TIN TỨC

Hồi ức chân thực của một người lính thời chống Mỹ cứu nước

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-08-28 09:08:15
mail facebook google pos stwis
4167 lượt xem

NGUYỄN VĂN HÒA

(Nhân đọc tập Ký - Tản văn Tìm dấu chân xưa của Trần Ngọc Phượng, Nxb Hội Nhà văn)

Tìm dấu chân xưa là tập sách thứ 5 của cựu chiến binh Trần Ngọc Phượng. Có thể nói đây là tập sách mà Trần Ngọc Phượng giãi bày được nhiều hơn hết nỗi lòng của anh về những năm tháng gian lao, vất vả trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Những người trực tiếp tham gia chiến đấu như Trần Ngọc Phượng còn sống sót và trở về sau cuộc chiến đó là điều may mắn, là niềm hạnh phúc vô bờ. Bởi còn biết bao nhiêu người đã ngã xuống vì sự bình yên, đẹp giàu của Tổ quốc khi họ chưa kịp gặp lại người thân yêu của họ. Thậm chí có người ra đi mãi mãi, cho đến hôm nay sau nửa thế kỷ vẫn chưa tìm được hài cốt...

Tập sách gồm 16 bài viết ghi lại những cảm xúc chân thực của chính Trần Ngọc Phượng về những năm tháng gian lao mà hào hùng, khi mà cả dân tộc phải oằn mình  tập trung tất cả cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Là người lính, trực tiếp  tham gia chiến đấu trong những năm tháng ác liệt nhất nên những gì Trần Ngọc Phượng viết đều là những điều tâm huyết nhất, thật nhất, sống động nhất... về những gì anh đã trải qua, anh từng chứng kiến và nếm trải. Ở đó là những suy tư rất đời, rất người. Anh nhìn nhận vấn đề một cách thấu đáo và mang tính biện chứng cao. Với anh, nói hết những gì anh biết, anh nghe thấy, anh chứng kiến đó chính là nghĩa cử, là trách nhiệm; phần nào thể hiện sự tôn kính, sự biết ơn đối với nhân dân, bạn bè, đồng chí, đồng đội... của mình.

Những năm tháng ấy, chính là hành trang, là động lực, là sức mạnh, là niềm tin yêu bất diệt để anh sống, chiến đấu và làm việc hết mình cho đến ngày hôm nay. Thế hệ những thanh niên thời chống Mỹ cứu nước như Trần Ngọc Phượng thật đáng để chúng ta trân trọng, ngưỡng mộ và biết ơn. Bởi chính sức trẻ, sự nhiệt huyết và lòng yêu nước các anh đã gác lại mọi cái riêng tư cá nhân để đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc.

Lòng yêu nước đã ăn sâu trong huyết mạch của người lính Trần Ngọc Phượng. Chính điều ấy đã thôi thúc anh sống trọn vẹn bằng ý thức, niềm tin và trách nhiệm công dân cao cả của mình. Phẩm chất của người lính bộ đội cụ Hồ, cốt cách của một người chiến sĩ kiên trung luôn thôi thúc Trần Ngọc Phượng phải sống, chiến đấu, làm việc một cách tốt nhất có thể trong khả năng và sự cố gắng của bản thân mình.

Những điều anh viết về những năm tháng chiến tranh ác liệt ấy, người đọc không khỏi rưng rưng xúc động. Chính người trong cuộc kể lại nên lại càng thuyết phục hơn. Những chi tiết, con người, hành động, việc làm cụ thể và cả những quan sát, theo dõi ở các chiến trường, trận đánh khác... cũng đều được Trần Ngọc Phượng xâu chuỗi và phản ánh một cách rõ ràng, mạch lạc. Tất cả đều như những thước phim tư liệu quý về một thời đoạn lịch sử hào hùng nhưng đầy bi thương. Bởi sự sống và cái chết mong manh, những mất mát về con người không thể nào kể hết, nói hết. Nỗi đau dai dẳng, chất chồng đến thời hậu chiến và sẽ kéo dài... Bởi chiến tranh là đi kèm với đau thương và mất mát. Vết thương chiến tranh, nhất là vết thương lòng sẽ luôn đeo bám với những người thân yêu, ruột thịt và cả những người đồng đội, đồng chí của họ may mắn còn sống đến hôm nay.

“Mậu Thân đi qua. Bao người ngã xuống để tạo ra thế đứng, một thắng lợi chiến lược được mang tính bước ngoặt của cuộc chiến tranh chống Mỹ. Thế đứng ấy là dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ, là dáng đứng hiên ngang của anh giải phóng quân trên đường băng Tân Sơn Nhất...

Tiểu đoàn 605 của tôi vào Nam tháng 9 năm 1965, bổ sung cho Q5 (E5) công trường 5 (F5). Sau các trận Ông Đồn, Núi Đất rồi đến Mậu Thân, sống sót bị thương còn lại không đến trung đội. Có thể tôi là lính thông tin vô tuyến nên may mắn còn sống sót đến bây giờ.

Nhiều xác anh em còn lại trong thành phố. Hàng chục năm sau vẫn chưa tìm được hết các mộ chôn tập thể hàng trăm người ở Huế, ở các sân bay Biên Hòa, Tân Sơn Nhất...

Rung chuyển non sông, chấn động địa cầu

Đồng đội tôi đã hy sinh dũng cảm

Chưa đến được tận cùng chiến thắng

Súng trên tay ôm mảnh đất quê hương

Bao máu xương tạo ra bước ngoặt

Thế tiến công, tạc dáng đứng Việt Nam

Bao xương cốt còn trong lòng đất

Những hố chôn tập thể vẫn đang tìm”.

Những gì anh nói, anh viết đều rất rõ ràng, rành mạch không hề giấu giếm cho dù đó có thể là niềm vui hay nỗi buồn. Với tư cách là một chiến sĩ cách mạng, Trần Ngọc Phượng luôn đấu tranh với bản thân mình trên suốt chặng đường chiến đấu. Đôi lúc quá khó khăn, nguy hiểm, đói rét, bệnh tật, lằn ranh giữa sự sống và cái chết cận kề nhưng không làm anh gục ngã, anh đã vượt qua chính mình để chiến đấu vì một ngày mai tươi sáng...

Trần Ngọc Phượng hồi tưởng: “Mậu Thân để lại bao kỷ niệm sâu sắc trong đời lính của tôi. Năm 1968 tôi được bầu là Chiến sĩ thi đua. Sau đợt xuống đường, tôi được kết nạp vào Đảng đợt 19/5 trong đợt tổng tấn công chồm lên đợt 2. Lễ kết nạp được tổ chức sau trận càn phản kích của địch đánh vào căn cứ Bảo Bình, Long Khánh. Dũng cơ yếu, người bạn thân thiết đã hy sinh ngay cạnh tôi vì mảnh pháo dọn đường của địch xuyên đúng vào tim.

Những năm 1969, 1970, 1971 tiếp theo tình hình rất căng thẳng. Ta lại phải bắt đầu xây dựng các cơ sở bị bể. Mỹ dùng chiến thuật không vận đổ quân bắn phá khắp nơi. Một số người không chịu được cực khổ, ác liệt đã ra chiêu hồi. Bọn chúng khai báo linh tinh, dẫn đường chỉ điểm. Cứ mỗi lần như vậy phải dời cứ đào hầm...

Năm 1972, ta mở chiến dịch Nguyễn Huệ, xe tăng ta đã tấn công giải phóng Bình Long, tạo điều kiện cho việc thành lập Thủ đô Lộc Ninh của Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam và đàm phán tại Hội nghị Paris.

10 năm sống trong rừng, đã đi qua các chiến dịch Mậu Thân, Nguyễn Huệ, lòng bồi hồi xúc động trước cảnh tượng hùng vĩ của những đoàn quân tiến vào giải phóng Sài Gòn trong chiến dịch Hồ Chí Minh 1975. Các đoàn quân nối tiếp nhau trùng trùng điệp điệp, xe pháo ầm ầm tiến vào năm cửa ô trong không khí hào hùng nổi dậy của nhân dân” (Ký ức Mậu Thân).

Thư nhà là bài viết gây được nhiều sự cảm thông và sẻ chia nhất từ bạn đọc. Đó là niềm vui, sự mong mỏi tin tức từ gia đình mà bao nhiêu năm qua Trần Ngọc Phượng không thể liên lạc được (do sự chia cắt và khốc liệt của chiến tranh). Năm 1973, Trần Ngọc Phượng nhận được bức thư của gia đình, tức là sau 8 năm đằng đẵng từ lúc anh lên đường vào Nam chiến đấu, đây là lần đầu tiên anh có thông tin từ những người thân yêu, ruột thịt nhất của mình. Những nét chữ của cha cùng với bao tin tức quý giá về gia đình làm cho tim anh thắt lại vì vui mừng. Cả nhà vẫn khỏe chỉ có điều có nhiều thay đổi sau gần hai đợt chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ.

Là người nặng tình nên Trần Ngọc Phượng không lúc nào nguôi quên, mà lúc nào cũng nghĩ về người thân, gia đình mình ở nơi quê nhà Nam Định. Tháng 9/1965, anh rời Nam Định vào Nam, lúc đó không kịp từ biệt gia đình. Đọc những dòng nhật ký anh viết, làm người đọc không khỏi nghẹn ngào. “Khi đoàn tàu dừng ở ga Nam Định chờ tránh tàu lúc gần 10 giờ tối, thành phố vùa bị Mỹ ném bom, chìm trong bóng đêm. Tiếng còi báo động, tiếng xe cứu thương, tiếng người kêu khóc thảm thiết. Thành phố mất điện, trên trời thỉnh thoảng lóe lên vệt sáng của đạn pháo phòng không, của những ngọn đèn pha. Trên sân ga các đội tự vệ hối hả dọn đống gạch đổ nát, tìm kiếm những người bị thương. Cách đây 2 tháng trong trận ném bom đầu tiên vào Nam Định, địch đã phá hủy kho dầu và giết chết nhiều người dân ở ngay phố hàng Nâu của mình. Từ đây về nhà mình không xa mà không đi được. Khi tàu chuyển bánh, mình ngoái nhìn thành phố nơi gia đình mình sinh sống mà lòng nặng trĩu như đang tuột dần vòng tay gia đình. Nơi ngôi nhà nhỏ cuối phố có bà, ba, chị và hai em mình đang vật lộn với cuộc sống khổ cực trong chiến tranh. Gia đình mình nghèo. Sau khi mẹ mất, ba mình đưa 4 người con từ Sài Gòn ra Nam Định...

Năm 1962 đang học lớp 10 mình đi bộ đội. Tháng 9/1965 tưởng rằng hết nghĩa vụ mình sẽ là quân nhân chuyên nghiệp kiếm tiền phụ giúp gia đình, thì nhận được lệnh vào Nam gấp. Mình ân hận chưa làm gì để phụng dưỡng cha, để thay chị gánh vác gia đình. Mình cảm thấy có lỗi, dù lỗi ấy không phải tại mình. Nỗi niềm ấy cứ day dứt mãi. Cả nước chiến tranh. Mình ra đi nhẹ cánh chim bay, để lại sau lưng cả gia đình với bao khó khăn chồng chất...”.

Chính lá thư nhà của cha làm cho Trần Ngọc Phượng thêm niềm tin yêu và hy vọng. Đó là động lực để anh chiến đấu và sẽ cố gắng sống xứng đáng với niềm tin yêu của gia đình và quê hương.

10 năm trực tiếp tham gia chiến đấu ở chiến trường, tham gia nhiều trận chiến, đi đến nhiều nơi, gặp rất nhiều người, qua nhiều vùng đất, chứng kiến không biết bao cảnh tượng bi hùng... Có lẽ ám ảnh nhất đối với Trần Ngọc Phượng là sự hy sinh của những người đồng chí, đồng đội. Có người đang cùng hành quân bên anh thì bị trúng pháo và gục ngã (Dũng cơ yếu)... Bao nhiêu sự hy sinh dồn dập, có những trận đánh ta tiêu hao lực lượng quá nhiều!

Trần Ngọc Phượng nhớ tất cả từ khi mình bước chân vào Nam cho đến lúc đất nước hoàn toàn độc lập: anh đi những đâu, làm những gì, gặp những ai... và cả những băn khoăn, trăn trở, day dứt, xót thương về những điều đã xảy ra, những thứ đang hiện hữu ở hiện tại. Tất cả được anh kể lại rất cụ thể, chi tiết trong các bài: Tết rừng, Ký ức Mậu Thân, Ngã ba Cây Cầy, Đồng Đội, Thư nhà, Tình rừng, Bà Rịa thân thương, Cảm xúc tháng Tư, Đám cưới lính, Dọc đường miền Trung, Giỗ bạn, Lời thề ấy đi cả đời chưa trọn...

Với Trần Ngọc Phượng, cuộc sống ở rừng vô cùng phong phú: vui, buồn lẫn lộn. Nhưng cái bi thương luôn hiện diện trên mọi bước đường. Trong Tình rừng, có đoạn kể về một câu chuyện đau lòng của chị Chín Nụ. Đọc mà tim tôi nhói đau, nhưng trong hoàn cảnh bức thiết ấy không thể có giải pháp khác hơn. “Năm 1969 lính Mỹ, Úc mở cuộc càn quét lên núi Mây Tào, quyết tiêu diệt bệnh viện K76A và bắt sống thương bệnh binh đang điều trị ở đây. Chúng phục kích bao vây chung quanh chân núi. Đơn vị quyết định mở đường rừng, khiêng cáng dìu hàng trăm thương binh luồn rừng vượt qua vòng vây của địch. Đoàn đi trong đêm khẩn trương và giữ im lặng tuyệt đối. Trong đoàn có chị Chín Nụ bế theo đứa con mới sinh được mấy tháng. Khi gần đến trảng nơi địch đóng quân bỗng đứa bé khóc ré lên. Mọi người nhìn nhau lo lắng. Nếu địch phát hiện thì nguy. Chị Chín Nụ vội bịt mũi đứa bé. Khi vượt qua được vòng vây thì đứa bé đã tắt thở. Chị Chín ôm đứa con khóc ngất. Mọi người nhìn nhau đau đớn...”.

Cái nhìn nhân văn, tử tế, đầy nghĩa khí của người lính được thể hiện rõ nét trong bài Cảm xúc Tháng Tư. Sau chiến tranh, đất nước hòa bình, bao người lính chiến thắng trở về mang trong mình vết thương chiến tranh, di họa chất độc màu da cam vẫn đeo bám và cả những đói nghèo, khó khăn, bệnh tật. Tuy vậy, họ vẫn sống với một niềm tin yêu bất diệt.

Điều đặc biệt, ở tập Tìm dấu chân xưa bên cạnh 16 bài viết bằng văn xuôi thì ở phần phụ lục có 14 bài thơ được Trần Ngọc Phượng viết bằng cảm xúc của một người lính thực thụ, có những bài chép vội trên đường hành quân, lúc nghỉ trưa, hay ban đêm nơi rừng sâu, núi thẳm, ánh sáng hiếm hoi... Những bài thơ chép trên giấy pơ luya mà anh còn giữ lại cho đến hôm nay như là kỷ vật quý của đời lính. Tôi có may mắn được anh trực tiếp cho xem những bài thơ chép tay qua thời gian đã ố màu. Có những bài ghi chép cẩn thận, có những bài thơ chép vội và sửa đi sửa lại nhiều lần. Những dòng chữ ấy là tâm trạng, là cảm xúc và cả những suy tư của một con người luôn sống vị tha, đa cảm. Bài thơ Khóc bạn, Trần Ngọc Phượng viết tặng Dũng, người bạn thân thiết đã hy sinh cạnh anh trong trận chống càn tháng 6/1968 tại Bảo Bình, Long Khánh. Đó là tiếng khóc nghẹn, đau đớn đến sững sờ, thảng thốt! Mới đấy mà bạn đã vĩnh viễn rời xa!...

Dũng chết rồi, Dũng không còn nữa/ Tim không đập và ngực không còn thở/ Dũng chết rồi có phải thật không?/ Gương mặt đây máu vẫn tươi hồng/ Mắt nhắm lại hiền lành như giấc ngủ/ Ta bàng hoàng không sao tin được/ Dũng bỏ mình đi không nói đến một lời/ Hỡi bạn quê hương thương mến ơi/ Ta sống với nhau mấy mùa mưa nắng/ Bom đạn quanh mình sống chết vào ra/ mà nay đành phải cách xa/ Quân thù đã giết bạn ta mất rồi/ Máu xương đồng chí ta ơi!/ Xót xa căm giận sục sôi trong lòng/ Không bao giờ và chẳng bao giờ nữa/ Dù chỉ là trong một phút giây/ Nghe xôn xao quen thuộc đâu đây/ Một điệu dân ca Dũng thường hay hát/ Từ bữa nay cơm ăn, đói, no, mặn, nhạt/ Đường hành quân bão táp mưa sa/ Mỗi dòng sông ta qua/ Mỗi con đường ta bước/ Sao xót xa lòng ta muốn khóc/ Dũng thân yêu, Dũng chẳng còn đâu/ Chỉ còn đây nấm mộ đắp cao/ Chỉ còn đây mảnh đất này Long Khánh/ Mà năm tháng là tình sâu nghĩa nặng/ In dấu chân ta sương gió mấy mùa/ Thắm máu anh em mình vì độc lập tự do/ Ta lao tới quân thù/ Đuổi không còn tên xâm lược/ Đất nâng chân ta đất nóng bỏng căm hờn/ Đau thương không làm ta rơi nước mắt/ Món nợ này không thể nào quên.

Xuyên suốt trong Tìm dấu chân xưa của Trần Ngọc Phượng là bối cảnh của cả một thời kỳ lịch sử biến động và không thể nào quên. Vẻ đẹp tính cách, lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc được thể hiện rõ nét qua từng con người, từng số phận và của cả một dân tộc. Ở đó, là hình ảnh những chiến sĩ chiến đấu hết mình vì nền độc lập tự do cho Tổ quốc, những bà mẹ, những ông bố, những người dân luôn che chở, đùm bọc, giúp đỡ... góp phần làm nên cuộc kháng chiến thắng lợi hoàn toàn. Giờ đây, khi đất nước đã hòa bình, có độ lùi về thời gian, người chiến sĩ Trần Ngọc Phượng thuở nào vẫn nhớ như in từng thời khắc, từng dấu mốc, từng kỷ niệm vui buồn của đời lính...

Đại thắng mùa xuân 1975, đã mở ra một trang sử mới, Bắc - Nam sum họp một nhà, giang sơn thu về một mối, niềm vui như vỡ òa... Nhưng những vết thương chiến tranh vẫn còn đó, công lao, máu xương của các anh hùng, sự đùm bọc, cưu mang, chở che của nhân dân, sự hy sinh vô bờ của những người thân yêu ruột thịt... vẫn luôn nhắc nhớ mỗi người trong chúng ta phải luôn biết ơn, phải luôn phấn đấu để sống có ý nghĩa ở cuộc đời này.

Trong phần cuối của Thư nhà, Trần Ngọc Phượng giãi bày trong đẫm đầy nước mắt: “Chiến tranh rồi cũng qua. Hai năm sau, từ thành phố Sài Gòn sau giải phóng còn gần như nguyên vẹn, mình lên tàu Thống Nhất về thăm gia đình. Mọi người trong gia đình ôm chầm lấy nhau mà khóc. Thành phố xơ xác tan hoang sau chiến tranh, vẫn chưa kịp thu dọn. Nhà ga đổ nát. Tòa Thị chính nơi có 3 con rồng phun nước bị phá hủy hoàn toàn. Tòa nhà Câu lạc bộ có kiến trúc rất đẹp bên đường, chỉ còn đống gạch vụn. Nhưng may sao vẫn còn nguyên vẹn cột cờ biểu tượng của thành phố. Lá cờ hiên ngang tung bay trước gió trong tiếng còi tầm quen thuộc giữ nhịp sống của thành phố Dệt. Cuộc sống mới không kém phần cam go lại bắt đầu.

Nửa thế kỷ đã trôi qua. Bà, ba, chú em út, nhiều người thân trong gia đình và bạn bè mình đã thành thiên cổ. Mỗi lần về quê mình thích đạp xe đi quanh các phố: “Thành phố như bàn tay/ Ta ấp vào lồng ngực/ Đường phố như chỉ tay/ Dọc ngang trong ký ức”. Mình đi dọc sông Đào, con sông đã chảy qua một thời tuổi thơ gian khó ấm áp tình thương của mình. Con sông nay vẫn mải miết như xưa những cảnh vật đã có nhiều thay đổi: “Con sông bây giờ, cũng đã khác xưa/ Không còn Bến Nứa, không còn con đò/ Mộ Bà, mộ Cha bên sông lộng gió/ Chỉ còn nỗi nhớ, mênh mang đôi bờ””.

Người cựu chiến binh Trần Ngọc Phượng khẳng định bằng những lời tâm huyết. “50 năm đã trôi qua. Những người lính Mậu Thân còn sống sót đang sống những ngày cuối đời hiểu hơn ai hết: Có Mậu Thân, Mỹ mới xuống thang đàm phán. Có 81 ngày đêm Thành Cổ Quảng Trị, có 12 ngày đêm Điện Biên Phủ trên không đánh bại cuộc tập kích máy bay B52 của Mỹ vào Hà Nội mới có Hiệp định Paris. Có 30 năm kháng chiến trường kỳ với bao hy sinh không thể kể xiết của toàn dân tộc mới có Đại thắng mùa Xuân thống nhất đất nước năm 1975. Không ai quên và được phép lãng quên lịch sử”.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm
Nhà lý luận phê bình Đỗ Nguyên Thương và tập thơ “Tìm về miền ký ức”
Tôi quen nhà giáo, nhà Lý luận Phê bình văn học Đỗ Nguyên Thương thật tình cờ trong buổi Tọa đàm về Thơ 1-2-3 do nhà thơ Phan Hoàng chủ trì có sự phối hợp của Hội nhà văn Cần Thơ và khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn tường Đại học Cần Thơ.
Xem thêm
Tư tưởng nhân dân anh hùng
1. Vì tình yêu quê hương đất nước, Trần Bảo Định đến với văn chương. Nhà văn Long An để lại dấu ấn đáng kể trong sinh hoạt văn chương từ những năm 2010 đến nay. Bên cạnh bộ sách Đất và người Nam Bộ mến yêu gồm 14 tập truyện ngắn, Trần Bảo Định còn có 6 tập thơ, 5 tập tiểu luận phê bình. Năm 2024, nhà văn trình làng tuyển tập Đất Việt trời Nam liệt truyện gồm 3 tập (thượng, trung, hạ) do Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành. Tái hiện diễn trình lịch sử vùng đất Nam Bộ từ hồi một 1620, hồi hai 1859, đến hồi ba 1900, tuyển tập có thể xem như trường thiên tiểu thuyết ca ngợi tinh thần đấu tranh yêu nước anh dũng của nhân dân Nam Bộ, như lời giới thiệu của Nhà xuất bản: “Chính các anh hùng vô danh mới thể hiện toàn bộ chủ đích nghệ thuật của Trần Bảo Định, cho thấy tư tưởng: nhân dân anh hùng!”
Xem thêm
Thơ tình Nguyên Bình đắm đuối
(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Các nhà thơ từ cổ chí kim không nhiều thì ít đều viết thơ tình, điều đó không có gì lạ; vì tâm hồn họ lãng mạn, mơ mộng, tôn thờ phái đẹp. Nhà thơ Nguyên Bình không nằm ngoài số đó. Anh viết văn làm thơ từ thời sinh viên, cả trước và sau năm 1975. Những bài thơ tình, anh không dám trao tay cô nữ sinh xinh đẹp xứ Huế anh yêu say đắm: Vẫn mãi “Là bài thơ còn hoài trong vở/Giữa giờ chơi mang đến lại mang về” thơ Đỗ Trung Quân.
Xem thêm
Mỹ cảm của kiểu tự sự trong suốt trong tập tản văn “Nỗi buồn trong suốt” của Nguyễn Đức Phú Thọ
Tản văn là một thể loại dễ tiếp cận với mọi mặt của đời sống thông qua những lát cắt hiện thực, nhưng trung tâm tinh thần của thể loại này lại là cái tôi tư tưởng, cảm xúc của người nghệ sĩ. Tản văn vừa đậm chất trữ tình, vừa mang bản chất tự sự. Mỗi tác phẩm là một cách diễn giải về “Thế giới như tôi thấy”, đồng thời cũng là một tấm gương phản chiếu cấu trúc nội tâm của nhà văn.
Xem thêm
Cảm nhận thơ Trần Xuân Hóa từ một góc nhìn đa cảm
Bài viết của nhà thơ CCB Trần Trí Thông
Xem thêm
Hơi thở đất quê trong miền nhớ của Huỳnh Khang
Chủ đề và nội dung trong MIỀN NHỚ xoay quanh ký ức quê hương, tình mẫu tử, nghĩa làng nghĩa xóm, thiên nhiên, tình yêu đôi lứa, nỗi buồn mất mát, cùng những triết lý đời thường.
Xem thêm
Tiếng văn từ phía “bạn nguồn”
Nguyễn Minh Sơn, Hồ Tấn Vũ và Nguyễn Thị Như Hiền là ba cây bút thuộc thế hệ 7X và 9X
Xem thêm
Về trên dặm trường thiên lý “Miền Ô châu”
Tiếp theo các cuốn tản văn Sông vẫn chảy đời sông (NXB Thanh Niên 2023), Bốn mùa thương nhớ (NXB Thanh Niên 2024), nhà văn Nguyễn Linh Giang vừa ra mắt cuốn tản văn mới: “Miền Ô Châu” (NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2025).
Xem thêm
Thơ ca chào đón Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Cách mạng tháng Tám - 1945 thành công, mở ra trang sử vàng chói lọi cho dân tộc. Bác Hồ đọc “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập. Hai tiếng Việt Nam vang lên đầy phấn khởi, tự hào trên trường quốc tế, đã khơi nguồn, làm bừng dậy biết bao cảm hứng về thơ ca, nhạc, họa thật mới mẻ, mãnh liệt và sôi nổi, làm không khí văn nghệ đổi sắc thay da. Từ đây nền văn học của ta chỉ còn duy nhất một trào lưu là văn học cách mạng.
Xem thêm
Hồi hộp trước “phút bù giờ” của Minh Đan
Ngôn ngữ của Minh Đan đôi lúc không còn chỉ là ký tự để giải nghĩa, mà là vật liệu có tâm hồn – biết khít lại, giãn ra, để tạo hình tượng và âm thanh.
Xem thêm
Phát triển
Nội dung quyết định hình thức. Xét cả quá trình văn học lâu dài, các hình thức tác phẩm kế tiếp nhau xuất hiện, tác động vào nền văn học, góp phần tạo ra phát triển văn chương. Bài viết chỉ đề cập đến chủ đề này của cuốn sách.
Xem thêm