TIN TỨC

Đêm Tháng Giêng - Tản văn Trần Bảo Trân

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-07-14 00:33:07
mail facebook google pos stwis
132 lượt xem

Ngày anh cưới chị, tôi còn nhỏ. Gần bảy thập kỷ trôi qua, tôi vẫn còn nhớ như in, ngôi nhà lợp rạ, vách đất của chúng tôi có khách là một người lính. Anh bận bộ quân phục màu cỏ úa với chiếc mũ mềm có ngôi sao lấp lánh. Ngày chị đi lấy chồng, tôi tiễn chị ra cánh đồng, cuối bờ tre gai thường ngày ríu rít tiếng chim. Cầm tay tôi, chị khóc. Em ở nhà nhé. Nếu rảnh chị sẽ về chơi với em. Mắt nhoà, tôi cố giữ không để lệ rơi.


Anh ở với chị được vài ngày rồi về đơn vị. Chiến tranh leo thang ra Miền Bắc. Hằng ngày từng tốp máy bay Mỹ ầm ầm như xé nát bầu trời. Đôi khi, ném không hết, chúng trút bom xuống cánh đồng làng tôi trước khi hạ cánh nơi hạm đội đậu ngoài biển Đông. Chiến trường khốc liệt, năm 1967 đơn vị anh hành quân vượt Trường Sơn vào Nam Bộ.

Một buổi chiều đi học về, tôi thấy mắt chị đỏ hoe, đang ngồi nói chuyện với mẹ. Chị bảo, mới đi thăm anh về. Tối qua, anh cùng đơn vị hành quân lên tàu vào Vinh rồi từ đó đi bộ qua Hà Tĩnh, Quảng Bình… Tôi chưa đặt chân đến những vùng đất ấy. Nhưng hằng ngày nghe đài, tôi biết đó là vùng đất lửa. Nơi ấy, sự sống và cái chết chen lấn nhau. Sống đấy mà không biết chết lúc nào. Lo cho anh rể, tôi càng thương chị gái. Lấy chồng gần hai năm, nhưng chưa thấm hơi chồng đã phải biền biệt xa. Mẹ tôi bảo, chị lên thăm anh mấy ngày đêm, chẳng biết có “tin vui“ gì không?


Tháng 4 năm 1970, chuẩn bị thi tốt nghiệp cấp 3, tôi nhập ngũ. Sau mấy tháng huấn luyện cấp tốc, đơn vị tôi hành quân vào chiến trường. Đầu năm 1971, chúng tôi đến căn cứ huấn luyện bổ sung cho chiến sỹ mới thuộc Công trường (Sư đoàn) 5 trú quân ở Suối Dù sát biên giới Việt Nam và CPC. Nghe thủ trưởng nói, từ đây về núi Bà Đen (Tây Ninh) không xa.

 


Vào chiến trường, lạ nước lạ gió, lính trẻ ai cũng ”dính“ sốt rét. Tôi bị sốt cao nhiều ngày. Bỏ ăn. Uống nhiều thuốc ký ninh, người như kẻ mộng du. Có ngày nổi điên, tôi đeo ba lô lang thang dọc bờ suối. Tóc bắt đầu rụng và da xanh như màu lá . Một đêm nọ tôi sốt cao, lên cơn ác tính, đồng đội phải khẩn cấp khiêng vào bệnh xá mang tên K30 đóng quân gần đó. Mấy ngày đêm mê man, tỉnh dậy, Nùng, một bạn cùng quê nằm viện trước tôi báo tin. “Mày có biết ai là Nguyễn Kim Chung, dân xã Hải Long không”?. Tôi giật mình. Không lẽ đây là anh rể? Dù đi lại chưa vững, Nùng đã dìu tôi xuống hầm của hành chính bệnh viện. Tôi nhận ra anh rể. Hai anh em ôm nhau, không cầm được nước mắt. Tôi nghe anh rể nói, anh đang làm quản lý hậu cần của bệnh viện. Có lẽ thế, những ngày điều trị tại đây, tôi không chỉ được sưởi ấm bằng tình cảm gia đình mà còn được bồi dưỡng sức khỏe bởi thuốc men, thực phẩm hiếm hoi mà không phải ai lúc đó cũng có được.


Đầu năm 1972, ta mở chiến dịch mới, từ tiểu đoàn 31 tôi được lệnh điều xuống đơn vị chiến đấu- Trung đoàn 174 (Công trường 5) tham gia giải phóng Lộc Ninh rồi tiến về đồng bằng sông Cửu Long. Tôi xin phép đơn vị đến chia tay anh rể. Là người từng trải chiến trường, đêm chia tay, anh đã nói với tôi nhiều chuyện. Tôi nhớ nhất là những kinh nghiệm của anh khi ở mặt trận. Và, hình như anh biết, chia tay khó có ngày gặp lại, nên bịn rịn, không muốn dứt.

