TIN TỨC

Đa mang anh: Những trăn trở về tình yêu và hạnh phúc qua thơ phái nữ

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2021-11-15 08:30:59
mail facebook google pos stwis
2592 lượt xem

NGUYỄN THỊ THU THỦY

“Đa mang anh” là tập thơ khá xinh xắn của năm tác giả nữ đến từ những vùng đất khác nhau: Thủy Hướng Dương, Minh Đan, Trần Mai Hường, Võ Thi Nhung và Thy Nguyên.

Tập thơ đã mạnh dạn khẳng định chất nữ tính, những khao khát bạo liệt rất đàn bà. Những khát khao ấy vốn bị kiềm tỏa bởi cái nhìn đầy định kiến, nếp nghĩ đầy thiển cận còn rơi rớt lại của một bộ phận người trong xã hội “trọng nam khinh nữ” ngày xưa. Đối diện với những quan niệm lạc hậu đó, người phụ nữ nói chung và người phụ nữ làm thơ nói riêng đã phải tranh đấu rất nhiều để vươn lên.

Hành trình kiếm tìm hạnh phúc của họ thật nhọc nhằn. Bằng lối đi riêng, năm nữ sĩ đã chân thành bộc bạch tâm sự về tình yêu, về thân phận phái nữ giữa cuộc đời. Mỗi chị đã dẫn người đọc đến với quan niệm hạnh phúc bằng nét tinh túy riêng của thơ mình.

Minh Đan - cô “Lọ lem đất Võ” đã suy ngẫm rất nhiều về hạnh phúc. Hạnh phúc với chị là sự thật, là những phút thật lòng với tình yêu, với người yêu: Hạnh phúc là nụ cười bình yên xẻ nửa - Có cho nhau một phút thật lòng (Đêm vỡ). Cách định nghĩa về hạnh phúc của chị giản dị đầy mùi vị Bình Định, giòn như bánh tráng dừa thơm mùi quê Nẫu. Võ Thi Nhung - người con gái miền Trung, bốn mùa nắng gió, hạnh phúc là sự đồng điệu, sẻ chia, cùng nhau nắm chặt tay đi hết chuyến tàu tình yêu: Anh hứa sẽ cùng em đi hết - Cuối con đường dẫu nắng phai phôi - Sao chẳng nắm bàn tay cho chặt - Để âm thầm em hứng mưa rơi (Không đề). Còn ở Thy Nguyên - người phụ nữ đất cảng Hải Phòng: Hạnh phúc là gì sao nổi giữa mong manh? (Đêm đợi sáng). Đọc những dòng thơ Thy Nguyên, ta lại gặp những trăn trở của Xuân Quỳnh thuở nào: Lời yêu mỏng mảnh như màu khói- Ai biết tình anh có đổi thay? (Hoa cỏ may). Hai người phụ nữ, hai thời đại, hai thế hệ nhưng cùng chung một niềm trở trăn về hạnh phúc. Thủy Hướng Dương suốt quãng đường làm bạn với thơ, chị mãi truy tìm câu trả lời về hạnh phúc đến mệt nhoài: Ta miệt mài tìm kiếm giữa bể dâu - Một chút nắng vương - Một làn gió nhẹ - Một ánh mắt hiền chia sẻ lúc ta đau (Trò chuyện với con đường)

