ dại hai
Bao điều tưởng đúng lại sai
Tiếng mình lạ với đôi tai của mình. (Em đừng)

Tưởng là trưởng thành thì cái dại sẽ bớt đi chứ, sao lại “Trước kia dại một bây giờ dại hai”? À ra lĩnh vực tình yêu khác lắm, không như logic thông thường, trái tim có quy luật riêng là thế! Chất uy-mua tự giễu nhại của Lê Tiến Vượng khá đặc trưng và như thế dân dã mà hiện đại, hiện đại một cách bình dân. Câu cuối: “Tiếng mình lạ với đôi tai của mình” là một sáng tạo độc đáo, nói lên một nghịch lý xã hội chua chát xót xa. Một ẩn dụ đa nghĩa, một câu thơ hay. Thơ này dễ đi vào đời sống và dễ phát huy hiệu quả trong chức năng của thi ca.

Một góc nhìn khác:

Dẫu xưa mơ chuyện trên trời
Bây giờ ngồi đất nghe lời cỏ cây (Tuổi già).

Hai câu trích trong bài “tuổi già” tuy anh chưa già, chứng tỏ anh thích trải nghiệm và đã có nhiều trải nghiệm. Câu lục bát tạo được sự tương phản lý thú giữa cao vời và thấp bé, câu thơ vì thế có tầm khái quát.

Tự vấn, tự trào, tự nhủ là mặt mạnh của thơ Lê Tiến Vượng, anh tung hoành ở mọi địa bàn tâm tưởng:

Nhớ đã nhớ, quên đã quên
Bao nhiêu vay trả đáp đền cũng qua
Đường đời còn mấy mươi ga
Làm anh công chức ba hoa làm gì (Thơ cho mình).

Hoặc phản ánh đời sống thường nhật:

Quê giờ nhà ống cao vời
Tường cao, rào kín lòng người hoang vu (Quê ơi).

Chữ “hoang vu” thường chỉ dùng cho thời dĩ vãng nghèo khó nhưng trong trường hợp này lại đắc địa bởi nó nói lên một nghịch cảnh xót xa về mối quan hệ người với người hiện nay, khi đời sống vật chất được nâng cấp thì tinh thần lại xuống cấp. Những thủ pháp nghệ thuật tương phản, nghịch lý… cùng với chất folklore, uy-mua kết hợp hài hòa khiến thơ lục bát của Lê Tiến Vượng dễ khóc cười với nhiều cảnh ngộ nhân sinh.

Nấu thơ mẻ trước mẻ sau
Mẻ nào cũng đẫm sắc màu thế nhân (Nấu thơ).

2. Trong tập “Lục bát phố”, nhà thơ Lê Tiến Vượng dành nhiều quan sát, suy ngẫm, cảm xúc cho mảng hiện thực phố xá, công sở, cơ quan; những con người, những cảnh ngộ éo le, không ít nghịch lý và thấp thoáng những bi kịch.

Công sở giờ lắm vai hề
Kara sếp hát, lính về tung hô
Hắt hơi khối kẻ trầm trồ
Chàng thì như cún, nàng thì như miu.

Công sở thả sức tiền chùa
Sáng chi hội nghị, chiều lùa hội thi
Vỗ tay cũng có phong bì
Quanh năm đi họp có khi cũng giàu. (Công sở)

Những câu thơ này nếu xuất hiện vài chục năm về trước chắc tác giả sẽ bị quy chụp này nọ, có khi mang vạ vào thân. Nhưng bây giờ thì khác lắm, những hiện tượng ấy quá phổ biến, cần tẩy chay, lên án. Hoan nghênh nhà thơ đã nói hộ chúng ta cái điều bức xúc ấy, đồng thời khiến ta liên tưởng đến những “quý vị quan chức” đã, đang và sắp sửa “vào lò” và mong sao xã hội ta ngày một trong sạch, lương thiện hơn.