Kết thúc chiến tranh, đầu năm 1976, tôi về phép thăm nhà. Ấy cũng là lúc anh Chung đã xuất ngũ về làm việc tại một công ty xây dựng công trình thủy nông của huyện. Sau hơn 10 năm về nhà chồng, chị tôi sinh con đầu lòng. Tôi còn nhớ giáp Tết nguyên đán năm ấy, tôi ra trạm xá “cáng“ chị tôi và cậu bé sơ sinh trên chiếc võng dù, về nhà. Đứa con đầu lòng của anh chị nay đã trưởng thành. Kế tục con đường của cha, cháu vào bộ đội và hiện đang làm việc tại một bệnh viện trung ương quân đội mà thời thành phố giải phóng (30/4/1975), cha cậu đã tiếp quản . Cũng như bao người lính sau chiến tranh, anh rể tôi bươn chải, mưu sinh. Và, có biết bao câu chuyện về anh mà bài viết ngắn vĩnh biệt người đi xa này không kể siết. Chỉ biết anh đa đoan, đào hoa, luôn khát khao cái mới. Và như chúng ta đã biết, có bao nhiêu thế hệ đến với cái mới, họ đã phải trả giá như thế nào ? Điều quan trọng là cái mới ấy thuộc về ai, có đi quá xa quan niệm của người đang sống?!


Do di chứng chiến tranh, anh ngã bệnh đã hơn 3 năm nay. Chừng ấy thời gian, mỗi lần về quê tôi đều đến thăm và chia sẻ cùng anh – người anh – người đồng đội một thời. Anh nằm mê man trên giường, tỉnh dậy, tôi hay đùa: “Đồng chí Nguyễn Kim Chung!“. Anh cố gượng trả lời: “Có tôi đây”. “Đồng chí đã sẵn sàng trở lại chiến trường Miền Đông Nam Bộ chưa”? Anh rể tôi cố lấy giọng: “Báo cáo, tôi đã sẵn sàng”!
Sau Tết Canh Tý vừa rồi, đến chào anh để vào Sài Gòn, em trai tôi- Đại tá Trần Văn Toản cũng hỏi thế, anh cố lấy hơi trả lời: “Tôi …tôi đã …sẵn sàng“.


Và, bây giờ, quả thực anh không những đã sẵn sàng mà còn bay cao, bay xa đến tận những cánh rừng “Miền Đông – gian lao mà anh dũng”. Anh nằm đó trên chiếc giường còn thơm mùi gỗ mà các con anh mới mua, trong tiếng kinh niệm Phật dịu êm phát ra từ chiếc radio đặt đầu giường . Chị gái tôi như tàu lá héo ngồi bên anh, cạnh bát cơm lồng, trái trứng luộc và khói hương nghi ngút.
Tôi mở tấm khăn che mặt, nhìn anh lần cuối. Tôi vẫn như thấy anh mỉm cười và dõng dạc nói: “Có tôi đây. Đã sẵn sàng…” .


Tôi vẫn như thấy anh nơi chiến trường Miền Đông Nam Bộ năm nào – nơi tôi và đồng đội đã trải qua những tháng ngày cam go giữa sống và chết, trong đó có nhiều người như Nùng, như Thiềng, như Thạc… đã mãi mãi đi xa .
Nhân vô thập toàn. Các cụ xưa dạy thế. Anh rể tôi nằm xuống, cũng như mọi người, mang theo cả tiếng bấc, tiếng chì. Không sao ! Mỗi người có cách tiếp cận của riêng mình. Nhìn đồng đội, bạn bè, bà con như dòng sông không ngừng chảy đến tiễn biệt anh, tôi tin nơi chín suối, anh cũng thanh thản yên nghỉ trong vòng tay của tổ tiên, anh em và đồng đội./.

