TIN TỨC

Cuộc “vượt vũ môn” ngoạn mục

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-08-07 17:42:53
mail facebook google pos stwis
2193 lượt xem

BÙI VIỆT THẮNG

Anh Võ Minh là cựu chiến binh, thương binh hạng nặng (mất 81 phần trăm sức khỏe, xếp loại ¼). Chàng thanh niên quê Nghi Thịnh, Nghi Lộc, Nghệ An (sinh 1952), khoác áo lính từ khi tuổi mười tám phơi phới thanh xuân (1970); trải qua bốn năm trận mạc ở chiến trường ác liệt miền Đông Nam Bộ (lính của Trung đoàn 271 Anh hùng, có lẽ vì thế mà tạo  Email/vominh271@gmail.com).

Bị thương trong chiến trận, ròng rã một năm (1974) điều trị vết thương nặng, năm 1975 mới trở về  sống với đời thường, với bút nghiên đèn sách. Từ 1975-1980, anh Võ Minh dùi mài kinh sử ở ngành Điện khí hóa, Trường Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội; ra trường công tác tại Cục Cơ khí, Bộ Giao thông vận tải. Chàng Kỹ sư điện trẻ tuổi mang trên mình thương tật nặng nề (đến nay vẫn còn 7 mảnh đạn trong đầu), nhưng yêu nghề, yêu đời và đặc biệt yêu văn chương. Cuộc sống của người lính giữa đời thường không thể nói là suôn sẻ, xuôi chiều mát mái, bằng anh bằng em. Những khi trái gió trở trời, vết thương cũ lại hành hạ. Những cơn đau từ đâu sầm sập kéo đến như những trận lốc xoáy cơ hồ kéo ném Võ Minh ra tận ngoài đảo xa giữa biển Đông hay quẳng lên trên những đỉnh núi cao nhất của dãy Trường Sơn. Sống được đã là khó huống hồ còn nặng nợ nghiệp văn chương chữ nghĩa. Nhưng phải sống để mà nhớ lấy và ghi lại cả quá khứ đau thương và anh hùng của một thế hệ. Thấm nhuần lời Bác Hồ dạy “Thương binh tàn mà không phế”, anh Võ Minh đã làm được điều phi thường với danh dự của Anh bộ đội Cụ Hồ. Năm 1984, kỹ sư điện Võ Minh là người đầu tiên ở Việt Nam đã thiết kế thành công hệ thống điện cho loại cần cẩu 3 tấn trên tàu biển, cần cẩu tháp trong xây dựng.