Lê Tiến Vượng quan sát mảng hiện thực khác của đời sống:

Bây giờ sao lắm thằng hề
Tiền đem cho gái lại thuê đi đòi
Lừa thầy phản bạn như chơi
Sòng đời gài bẫy… ông trời cũng kinh. (Bây giờ)

Nhiều người từng kêu là đạo đức xã hội bây giờ xuống cấp quá, thì bài thơ “Bây giờ”, Lê Tiến Vượng nêu khá cụ thể. Đến như cái chuyện “Bắc thang lên hỏi ông trời/ tiền đem cho gái có đòi được không?” đã là câu cửa miệng quen thuộc từ xưa, đến ông Trời cũng phải bó tay! Tức là “không bao giờ đòi được, đừng có mơ”. Nhưng ngày nay khác hẳn, “tiền đem cho gái lại thuê đi đòi”. Bọn này hơn cả ông Trời, một khi họ thuê đến những tay đao búa anh chị, xã hội đen. Câu ca dân gian lưu truyền từ xưa có ý nhắc nhở giới mày râu. Còn câu thơ của Lê Tiến Vượng ngày ngay lại có ý nhắc nhở giới má hồng, xin chị em hãy cảnh giác với loại sở khanh hiện đại! “Sòng đời gài bẫy, ông trời cũng kinh”!

Về cái chuyện “tình tang”, Lê Tiến Vượng có những câu thơ trải nghiệm:

Em hình như giả thơ ngây
Ta giờ mới biết “giả cầy” cũng ngon. (Hình như)

Chữ “giả cầy” đặt ở câu tám thật bất ngờ khiến người đọc nghĩ lại chữ “giả thơ ngây” ở câu sáu, hai kiểu “giả” này thành ý nhị, tinh tế. Một cách nhắc nhở, phê phán nhẹ nhàng. Một cách chơi chữ khá tài hoa khiến câu thơ có chất uy-mua thú vị.

Ở bài khác, anh nhắn nhủ cô em:

Thơ anh hơi bị đàng hoàng
Nong nia thúng mủng giần sàng chân quê
Em đừng cười tẩm thuốc mê
Tim anh dễ vỡ, lối về dễ quên (Em đừng).

Câu “Thơ anh hơi bị đàng hoàng” là ưu điểm hay khuyết điểm? Thật khó phân định nhưng dễ chấp nhận. Bốn chữ “cười tẩm thuốc mê” là dở hay là hay? Cũng khó phân định nữa! Viết về đề tài khó nói này mà nói được bằng thơ như thế là khéo. Nói chung, với đối tượng này, Lê Tiến Vượng rất chừng mực, bởi anh biết họ là ai, hoàn cảnh thế nào:

Bây giờ áo ngắn chấm bi
Eo thon, ngực trễ, dáng đi Thúy Kiều
Ra phố tay lái phải siêu
Thần kinh phải vững, máu liều… mới sang (Này em).

Thì ra mấy em gái này từ quê ra phố phải làm quen với bao nhiêu cái lạ lẫm phức tạp, mà khó nhất chắc là “thần kinh phải vững” và phải có “máu liều” nữa! Ôi hiểm nguy quá, bao rủi ro bất trắc giăng bẫy ngay phía trước các em thân gái dặm trường. Và đây nữa, cụ thể hơn:

Người ra phố thị bán buôn
Em quê ra phố bán buồn ai mua…
Nàng Kiều còn có Nguyễn Du
Chúng em nay trại, mai tù… Ai thương? (Bán thân).

Hoàn cảnh quá! Em này chắc tương đối có học, có đọc Truyện Kiều và so sánh thật tội nghiệp, nàng Kiều còn có Nguyễn Du cảm thương, “Chúng em nay trại, mai tù… Ai thương”? Trong hoàn cảnh này thì tôi thấy ít nhất có nhà thơ viết bài thơ này cảm thương thân phận các cô. Và anh viết tiếp:

Phúc thì xa, họa lại gần
Tìm đâu ông Bụt phép thần cho em
Làng tôi bao cảnh lấm lem
Rời quê ra phố Tấm quên lối về (Cô Tấm làng tôi)

Lê Tiến Vượng nói với “bao cảnh lấm lem”, họ đi tìm vận may “Phúc thì xa, họa lại gần” và không có ông Bụt nào giúp cô Tấm thời nay cả. Những dòng lục bát mộc mạc chân tình cảm thông và nhắc nhở, thiện chí của tác giả rất đáng ghi nhận.

Trong bài “Gửi em lấy chồng Đài Loan”, anh viết:

Ước gì gói hết mùa thu
Gửi cho em phía mịt mù phương xa
Bỏ làng làm vợ người ta
Lời vào thì ít, lời ra thì nhiều.

Người đi đã vậy, còn người ở nhà “Lời vào thì ít, lời ra thì nhiều”, cái chuyện thị phi ở làng quê, gia đình cô phải gánh chịu, cảnh ngộ thật xót xa. Đây đó còn không ít những hoàn cảnh trái ngang:

Trẻ già trai gái phong trần
Bán đi cái có, để cần… cái không (Phố phường).

Bán đi “cái có” thì dễ nhận ra, đó là sức lao động, nhưng để đổi lấy “cái không” là gì? Thật mơ hồ, nhưng rất có thể là những thứ chả mang lại giá trị gì, chỉ là con số không mà thôi. Thân phận người lao động làm thuê mà, làm sao lường hết những rủi ro. Nhìn gần, anh lại ngẫm về xa:

Lỡ mai cái đẹp lâm chung
Là khi cái ác xưng hùng nghênh ngang (Này em).

Lê Tiến Vượng lấy cụ thể (lâm chung) gán cho khái niệm trừu tượng (cái đẹp) làm tôi giật mình! Vì sao anh có suy nghĩ ấy? Phải chăng là những hiện thực xã hội hàng ngày vẫn phơi bày đây đó? Văn hào Nga Dostoyevsky viết: “Cái đẹp sẽ cứu rỗi thế giới”, vậy mà trước những hiện thực phũ phàng, nhà thơ lo “Lỡ mai cái đẹp lâm chung”. Sự cảnh báo mới đáng sợ làm sao, khiến chúng ta không khỏi xót xa suy nghĩ.

***

Hai tập thơ lục bát trên một trăm bài khá dày dặn về số lượng và chất lượng. Lê Tiến Vượng khá chăm chút về bút pháp thơ, từ khái niệm, anh hay chuyển hóa thành hình ảnh, hình tượng, đó là công việc cần thiết để tạo nên chất thơ. Lê Tiến Vượng dụng công nhiều về thủ pháp nghệ thuật này. Anh là họa sĩ đồ họa, “thi trung hữu họa”, chất tạo hình có dấu ấn khá rõ nét trong tập thơ “Lục bát khóc cười” và “Lục bát phố”. Đây là một thành công rất đáng ghi nhận của nhà thơ họa sĩ Lê Tiến Vượng.

Ghi chú: Folklore được định nghĩa là “kiến thức của nhân dân”, “trí tuệ của nhân dân” (folk: đại chúng, nhân dân; lore: trí tuệ, trí khôn; Folklore = kiến thức, trí tuệ của nhân dân).