T.B.T

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nỗi lòng Huyền Trân - Tản văn Nguyễn Linh Giang
Trên đường thiên lý Bắc- Nam, đoạn Quốc lộ 1 giao nhau với Quốc lộ 9 đi về hướng Cửa Việt (tỉnh Quảng Trị), có một bảng chỉ dẫn: “Miếu thờ bà Huyền Trân Công Chúa 500 mét”.
Xem thêm
Thầy tôi - Kho báu của tôi
PGS Chu Xuân Diên thuộc thế hệ những nhà nghiên cứu tiếp thu lý thuyết thế giới qua con đường tiếng Nga và tiếng Pháp. Thầy đã tham gia dịch những công trình kinh điển về folklore học mà đặc biệt phải kể đến bộ sách 2 tập rất dày dặn là Tuyển tập V. Ia. Propp - giới thiệu gần như đầy đủ trước tác của một tác giả quan trọng hàng đầu của trường phái Hình thức Nga và nghiên cứu folklore
Xem thêm
“Cú hattrick” của nhà thơ Triệu Kim Loan
Nhà thơ Triệu Kim Loan sẽ ra mắt độc giả ba quyển sách (hai tập thơ: Khát vọng xanh, Đối thoại đêm và quyển Cảm nhận văn chương)
Xem thêm
Đất có thổ công - Tản văn Nguyễn Linh Giang
Nhà văn Nguyễn Linh Giang quê quán tỉnh Quảng Trị, sinh sống và làm việc 30 năm tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hội viên Hội Nhà văn TP.Hồ Chí Minh năm 2022. Nguyễn Linh Giang vừa xuất bản tập tản văn: “Sông vẫn chảy đời sông” (NXB Thanh niên, 2023). Về tập tản văn này, nhà văn Lê Minh Quốc trong “Tựa” viết cho tập sách đã viết: “Dám nói rằng, con người và vùng đất của mỗi địa phương đều đóng góp cho bộ sử của cả nước đầy đặn hơn, phong phú hơn. Mỗi khi chúng ta nói đến lịch sử một dân tộc là cần hiểu rộng hơn bao gồm cả yếu tố văn hóa, phong tục, tập quán, ẩm thực, v.v… của nhiều vùng đất khác gộp lại. Vì lẽ đó, những quyển sách về đề tài này, bao giờ cũng cần thiết, Nếu khi đọc xong, bạn đọc gật gù, tâm đắc: “À, ước chi có dịp đến nơi ấy một lần nhỉ?”. Được thế. Nhà văn đã thành công. “Sông vẫn chảy đời sông” của Nguyễn Linh Giang là một trong những tập tản văn như thế”.Văn chương TP.Hồ Chí Minh xin giới thiệu tản văn Đất có thổ công được rút từ tập “Sông vẫn chảy đời sông” của nhà văn Nguyễn Linh Giang.
Xem thêm
Em đi tát nước… Tản văn của Nguyễn Linh Giang
Tôi lớn lên, vào những năm sau 1975, ruộng đồng vào mùa khô vẫn phải chống hạn bằng xe đạp nước. Có lần, được ngồi xe đạp nước đêm trăng cùng với cô bạn gái tôi mới biết giọt mồ hôi trên sợi tóc mai cùa cô thôn nữ vừa nghe mằn mặn vừa nồng ngầy ngậy, khó tả. Qua bao mùa trăng, tôi vẫn còn mơ được đi tát nước: “Hôm qua trăng sáng tờ mờ/ Em đi tát nước tình cờ gặp anh” (Ca dao).
Xem thêm
Dọc thượng nguồn sông Vàm Cỏ Đông – Ký của Thanh Thảo
Năm 1973, khi tôi từ chiến trường Nam Lộ Bốn (Mỹ Tho) trở về lại cơ quan binh vận ở R, tôi rất phấn khởi vì cơ quan tôi đã dời về đất Tây Ninh, đóng căn cứ ở Bến Tháp ngay sát sông Vàm Cỏ Đông. Đoạn sông này là biên giới tự nhiên giữa Việt Nam và Campuchia, cũng là thượng nguồn sông Vàm Cỏ Đông. Từ Mỹ Tho, trước khi băng qua đồng Tháp Mười lên chiến khu, chúng tôi đã vượt qua sông Vàm Cỏ Tây, bây giờ lại được ở sát sông Vàm Cỏ Đông, thật thú vị.
Xem thêm
Đỗ Nam Cao - Cô đơn và khắc khoải 
Những năm cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chúng tôi cùng sống và chiến đấu trên chiến trường Miền Đông gian lao mà anh dũng. Nhà thơ Đỗ Nam Cao công tác ở Ban Tuyên huấn Trung ương Cục, còn tôi là lính chiến thuộc Công trường 5 (Sư đoàn 5). Rừng Miền Đông bạt ngàn, bom đạn tàn phá, chất độc hóa học trắng rừng, nhưng chúng tôi thường xuyên gặp nhau qua Đài Phát thanh Giải phóng và chương trình Phát thanh Quân Giải phóng miền Nam. Đôi khi, hành quân giữa khuya, nghe đọc bài hoặc ngâm thơ Đỗ Nam Cao trong chương trình văn nghệ, tiếp sức cho cánh lính trẻ chúng tôi xông lên phía trước.
Xem thêm
Nhà thơ Thanh Thảo… Nghĩ
Bây giờ, khi đã ngấp nghé tuổi tám mươi, tôi mới nhận ra, khi mình càng về già thì thời gian trôi càng nhanh. Và thời gian là thứ mình không thể khắc chế được. Việc hôm nay chớ để ngày mai mới làm, vì có khi không kịp.
Xem thêm
Nghệ sĩ Bảo Anh đang trên đường trở về quê nhà
“Một đám rước”, dường như có những tương đồng với “đám rước” khi thân xác nghệ sĩ Bảo Anh được trở về quê nhà, về U Minh, Cà Mau, nơi chôn nhau cắt rốn của anh.
Xem thêm
Vũ Quần Phương tiết lộ chuyện đặc biệt về Xuân Diệu, Chế Lan Viên
Nhà thơ Vũ Quần Phương nhớ lại ký ức về những nhà thơ, nhà văn lão thành như Chế Lan Viên, Tố Hữu, Nguyễn Tuân… thế hệ đàn anh – những người đã “lót ổ” cho thế hệ hôm nay dưới mái nhà văn chương.
Xem thêm
Nhà văn Ma Văn Kháng: Sống rồi mới viết
Trong lớp nhà văn cao tuổi hiện nay, có một người tôi luôn chờ đợi đọc những sáng tác mới của ông. Đó là nhà văn Ma Văn Kháng (sinh năm 1936, tên thật Đinh Trọng Đoàn). Chỉ có điều thời gian gần đây tuổi cao đã khiến ông không viết đều, viết nhiều như trước. Thế nhưng, thi thoảng vẫn được đọc những truyện ngắn mới của ông, hay những bài báo gửi gắm trăn trở, suy tư.
Xem thêm
Cuộc chiến nhân tính – Tiểu luận của Hoàng Thuỵ Anh
Nhà văn Hữu Phương là một trong số những cây bút văn xuôi kỳ cựu của miền Trung, đã khẳng định sở trường, sự điêu luyện khi nhìn sâu và cắt nghĩa tính tàn bạo của chiến tranh thông qua những số phận bị chấn thương, bi kịch.
Xem thêm
Nhớ mãi kỷ niệm với nhà văn Nguyễn Quốc Trung
Qua các nguồn tin, được biết Hội nhà văn thành phố Hồ Chí Minh và Tạp chí Văn nghệ Quân đội chuẩn bị phối hợp tổ chức hoạt động tưởng nhớ nhà văn Nguyễn Quốc Trung sau 2 năm anh rời “cõi tạm” và nhân sự kiện anh được truy tặng Giải thưởng Nhà nước với tiểu thuyết Đất không đổi màu, tôi cảm thấy vui mừng xen lẫn sự bồi hồi, xao xuyến.
Xem thêm
Tàn thu vắng bóng - Tản văn của Đặng Tường Vy
 Châu Âu thật tuyệt với bốn mùa rõ rệt. Mùa nào cũng có nét quyến rũ riêng, làm người tha hương vơi đi nỗi buồn dịu vợi. ..
Xem thêm
Nhớ Nguyễn Quốc Trung
Nhà văn Bích Ngân, Chủ tịch Hội nhà văn TP HCM gọi điện thông báo với tôi về việc Hội nhà văn TP HCM phối hợp cùng Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức tưởng nhớ nhà văn Nguyễn Quốc Trung nhân hai năm ông rời cõi tạm và đặc biệt nhà văn được truy tặng giải thưởng Nhà nước về tiểu thuyết Đất không đổi màu.
Xem thêm
Mùa thu đây hỡi cờ hồng vàng sao – Tản văn của Lê Xuân
Tháng Tám cũng là tháng giữa thu, tháng để các em thiếu niên, nhi đồng phá cỗ trông Trăng, mừng Tết Trung thu, rước đèn, múa lân dưới trăng thanh, gió mát…
Xem thêm
Cửa bể Cần Giờ | Bút ký của Nguyễn Minh Ngọc
Bài đăng Báo Văn Nghệ (Hội Nhà văn VN) số 35+36, ra ngày 2-9-2023
Xem thêm
Tản Mạn Vàm Cỏ Đông - Tùy bút Trần Thế Tuyển 
Có lẽ trên trái đất này, không ở đâu cái giá để có độc lập dân tộc, tự do hạnh phúc lại đắt như ở Việt Nam. Để có hình hài đất nước, vị thế quốc gia như ngày hôm nay đã có hàng triệu triệu người con ưu tú ngã xuống. Máu xương của họ tan biến thành đất đai tổ quốc và hồn của họ bay lên hóa linh khí quốc gia.
Xem thêm