Nhà văn Võ Minh

Nhưng có thể nói, tấm gương lao động chân chính, tích cực và hiệu quả nhất của cựu chiến binh, thương binh nặng Võ Minh lại ở lĩnh vực sáng tác văn học, không phải là tay ngang, cũng không phải chỉ là cuộc chơi chữ nghĩa “vô tăm tích” như ai đó thiển cận phát ngôn. Ở lĩnh vực “văn” anh cũng nghiêm túc và nhiệt huyết như trong lĩnh vực “điện”, nghĩa là cũng năng nổ tìm tòi và phát huy sáng kiến. Năm 2007, anh trình làng tập hồi ký “Có một thời như thế” (NXB Thanh niên, tái bản lần thứ 7, năm 2022). Nhà thơ Nguyễn Thụy Kha nhận xét về văn chương của đồng đội mình: “Võ Minh lại góp phần giúp ta lật lại điềm tĩnh cuốn lịch chiến tranh mà ở đó mỗi ngày đều gầm rú đạn bom, đều thấm đẫm máu người lính trận. (...). Trong suốt hơn 200 trang hồi ký được dựng lại theo thể nhật ký, gần như không có trang nào không thấy rớm máu, không có trang nào không thấy thủng lỗ chỗ vết đạn bom”. Hồi ký “Có một thời như thế” được tái bản tại NXB Chính trị quốc gia Sự thật, số lượng 25.000 cuốn (Sách cấp phát cho quận, phường, xã và thư viện trong cả nước); sách được đưa vào Tủ sách Tiếp lửa truyền thống - Mãi mãi tuổi 20. Người đồng hương xứ Nghệ, dịch giả Hoàng Xuân Thường (Phó Trưởng khoa Điện tử, Trường Đại học Sư phạm kỹ thuật Vinh, Nghệ An) chuyển ngữ tập hồi ký “Có một thời như thế” sang tiếng Ba Lan, sẽ ra mắt độc giả tại quê hương nhạc sỹ thiên tài thế giới Chopin (Sô Panh) một ngày không xa. Vì thủy chung với văn chương, anh quyết tâm dấn thân, khi in tập truyện ngắn “Nghị quyết cây khế” (NXB Hội Nhà văn, 2014). Trong tác phẩm thứ hai, Võ Minh chủ yếu viết về cuộc sống đời thường với nhiều cảnh ngộ, số phận, bằng giọng văn hài hước có vẻ nhẹ nhàng nhưng hàm ẩn sâu sắc tinh thần phê phán nhân văn thói vô cảm (nhà văn Nguyễn Minh Châu gọi là “thói máu cá”) của con người trước đồng loại. Sách được lưu hành trong Hệ thống thư viện tưởng niệm NICHOLSON, HOA KỲ. Tên tuổi Võ Minh trên văn đàn càng định vị khi ra mắt tác phẩm thứ ba “Lốc xoáy” (tiểu thuyết, NXB Phụ nữ Việt Nam, 2022). Bốn năm trăn trở, tu chỉnh (có khi tưởng như phải dỡ ra viết lại), bằng ấy năm nữa tìm lối ra cho đứa con tinh thần khiến Võ Minh cũng không ít hao tâm tổn sức. Không phải không có lúc nản chí. Nhưng tinh thần của người lính đã giúp anh nghị lực, lòng tin, niềm lạc quan. Phía trước là bình minh.

Nếu “Lốc xoáy” chỉ xoáy vào biến cố Cải cách ruộng đất thì tác giả sẽ khó vượt được những người đi trước. Nhưng cơn lốc xoáy Cải cách ruộng đất chỉ là một trong nhiều cơn lốc xoáy - những cuồng phong lịch sử  - khác đã diễn ra trên đất nước ta thời hiện đại. Viết về một thời kỳ lịch sử đầy phong ba bão táp, thông qua con người, là cách nhà văn khác nhà lịch sử chỉ quan tâm và tôn trọng sự kiện. Tác giả đã thực sự “khôn ngoan” chuẩn bị “sân chơi” cho các nhân vật xuyên suốt tác phẩm dài hơi, trong khoảng thời gian bốn thập kỷ. Vì thế “ Lốc xoáy” được nối mở bằng ba phần (I, II, III): Trời long đất lở - Ma quỷ cõi người - Luật đời nhân quả. Phần I, là câu chuyện đấu tố, oan khuất, đập phá chùa chiền, bài trừ văn hóa phong kiến, cho đến ra đời hình thức hợp tác hóa nông nghiệp đều là cuộc bể dâu, dưới ngòi bút của tác giả, hiện lên trần trụi, gai góc qua từng con chữ. Cảm hứng hiện thực phê phán trên tinh thần nhân văn thấm đậm ngòi bút. Cơn lốc xoáy thứ hai là chiến tranh với những cảnh tàn phá, chết chóc nơi hậu phương và những hành động xả thân nơi chiến trường của những người lính quả cảm. Người ta sinh ra vốn không phải là lính. Nhưng những ký ức về chiến trận thường sâu lắng nhất và cũng da diết, bền lâu nhất, lương thiện nhất. Trong “Lốc xoáy” các trang viết về chiến tranh, theo cách viết “có đầu có đuôi”, vẫn đứng được vì nó liền mạch, cố kết, hòa mạng được với phần I và III. Cơn lốc xoáy thứ ba không có tiếng rít của đạn bom song không kém phần khốc liệt vì thị trường cũng có khi đổ máu như chiến trường, cũng nhiều thân bại danh liệt, cũng nhiều lao lý, cũng bể dâu ngút trời, cũng khủng hoảng vỡ trận. Không gian và thời gian sinh tồn của nó có đặc điểm “cộng sinh - chúng sinh - hiện sinh”. Cộng sinh (chung sống) là cái nền tảng cho chúng sinh (toàn dân) và hiện sinh (hiện hữu) mọc lên như một thân cây có gốc rễ tươi tốt. Các nhân vật đều được tô đậm tính chất “đa nhân cách”, “phi truyền thống” (không chia thành chiến tuyến xấu tốt, chính nghĩa - phi nghĩa theo thi pháp văn học dân gian và văn học truyền thống). Nhân vật được đặt trong một hoàn cảnh điển hình, họ đều không có khả năng tự/ được khai phóng. Nói như nhà văn Nga hiện đại tài danh I. Bondarev, tác giả tiểu thuyết “Tuyết nóng” đã được dịch ra tiếng Việt thì: “Một sự thật không thể chối cãi và đau đớn khi tất cả chúng ta đều là tù binh của hoàn cảnh”. Những “hiệu ứng domino” và “ma trận” (matrix), tôi nghĩ, chính là kỹ thuật/bí kíp viết riêng của tác giả được vận dụng thành công trong tiểu thuyết đầu tay “Lốc xoáy”, đã để lại nhiều dư âm.