Bài viết liên quan

Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm
Nhà lý luận phê bình Đỗ Nguyên Thương và tập thơ “Tìm về miền ký ức”
Tôi quen nhà giáo, nhà Lý luận Phê bình văn học Đỗ Nguyên Thương thật tình cờ trong buổi Tọa đàm về Thơ 1-2-3 do nhà thơ Phan Hoàng chủ trì có sự phối hợp của Hội nhà văn Cần Thơ và khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn tường Đại học Cần Thơ.
Xem thêm
Tư tưởng nhân dân anh hùng
1. Vì tình yêu quê hương đất nước, Trần Bảo Định đến với văn chương. Nhà văn Long An để lại dấu ấn đáng kể trong sinh hoạt văn chương từ những năm 2010 đến nay. Bên cạnh bộ sách Đất và người Nam Bộ mến yêu gồm 14 tập truyện ngắn, Trần Bảo Định còn có 6 tập thơ, 5 tập tiểu luận phê bình. Năm 2024, nhà văn trình làng tuyển tập Đất Việt trời Nam liệt truyện gồm 3 tập (thượng, trung, hạ) do Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành. Tái hiện diễn trình lịch sử vùng đất Nam Bộ từ hồi một 1620, hồi hai 1859, đến hồi ba 1900, tuyển tập có thể xem như trường thiên tiểu thuyết ca ngợi tinh thần đấu tranh yêu nước anh dũng của nhân dân Nam Bộ, như lời giới thiệu của Nhà xuất bản: “Chính các anh hùng vô danh mới thể hiện toàn bộ chủ đích nghệ thuật của Trần Bảo Định, cho thấy tư tưởng: nhân dân anh hùng!”
Xem thêm
Thơ tình Nguyên Bình đắm đuối
(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Các nhà thơ từ cổ chí kim không nhiều thì ít đều viết thơ tình, điều đó không có gì lạ; vì tâm hồn họ lãng mạn, mơ mộng, tôn thờ phái đẹp. Nhà thơ Nguyên Bình không nằm ngoài số đó. Anh viết văn làm thơ từ thời sinh viên, cả trước và sau năm 1975. Những bài thơ tình, anh không dám trao tay cô nữ sinh xinh đẹp xứ Huế anh yêu say đắm: Vẫn mãi “Là bài thơ còn hoài trong vở/Giữa giờ chơi mang đến lại mang về” thơ Đỗ Trung Quân.
Xem thêm
Mỹ cảm của kiểu tự sự trong suốt trong tập tản văn “Nỗi buồn trong suốt” của Nguyễn Đức Phú Thọ
Tản văn là một thể loại dễ tiếp cận với mọi mặt của đời sống thông qua những lát cắt hiện thực, nhưng trung tâm tinh thần của thể loại này lại là cái tôi tư tưởng, cảm xúc của người nghệ sĩ. Tản văn vừa đậm chất trữ tình, vừa mang bản chất tự sự. Mỗi tác phẩm là một cách diễn giải về “Thế giới như tôi thấy”, đồng thời cũng là một tấm gương phản chiếu cấu trúc nội tâm của nhà văn.
Xem thêm
Cảm nhận thơ Trần Xuân Hóa từ một góc nhìn đa cảm
Bài viết của nhà thơ CCB Trần Trí Thông
Xem thêm
Hơi thở đất quê trong miền nhớ của Huỳnh Khang
Chủ đề và nội dung trong MIỀN NHỚ xoay quanh ký ức quê hương, tình mẫu tử, nghĩa làng nghĩa xóm, thiên nhiên, tình yêu đôi lứa, nỗi buồn mất mát, cùng những triết lý đời thường.
Xem thêm
Tiếng văn từ phía “bạn nguồn”
Nguyễn Minh Sơn, Hồ Tấn Vũ và Nguyễn Thị Như Hiền là ba cây bút thuộc thế hệ 7X và 9X
Xem thêm
Về trên dặm trường thiên lý “Miền Ô châu”
Tiếp theo các cuốn tản văn Sông vẫn chảy đời sông (NXB Thanh Niên 2023), Bốn mùa thương nhớ (NXB Thanh Niên 2024), nhà văn Nguyễn Linh Giang vừa ra mắt cuốn tản văn mới: “Miền Ô Châu” (NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2025).
Xem thêm
Thơ ca chào đón Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Cách mạng tháng Tám - 1945 thành công, mở ra trang sử vàng chói lọi cho dân tộc. Bác Hồ đọc “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập. Hai tiếng Việt Nam vang lên đầy phấn khởi, tự hào trên trường quốc tế, đã khơi nguồn, làm bừng dậy biết bao cảm hứng về thơ ca, nhạc, họa thật mới mẻ, mãnh liệt và sôi nổi, làm không khí văn nghệ đổi sắc thay da. Từ đây nền văn học của ta chỉ còn duy nhất một trào lưu là văn học cách mạng.
Xem thêm
Hồi hộp trước “phút bù giờ” của Minh Đan
Ngôn ngữ của Minh Đan đôi lúc không còn chỉ là ký tự để giải nghĩa, mà là vật liệu có tâm hồn – biết khít lại, giãn ra, để tạo hình tượng và âm thanh.
Xem thêm