Khác với những niềm riêng không dám tỏ bày của người phụ nữ xưa, thơ hiện đại của phái nữ đã bộc bạch những bứt phá ngoạn mục, sẵn sàng dấn thân, nhập cuộc cả với nỗi đau của người phụ nữ hôm nay. Với Trần Mai Hường - hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, đêm là khoảng thời gian chị suy tư nhiều nhất về tình yêu. Không phải ngẫu nhiên, Hường đã đặt nhan đề gắn với đêm: Người đàn bà đội đêm, Giấc mơ em, Đối diện đêm, Nỗi nhớ mang tên đêm…Bởi đây là khoảng lặng để chị soi rọi mình sau những giờ phút tất bật với công việc và gia đình: Em sợ một mai- Thơ không đủ từ để đền cảm xúc - Mình không đủ nhau đành giả quên ký ức - Sóng không đủ hờn mắc cạn giữa trăm năm…(Đối diện đêm). Người phụ nữ trong thơ Thủy Hướng Dương vô tư khám phá và trò chuyện với những con đường. Cuộc trò chuyện của chị đầy những men đau rập rình nhưng với đôi chân rướm máu, chị vẫn cứ đi: Ta vẫn vô tư khám phá những con đường - ở đó có người đàn ông chạy theo những bóng hồng - Có men rượu, men tình - Có cả men đau rập rình nơi xa lắm. Một Minh Đan luôn quyết liệt và tự tin trước những dèm pha của người đời: kiêu hãnh mặc đời ghẹo trêu xấu hổ - hôm nay em ngước lên cao (Thị Nở vùng lên). Võ Thi Nhung đã hành trình về hội Lim để cùng say câu hát mời trầu, và chị đã khẳng định bằng thơ: Đã say câu hát mời trầu - Dẫu cho gãy nhịp sông Cầu vẫn sang (Về Lim). Hơi thơ chị phảng phất chút ngang tàng thách thức của nữ sĩ họ Hồ năm xưa. Thy Nguyên cũng vậy, trên con đường kiếm tìm hạnh phúc cho mình và cho thơ, không ít lần chị trở trăn: Cánh đồng chữ cuộc đời run rẩy vấp đêm - Cho con tập yêu thêm một niềm hạnh phúc - Thèm chắt chiu thêm mùa giáp hạt - Thèm được gột mình bằng trăm mảnh phận mưa (Người đàn bà và cánh đồng chữ).

Đến với Đa mang anh, ta như đắm chìm vào những cháy bỏng đam mê, khát khao được giải phóng bản ngã để sống thực với chính mình, không giả dối, che đậy. Các chị đã khẳng định được sức mạnh vô cùng vô tận của tình yêu phái nữ.

Đọc những câu thơ bộc bạch nỗi khát thèm tình yêu của Thủy Hướng Dương, bất giác ta đỏ mặt: Giấu cơn thèm tình trong túi - chẳng dám tiêu tốn đồng nào…Tình đàn bà giãy quá- túm chặt rồi mà cảm xúc cứ nhào ra (Giấu) Hay: Tôi mở cúc áo - Giấu nỗi mong anh vào ngực - Thở dài (Sonate đợi anh). Chất võ hòa trong chất thơ đã tạo nên một Minh Đan mãnh liệt và bạo dạn. Nếu ở tập thơ Phút 89 cô đã từng có những khát khao không thể đặt vòng với: Giữa mùa trăng, em muốn cúc áo này nới lỏng - ngọn gió lùa vào thơm mát thịt da (Em muốn) thì ở Đa mang anh, Minh Đan đã nhắc gió đừng ghen với những thao thiết ngông cuồng: Ngang dọc - thậm thụt váy - hớ hênh - gió vô tình – lùa - đỏ mặt (Ghen). Yêu không chỉ là ghen mà còn day dứt nhớ và còn có cả những phút xao lòng. Với Trần Mai Hường, biết có gì trỗi dậy từ những lúc gặp gỡ tình cờ, chị đã phải gồng mình để kìm nén nỗi nhớ nhức căng em, thậm chí phải trầm mình hóa giải những đam mê. Khác với nét dữ dằn, bạo liệt của các chị kia, Võ Thi Nhung ít nhiều còn chút nhút nhát, ít dám thể hiện mình của người miền Trung. Nhưng Nhung vẫn tự nhận mình là kiếp đa mang, vì đa mang nên phải nợ nần, những nợ nần không thể trả bằng vật chất: Thu riêng mấy độ lá vàng- Em từ muôn kiếp đeo mang nợ nần (Bến chiều). Ở Thy Nguyên, thơ chị có vẻ khó hiểu như Tạ Trăn (đời Minh) có nói: Thi khả giải, bất khả giải, bất tất giải. Đọc những thi phẩm có nhan đề: Ước lệ, Giả thiết, Người đàn bà và cánh đồng chữ…phần nào, ta được tiếp xúc với những nét lạ, bất thường đó. Những trở trăn về tình yêu của chị không ngông cuồng như Minh Đan, không dạn dĩ như Hướng Dương, Mai Hường, cũng không “nai” như Thi Nhung mà rất riêng: Em biển động mà thị phi kín mít- Khép lại mọi nhắm mắt mà mảnh ghép thừa ra (Ước lệ).

Để có thể bộc lộ những suy ngẫm của mình về tình yêu, về hạnh phúc, các nhà thơ phải nhọc nhằn cày xới trên cánh đồng chữ, để cho đời những đứa con tinh thần hoàn hảo bởi mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức và khám phá về nội dung. Có thể nói, mỗi nhà thơ nữ có một phong cách riêng, một dụng công riêng trong khám phá nghệ thuật để hòa vào dòng chảy chung của thơ ca dân tộc thời đổi mới.

Một cây bút đầy sáng tạo của Đa mang anh là Minh Đan. Thơ chị độc đáo trong nhịp điệu, tinh tế trong dùng từ, mới lạ trong cấu tứ: Uống sao cho hết-những chiều- tròn tròn khuyết khuyết- liêu xiêu trăng gầy (Phơi). Thơ chị vừa thấp thoáng những đường quyền của võ Bình Định vừa mang hơi hướng của điệu hát chầu văn xứ Bắc. Thơ lục bát qua tay chị được biến ảo thành những đường gươm ngọt lịm đắm say lòng người. Bên cạnh cách ngắt nhịp linh hoạt, thơ Minh Đan quyến rũ bởi cách dùng từ khi mạnh bạo lúc nhẹ nhàng, khi quyết liệt, lúc mềm mại và đầy nữ tính. Đọc những câu thơ sau của chị, ta sẽ cảm nhận rõ những cảm xúc trái chiều đó: Đã quên-quên tụt huyết say/ đã say- say tụt những cay đắng vờ (Phơi)… Ơ kìa! Tháng ngày lật đật/ neo vào hi vọng rồi tan/ hai đầu nắng mưa được mất/ tình nhân cơn bão vừa ngang (Xin).

Còn ở Thủy Hướng Dương, Trần Mai Hường, Võ Thi Nhung lục bát cũng là một thể thơ rất quen nhưng mà lạ. Quen bởi đây là thể thơ truyền thống của dân tộc nhưng lạ bởi các chị đã khoác áo mới cho nó bằng nhịp gãy: Từ người- ân ái sang trang/ Em - bao kiêu hãnh bỗng bàng hoàng. Rơi (Từ phút ấy - Trần Mai Hường); Ráng chiều buông sẫm mé ngày - Rưng rưng-khỏa-một vốc đầy - hoàng hôn (Lối cỏ may - Thi Nhung). Thơ các chị thật giàu hình ảnh bắt nguồn từ những liên tưởng, tưởng tượng nhưng chân thực đến không ngờ. Ca dao ngày xưa đã viết về những thao thức vì nhớ: Đèn thương nhớ ai mà đèn không tắt - Mắt thương nhớ ai, mắt ngủ không yên thì Thủy Hướng Dương từ sự liên tưởng về sự rụng rơi của bông cúc héo mà nghĩ suy về giọt lệ nhớ thương: Em thương những bông cúc héo - Rơi rơi từng cánh tình cờ - Mắt thu ứa từng giọt lệ - Nhớ anh đọng giữa ngu ngơ (Những bông cúc héo).

Còn ở Thy Nguyên, trong tập thơ này chị ít dùng lục bát biến thể mà đến với thơ tự do. Thơ chị còn tự do trong cảm xúc, với sự xuất hiện đậm đặc của thủ pháp so sánh, nhân hóa: Kiếp nhân gian như lời biển - Một chiều thả rớt lời câm (Lời ru). Thu buông mành cỏ dại - thanh âm guitare bắc thang nối vai gầy - Chiều như là dọc ngang - Thu như người khách trọ (Mùa thu và thiếu phụ); Sự im lặng như găm vào phố - Như thả vào mưa - Như đánh rơi vào tiếng nện giày típ tắp - Như bát đũa, như chốt cửa, như chúng mình giận nhau (Ước lệ)…

Đọc bốn mươi lăm bài thơ của Đa mang anh, chúng ta hòa cùng những thổn thức, suy ngẫm, những khát khao không có điểm dừng của năm trái tim phái nữ. Ta luôn tôn trọng và cảm thông với những khao khát của họ bởi đó là tiếng nói đấu tranh vì bình đẳng giới. Thơ các chị mãi mãi là tiếng lòng của hàng triệu phụ nữ mong muốn được sống trọn vẹn và hết mình cho tình yêu và hạnh phúc.

Đà Nẵng, 8/2015

(Theo Tạp chí Non Nước)

Bài viết liên quan

Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm
Nhà lý luận phê bình Đỗ Nguyên Thương và tập thơ “Tìm về miền ký ức”
Tôi quen nhà giáo, nhà Lý luận Phê bình văn học Đỗ Nguyên Thương thật tình cờ trong buổi Tọa đàm về Thơ 1-2-3 do nhà thơ Phan Hoàng chủ trì có sự phối hợp của Hội nhà văn Cần Thơ và khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn tường Đại học Cần Thơ.
Xem thêm
Tư tưởng nhân dân anh hùng
1. Vì tình yêu quê hương đất nước, Trần Bảo Định đến với văn chương. Nhà văn Long An để lại dấu ấn đáng kể trong sinh hoạt văn chương từ những năm 2010 đến nay. Bên cạnh bộ sách Đất và người Nam Bộ mến yêu gồm 14 tập truyện ngắn, Trần Bảo Định còn có 6 tập thơ, 5 tập tiểu luận phê bình. Năm 2024, nhà văn trình làng tuyển tập Đất Việt trời Nam liệt truyện gồm 3 tập (thượng, trung, hạ) do Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành. Tái hiện diễn trình lịch sử vùng đất Nam Bộ từ hồi một 1620, hồi hai 1859, đến hồi ba 1900, tuyển tập có thể xem như trường thiên tiểu thuyết ca ngợi tinh thần đấu tranh yêu nước anh dũng của nhân dân Nam Bộ, như lời giới thiệu của Nhà xuất bản: “Chính các anh hùng vô danh mới thể hiện toàn bộ chủ đích nghệ thuật của Trần Bảo Định, cho thấy tư tưởng: nhân dân anh hùng!”
Xem thêm
Thơ tình Nguyên Bình đắm đuối
(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Các nhà thơ từ cổ chí kim không nhiều thì ít đều viết thơ tình, điều đó không có gì lạ; vì tâm hồn họ lãng mạn, mơ mộng, tôn thờ phái đẹp. Nhà thơ Nguyên Bình không nằm ngoài số đó. Anh viết văn làm thơ từ thời sinh viên, cả trước và sau năm 1975. Những bài thơ tình, anh không dám trao tay cô nữ sinh xinh đẹp xứ Huế anh yêu say đắm: Vẫn mãi “Là bài thơ còn hoài trong vở/Giữa giờ chơi mang đến lại mang về” thơ Đỗ Trung Quân.
Xem thêm
Mỹ cảm của kiểu tự sự trong suốt trong tập tản văn “Nỗi buồn trong suốt” của Nguyễn Đức Phú Thọ
Tản văn là một thể loại dễ tiếp cận với mọi mặt của đời sống thông qua những lát cắt hiện thực, nhưng trung tâm tinh thần của thể loại này lại là cái tôi tư tưởng, cảm xúc của người nghệ sĩ. Tản văn vừa đậm chất trữ tình, vừa mang bản chất tự sự. Mỗi tác phẩm là một cách diễn giải về “Thế giới như tôi thấy”, đồng thời cũng là một tấm gương phản chiếu cấu trúc nội tâm của nhà văn.
Xem thêm
Cảm nhận thơ Trần Xuân Hóa từ một góc nhìn đa cảm
Bài viết của nhà thơ CCB Trần Trí Thông
Xem thêm
Hơi thở đất quê trong miền nhớ của Huỳnh Khang
Chủ đề và nội dung trong MIỀN NHỚ xoay quanh ký ức quê hương, tình mẫu tử, nghĩa làng nghĩa xóm, thiên nhiên, tình yêu đôi lứa, nỗi buồn mất mát, cùng những triết lý đời thường.
Xem thêm
Tiếng văn từ phía “bạn nguồn”
Nguyễn Minh Sơn, Hồ Tấn Vũ và Nguyễn Thị Như Hiền là ba cây bút thuộc thế hệ 7X và 9X
Xem thêm
Về trên dặm trường thiên lý “Miền Ô châu”
Tiếp theo các cuốn tản văn Sông vẫn chảy đời sông (NXB Thanh Niên 2023), Bốn mùa thương nhớ (NXB Thanh Niên 2024), nhà văn Nguyễn Linh Giang vừa ra mắt cuốn tản văn mới: “Miền Ô Châu” (NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2025).
Xem thêm
Thơ ca chào đón Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Cách mạng tháng Tám - 1945 thành công, mở ra trang sử vàng chói lọi cho dân tộc. Bác Hồ đọc “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập. Hai tiếng Việt Nam vang lên đầy phấn khởi, tự hào trên trường quốc tế, đã khơi nguồn, làm bừng dậy biết bao cảm hứng về thơ ca, nhạc, họa thật mới mẻ, mãnh liệt và sôi nổi, làm không khí văn nghệ đổi sắc thay da. Từ đây nền văn học của ta chỉ còn duy nhất một trào lưu là văn học cách mạng.
Xem thêm