 Sáng 27/7/2023, tại thị xã Cửa Lò, Nghệ An diễn ra sự kiện văn học đặc biệt “Tọa đàm về tác phẩm của nhà văn Võ Minh” do Tạp chí Sông Lam (Hội LHVHNT Nghệ An), Nhà xuất bản Phụ nữ Việt Nam và Chi hội VHNT Thị xã Cửa Lò đồng tổ chức. Kỷ yếu tọa đàm đã tập hợp 13 bài viết của đồng nghiệp, bạn hữu nhà văn Võ Minh trong và ngoài tỉnh (Vũ Ngọc Tiến, Chu Lai, Bùi Việt Thắng, Nguyễn Thụy Kha, Đinh Trí Dũng, Nguyễn Văn Hùng, Hoàn Nguyễn, Phạm Thùy Vinh, Hà Vinh Tâm...). Riêng về “Lốc xoáy” đã có 7 bài viết (có 4 bài đăng báo Văn nghệ, Thời báo VHNT, Nghệ An Cuối tuần và tạp chí Sông Lam). Phần “tọa đàm” rất sôi nổi, chân tình qua ý kiến phát biểu của đồng đội, bạn hữu và các nhà văn tham dự sự kiện (Lê Phương Liên, Nguyên An, Mai Nam Thắng). Trong ý kiến phát biểu của mình, nhà phê bình Bùi Việt Thắng nhấn mạnh đến công lao của Nhà xuất bản Phụ nữ Việt Nam, đặc biệt là Giám đốc - Tổng biên tập Khúc Thị Hoa Phượng, đã đồng hành, đồng tâm, hiệp lực làm “bà đỡ mát tay” cho “đứa con tinh thần” của nhà văn Võ Minh ra đời - tiểu thuyết “Lốc xoáy”. Ông chia sẻ: “Người ta nói đằng sau một người đàn ông thành đạt có một người phụ nữ. Nhưng với sự ra đời của “Lốc xoáy”, có thể nói, đằng sau nhà văn Võ Minh có hai người phụ nữ - người vợ đảm lược và Giám đốc Khúc Thị Hoa Phượng tràn trề tinh thần đổi mới và sáng tạo”.


Các tập sách của nhà văn Võ Minh.

Năm 2020, cựu chiến binh - thương binh nặng anh Võ Minh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam. Đó là vinh dự đồng thời là trách nhiệm cao của người cầm bút phụng sự lý tưởng “chân - thiện - mỹ”. Rõ ràng quỹ thời gian của nhà văn Võ Minh không còn dư dả, nên anh đang nỗ lực hết sức mình để vượt khó trong đời sống và trong lao động nghề văn. Nhà văn Võ Minh vẫn còn nung nấu ý tưởng viết tiếp như là cách trả món nợ tinh thần với đồng đội đã không trở về sau chiến tranh, cũng là cách tri ân với đời, với người./.

 Hà Nội, tháng 7-2023

Bài viết liên quan

Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm