TIN TỨC

Mặc khải “tượng mồ” | Lê Xuân Lâm

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2021-11-02 12:11:13
mail facebook google pos stwis
2372 lượt xem

LÊ XUÂN LÂM

Đây là bài thơ “tượng mồ” của nhà thơ Văn Công Hùng:
 

tượng mồ
 

Chiều như lửa đốt lòng nhau

tượng mồ run rẩy về đâu kiếp người

 

đã đành hồn sẽ rong chơi

đã đành xác đã tơi bời gió sương

mà còn đây nỗi vấn vương

mà còn đây nhớ với thương một đời

nỗi đau khóc chẳng thành lời

lặn vào thớ gỗ ru người – người ơi

hoang sơ

chiều rót đầy vai

ché và chiêng

và đầy vơi rượu cần

nằm đây một nắm xương tàn

đứng đây tượng hát một ngàn lời yêu

chiều ơi chiều

chiều ơi chiều

cho tôi cùng hát tình yêu một đời

Chư Đrăng, 1990.

Trước hãy nói ngay, là bài thơ “tượng mồ” mà tôi dẫn ra đây, được rút từ trong tập thơ “bến đợi” của Văn Công Hùng, do Hội VHNT Gia Lai xuất bản năm 1992, trang 24 - 25...

Nhưng có lẽ, theo thiển nghĩ của tôi, không phải “rút từ trong tập thơ“bến đợi”, mà phải hiểu và nói rằng, “tượng mồ” là một bài thơ nhỏ, được rút ra từ bài thơ lớn:“bến đợi, mới đúng. Ai quan tâm đến thẩm định ý kiến này của tôi, xin hãy tìm đọc “bến đợi”. Phần mình, tôi muốn để một dịp khác sẽ tiếp tục quay lại tập thơ đầu tiên này của Văn Công Hùng(1). Ở đây, chỉ xin lưu ý, rằng “tượng mồ” được tôi dẫn trích nguyên bản, từ chữ viết hoa, không viết hoa, cách dòng, viết nghiêng… như trong sách. Vì “trình bày và sửa bản in” sách này là chính tác giả. Và bởi vì hình thức trình bày tập thơ, chữ viết của thơ in trong sách… thảy đều mang thông điệp nội dung ngữ nghĩa của tập thơ...

Chớ có để sót, chớ có bỏ qua! Vậy mà...

1. Mặc khải!...

Và xin các bạn yêu thơ hãy đọc “tượng mồ”đi …

Với tôi, từ lâu, ngay lần đầu đọc xong “tượng mồ”, tôi đã kêu lên, “Đúng là Mặc khải“tượng mồ” !” Nay ở đây, tôi vẫn chỉ biết kêu lên như thế!

Nhưng kêu thế thì chắc chỉ TƯỢNG MỒ mới hiểu tôi kêu gì về CÂY “tượng  mồ” mà nhà thơ đã dựng lên trong cái buổi xế chiều, giữa một mùa LỄ HỘI BỎ MẢ (đồng bào gọi là “pơ thi”) ở “Chư Đrăng…” năm ấy… mà thôi!...

Cho nên…, là tôi mong muốn để những ai đọc bài thơ này, cũng sẽ cùng mặc khải với tôi, nên tôi thấy cần phải nói đôi chút về TƯỢNG MỒ và về cả LỄ HỘI BỎ MẢ kia nữa. Vì đó chính là từ một hiện thực thơ (lễ hội bỏ mả), mà đối tượng thơ (tượng mồ) đã được điển hình hóa thành một hình tượng thơ (“tượng mồ”), của nhà thơ (Văn Công Hùng), bằng bài thơ này. Vì nếu không, tôi dám chắc phần đông người đọc bài thơ này sẽ khó có thể cảm nhận đủ được “tượng mồ” là một bài thơ hay đến như thế nào! Đơn giản là bởi TƯỢNG MỒLỄ HỘI BỎ MẢ chính là một đặc sản đặc trưng nhất, tiêu biểu nhất… cho văn hóa của đồng bào các dân tộc ít người Tây Nguyên (từ đây, tôi xin gọi là người Thượng); nhưng nó không phải là một phổ thông, để ai cũng dễ dàng cảm thụ và thức nhận ngay được.

…Vâng, là tôi muốn nói, ai đã lên Tây Nguyên, đúng “mùa con ong đi lấy mật”, nhất là thời cách đây dăm ba chục năm trở về trước, hay ít nhất cũng là vào thời điểm nhà thơ viết bài thơ này, thì dù nghỉ đêm tại thị trấn, thị xã, thành phố... xa làng bản của đồng bào, nhưng đêm đêm cũng vẫn có thể nghe thấy tiếng cồng chiêng, từ bốn phía rừng vọng đến. Càng về khuya tiếng chiêng nghe càng sâu lắng… rồi lịm dần như khúc cuối một bản bi - tình bolero…

Đó chính là tiếng cồng chiêng từ LỄ HỘI BỎ MẢ, thường diễn ra trong ngót ba tháng trời, của người Thượng. Càng về những đêm cuối mùa khô ấy, tiếng cồng chiêng càng dày đặc hơn, càng gấp gáp ngân vang… sâu… xa hơn.

Bởi đó là khi LỄ BỎ MẢ đã rộ mùa HỘI lớn.

Nhưng bỏ mả là gì? Hiểu đơn giản thì bỏ mả tức là bỏ ma, là không nuôi ma - là người chết, là không giữ mả - của người đã chết chôn dưới mồ nữa. LỄ BỎ MẢ là một truyền thống văn hóa xưa, vẫn tồn tại đến nay, trên nền tảng của một quan niệm nhân sinh của người Thượng, về sự sống và cái chết.

Theo người Thượng, ai sống cũng đều do bởi có xác và hồn. Nhưng khi người ta chết, là chỉ xác chết đã và sẽ... dần dần tan mất trong đất, nhưng còn hồn thì vẫn sống, không bao giờ mất (không chết). Khi đã chết, người chết hóa thành ma, gọi là Atâu; có hồn, gọi là hồn ma. Và ma vẫn sống quanh quẫn nơi mộ phần. Vì vậy, sau khi chôn cất người đã chết, người nhà thường dựng một ngôi nhà che mưa nắng cho phần mộ, gọi là nhà mồ, để ma ăn ở. Hằng ngày, người thân của ma vẫn đem cơm nước cho ma ăn uống (một cách trực tiếp, bằng đưa thẳng xuống dưới mộ qua một cây ống nứa, hay lồ ô đục lủng mắt...), vẫn quét dọn nhà mồ sạch sẽ cho ma nghỉ ngơi, vẫn khóc hờ than thở chuyện trò cho ma nghe…mãi cho đến khi (có thể đến nhiều năm sau), khi đã làm LỄ BỎ MẢ cho ma mới thôi.

Thôi, là từ sau LỄ BỎ MẢ, tức là sau việc bỏ mả được thực hiện, được làm xong rồi… là sau cuộc LỄ vĩnh biệt nhau mãi mãi rồi... thì người sống và người chết sẽ không bao giờ gặp lại nhau nữa. Cũng từ sau LỄ BỎ MẢ đó, “Cái chết được hồi  sinh” và “Người sống được giải phóng”(2). Hãy nhớ, “cái chết” chứ không phải “người chết”; “hồi sinh” chứ không phải “sống lại”. “Cái chết được hồi  sinh” nghĩa là theo quan niệm mang ý nghĩa triết học nhân sinh nói trên của người Thượng, thì hồn người chết, tức là ma, sau LỄ BỎ MẢ, sẽ mới được đến sống cùng tổ tiên, trong thế giới ma của họ; để rồi từ miền đất đó, hồn lại lần hồi chuyển hóa trở về, nhập vào một đứa trẻ nào đó, để lớn lên thành một người sống thực...

Cũng sau LỄ BỎ MẢ, thì “Người sống được giải phóng”. Tức là người sống sẽ bỏ cả ngôi nhà mồ và cốt xác người đã chết chôn dưới mả đó cho “rừng ăn”, dứt khoát không nhớ nhung, vướng bận gì với người chết nữa cả...

BỎ MẢ - một vĩnh biệt chung cuộc lớn lao như thế, đến thế… thì phải thực hiện cho đúng với ý nghĩa trọng đại và đầy nhân văn của nó chứ?!...

Cho nên, để bỏ mả, người ta phải mất cả tháng trời cất công dựng lại nhà mồ, sao cho thật đẹp…. Quanh và trong nhà mồ đó, TƯỢNG MỒ là “nhân vật” trung tâm, được tạc ra từ thân gỗ cây rừng và được dựng lên tại khu nhà mồ. TƯỢNG MỒ gồm nhiều loại, có tượng hình người, có tượng hình vật…,mà tâm điểm của các loại TƯỢNG MỒ là tượng tạc hình người, bằng rìu và rựa, theo lối biểu trưng thôi, nhưng vẫn gợi tả cực kỳ sống động về cuộc đời thực, mà người sống đang sống, mà người chết đã từng sống qua, cho đến khi phải mãi mãi vĩnh biệt nhau hôm nay...

Bởi vậy, có thể nói, TƯỢNG MỒ chính là “nhân vật” trung tâm của nhà mồ và của LỄ BỎ MẢ…

2. Thông điệp tư tưởng nhân – sinh...

Bài thơ “tượng mồ” khắc họa khoảng khắc TƯỢNG MỒ - hình tượng thơ trung tâm của bài thơ - buộc phải từ biệt thế giới CON NGƯỜI, trong ánh hoàng hôn của một buổi chiều tà sau cuối, để đi vào miền miên mãi …

Hãy nghe 2 câu mở đầu bài thơ về cuộc chia ly mặc khải này:

“Chiều như lửa đốt lòng nhau

tượng mồ run rẩy về đâu kiếp người”

Có một câu hỏi, không dấu hỏi, như một khắc khoải vô biên của “tượng mồ” cứ nhoi nhói mãi lên... Câu hỏi buông vào cả một chiều hoàng hôn sẫm đỏ… trước một cuộc chia ly đã biết là mãi mãi… khiến lòng tôi đau thắt… “Chiều như lửa đốt…” Câu thơ phác một nét tả thực, cái khoảng khắc hoàng hôn ánh lên, cả một vầng sáng đỏ, trước lúc rồi sẽ chìm lấp hẳn sau cánh rừng xa... Sắc đỏ tứa lên đó từ đâu?

Bạn nhớ luật tán sắc của ánh sáng chứ? Chính là nó đấy! Chính là cái ánh sáng chiều hôm kia (nắng quái), đã tán sắc qua ẩm khí trên ngọn rặng rừng xa, là cái ẩm khí vừa tích tụ được trong suốt một ngày nắng gió cao nguyên, đang xông bốc lên… đã tạo ra… và hắt lên cái ánh sáng màulửa kia đấy…

Đúng vào cái khoảng khắc ma hồn ngời hắt lên sắc đỏ chia ly ấy, “tượng mồ” đã “run rẩy” cất lên cái câu hỏi “về đâu kiếp người”…

Hẳn là “tượng mồ” không chỉ hỏi cho chính mình, mà còn cho cả người còn sống nữa. Thực ra thì có lẽ câu hỏi ấy chắc đã nấu nung, khắc khoải trong lòng “tượng mồ” từ lâu lắm rồi. Không thế thì không thể khiến lòng “tượng mồ” nóng “như lửa đốt”, thân “tượng mồ”“run rẩy” một niềm đau thương, tiếc nhớ đến nhường kia… “Chiều như lửa…”, câu thơ thực cảnh; “… đốt lòng nhau”, chuyển sang thực trạng, và lại kéo theo đó nữa là quan hệ người ở - người đi… khiến tôi thấy cứ hực mãi lên trong lòng “tượng mồ”là cả một niềm khát khao, mong ước...

Nhưng không phải là mong cho qua, mà là ước cho nó đừng đến… cái chiều chia xa miên mãi… này...

“Chiều như lửa đốt lòng nhau

tượng mồ run rẩy về đâu kiếp người”

Hai câu thơ chỉ tập trung đặc tả một khoảng khắc thôi – đó là ánh xế chiều, một hành động nhân vật thôi – đó là “tượng mồ”, một tâm trạng thôi – đó là sự chia ly, một tình cảm thôi – đó là niềm tiếc thương… nhưng nó gợi lên tất cả không gian, thời gian của tồn tại, mang tầm vũ trụ nhân sinh của kiếp người, vẫn còn mãi đó, những luân hồi cuộc sống và cái chết, với một câu hỏi “về đâu”, đến đâu…, sẽ không bao giờ tìm thấy lời đáp!...

Trở xuống, “tượng mồ” nhọc nhằn thê lương… thấp cao thập thững… “đành lòng vậy, cầm lòng vậy”… bước…bước đi… những bước độc thoại cuối cùng… vào hoàng hôn… mà ai cũng đều có thể nhìn thấy rất rõ… có biết bao nỗi niềm trào lên… từ biết mấy nỗi lòng của “tượng…” !...

“đã đành hồn sẽ rong chơi

đã đành xác đã tơi bời gió sương

mà còn đây nỗi vấn vương

mà còn đây nhớ với thương một đời

nỗi đau khóc chẳng thành lời

lặn vào thớ gỗ ru người – người ơi”

Rồi đột nhiên, câu thơ lục bát đang giữ nhịp tự tình, độc thoại, bỗng chuyển vần, phá cách:

“hoang sơ

chiều rót đầy vai

ché và chiêng

và đầy vơi rượu cần

nằm đây một nắm xương tàn

đứng đây tượng hát một ngàn lời yêu

chiều ơi chiều

chiều ơi chiều

cho tôi cùng hát tình yêu một đời”

Ấy là “tượng mồ” cho tôi biết thời gian của cuộc tiễn đưa, đã đến sát vách ngăn cách cuối cùng, với thẳm sâu không gian của cuộc đưa tiễn.

Bạn hãy đọc đi, đọc đi.. Hãy đọc những câu thơ trên bằng chất giọng trầm thống nhất có thể, thì bạn sẽ nghe thấy điều tôi vừa nói. Nhất là đọc cho được tiếng đồng vọng của hai câu thơ này:

“chiều ơi… …

chiều/…

chiều ơi… …

chiều/…

Đó! Bạn nghe thấy gì chưa… nếu không phải là những tiếng gọi nhau đồng vọng qua vách ánh đỏ chiều ngăn cách đang dần đổ xuống thì là gì?! Mà ai gọi ai ở đây nữa nếu không phải là người đã chết, là “tượng mồ” đang đi vào ánh chiều tà… nhưng vẫn mãi ngoái lại thao thiết gọi ta, những người còn sống; là cả ta nữa, những người đang sống, dù đớn đau níu giữ “nhớ với thương một đời”, vẫn không thể không xuôi tay thất thần buông bỏ…với chỉ còn giữ lại… là ánh nhìn tình yêu của mình… đã vuột đi mất khỏi cuộc sống này…

Qua chiều sẽ là tối, là sự chết, người sống biết thế!...

Qua chiều sẽ là sáng, là sự sống, người chết biết thế!...

Chao ôi! Mặc khải “tượng mồ”!

Vâng! Đúng làMặc khải“tượng mồ”!

…Và… Cuối cùng thì nhân vật trữ tình của thi phẩm “tượng mồ” cũng không thể ngồi yên bên ché rượu cần, khuất lấp đâu đó bên ngôi nhà mồ được nữa.

Khúc tiễn đưa dù bi thiết nhất cũng đã qua rồi, phải đổi giọng, chuyển nhịp, để cuộc sống lại tiếp tục cái trật tự muôn thuở của nó. Đúng lúc này, thể thơ lục bát, với câu bát nhịp 2, lại trở lại làm câu kết bài thơ:

“cho tôi cùng hát tình yêu một đời”
 

3.Khúc khải ca mặc tưởng...

Giờ là lúc tôi muốn nói thêm, rằng mới đây tôi được biết, Trường Cao đẳng Sư phạm Gia Lai đã đưa bài thơ “tượng mồ” của nhà thơ Văn Công Hùng vào giảng dạy cho sinh viên. Tôi nghĩ đó là một việc làm đúng, hay và rất tốt, bởi cái thông điệp tư tưởng của bài thơ, chính là động cơ tôi muốn được góp lời bình ở trên. Đến đây,tôi cho là theo cách của riêng mình, mỗi người đọc rất cần và phải trả lời cho được câu hỏi “do đâu mà bài thơ “tượng mồ” đã tạo ra được khúc khải ca mặc tưởng ấy?

Hãy hỏi, nhân vật trữ tình đó là ai? Và quan trọng hơn, đến đây, là câu hỏi cần có câu trả lời xác đáng, để có xác tín, là vì sao đọc bài thơ “tượng mồ” của Văn Công Hùng, tôi lại có thể có được cảm nhận thẩm mỹ như đã trình bày ở trên !?

Xác tín là khi và chỉ khi nào ta chứng minh được “cơ sở vật chất” (về hiện thực tồn sinh, là bỏ mả và Lễ Hội bỏ mả), để có cảm nhận tinh thần, tình cảm (về hiện thực thơ) nói trên... thì người đọc bài này mới “cóthể tin được” vì sao tôi gọi“tượng mồ”là một “khải ca mặc tưởng”.“Cơ sở vật chất” nói đây chính là nói đến Lễ hội bỏ mả kia, chứ không phải nói về ngôn ngữ, như là công cụ của Thơ, tức là bảochưa cần nói đến nghệ thuật ngôn ngữ thơ,trong Thi pháp của nhà thơ. Vì bài thơ “tượng mồ” gần như không dụng công cho nghệ thuật ngôn từ, thậm chí là cả về phá cách niêm luật thơ, tức là về Thi pháp, mà cốt chú tâm vào tư tưởng nhân sinh.

Ở bài thơ “tượng mồ”, thông điệp tư tưởng nhân – sinh mà bài thơ muốn chuyển tải đến độc giả là vấn đề cốt yếu. Thi pháp chuyển tải quan điểm triết học nhân sinh của người Thượng mới thật nhân văn làm sao!

Để kết thúc bài viết này, tôi muốn bạn đọc biết thêm bài thơ Pơ thi” mà Văn Công Hùng đã đăng ngay sau bài “tượng mồ” trong tập thơ nói trên:

Pơ thi
 

Chợt tan ra khoảng khắc hoàng hôn

dòng chiêng xoáy vào từng thân tượng gỗ

những bước chân giật lùi trên cỏ

tay trong tay hồn lại gặp tâm hồn

 

chẳng có gì là thật ở nơi đây

cũng chẳng có gì là ảo

tất cả cứ phơi ra như người ta phơi áo

ta lại gặp mình sau bao năm tháng cách xa

 

để rồi ngày mai lại phải chia xa

thì rượu ơi đêm nay đừng bao giờ cạn

cả ngọn lửa cũng đừng bao giờ tắt

đêm dài ra nối những tâm tình

 

có một đêm nay để ta gặp lại mình

kể hết đi những điều chưa biết

người đang sống nói với người đã chết

âm thanh chiêng công ngấm rượu ngả nghiêng

 

từng góc cạnh cuộc đời hiển hiện ở nơi đây

mọi sắc thái tâm tư lồng vào thớ gỗ

tượng mồ đứng lặng im mà dào lên sóng vỗ

nỗi đau lặn đi cho tuyệt tác phơi bày

 

Pơ thi – tôi gặp ở nơi này

nghệ thuật xoay nỗi đau vào trong ruột gỗ

để tài hoa của người cứ hiện lên rực rỡ

ở phía ngoài bức tượng trầm tư

                                           Tháng 5.1986

L.X.L.

________

(1) Tôi đã đọc, đã viết, cũng khá nhiều về thơ Văn Công Hùng. Đặc biệt quan tâm của tôi là nghệ thuật thơ, phong cách thơ của nhà thơ này. Nhưng vẫn thấy còn cần phải chờ đợi thêm ít lâu nữa, mới có thể đi đến khái luận về một phong cách thơ Văn Công Hùng. Bằng chứng là vài năm trở lại đây, thơ Văn Công Hùng ngày một mới hơn, độc đáo hơn, hay hơn nhiều.. nên tôi chưa từng dám công bố gì ở đâu cả, những bàn luận của tôi về thơ Văn Công Hùng. Ngay cả bài viết góp lời tham khảo với các Thầy - Cô giáo giảng bài thơ “tượng mồ”này, tôi cũng viết rồi để đấy… đến nay mới chuyển đăng,..., như một thư ngõ gửi các Thầy –Cô..., như một ngỏ lờitri ân nhà thơ đã cho tôi đọc nhiều thi phẩm rất hay của ông...

(2) TS. Ngô Văn Doanh – LỄ HỘI BỎ MẢ BẮC TÂY NGUYÊN, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội-1995.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Minh Châu và sự đổi mới tư duy trong việc phản ánh hiện thực chiến tranh cách mạng
Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Sự nghiệp văn học của ông không chỉ gắn liền với cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc ở những năm kháng chiến mà còn gắn với những tháng năm đầy ưu tư của thời hậu chiến với bước chuyển dạ diệu kỳ, chuẩn bị cho tiến trình đổi mới đất nước về mọi phương diện, trong đó có văn học.
Xem thêm
Hữu Thỉnh và chiến sĩ xe tăng
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước gian nan khốc liệt của dân tộc Việt Nam trong gần một phần tư thế kỷ như một bản trường ca âm vang giai điệu trầm lắng bi hùng, đã phản ánh phẩm chất cao đẹp sáng ngời của mọi tầng lớp nhân dân ở cả ba miền. Những người tham gia vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc, cầm súng trực diện đấu tranh với quân thù có những chiến sĩ làm văn nghệ thuộc đủ binh chủng như: Nguyễn Thi (1928-1968), Lê Anh Xuân (1940-1968), … và Hữu Thỉnh. Trong đó, xuất thân từ một chiến sĩ xe tăng, Hữu Thỉnh được coi là một gương mặt thơ xuất sắc nổi trội trong nền văn học có lửa của giai đoạn 1954-1975.
Xem thêm
Lê Quang Sinh và nghệ thuật phê bình thơ
Bài viết của PGS.TS Hồ Thế Hà
Xem thêm
Anh nằm đây – trẻ mãi tuổi hai mươi
Bài viết về thơ Trần Ngọc Phượng
Xem thêm
Lê Tiến Vượng và hai tập lục bát liền hơi
Bài viết của nhà thơ Vũ Quần Phương về hai tập lục bát của Lê Tiến Vượng xuất bản cuối năm 2016 (Lục bát khóc cười) và cuối năm 2018 (Lục bát phố).
Xem thêm
“Gặp” lại nhà văn Lưu Thành Tựu với “Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5”
Nhà văn Lưu Thành Tựu hiện là phó ban điều hành phân hội văn học, hội văn học nghệ thuật Bình Dương. Truyện ngắn Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5 của anh là tác phẩm đạt giải tại Cuộc thi truyện ngắn Đông Nam bộ năm 2022, đã đăng trên vanvn.vn và Tạp chí Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh như một sự ra mắt sau khi tác giả được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam.
Xem thêm
Chất Folklore trong Lục bát khóc cười và Lục bát phố
Cầm hai tập thơ thuần thể loại lục bát quen thuộc, nghĩ đọc cũng hơi ngại bởi cứ đều đều một điệu, dễ chán. Nhưng đọc một vài bài mở đầu trong tập “Lục bát khóc cười” và “Lục bát phố” của Lê Tiến Vượng thì cảm giác ấy dần mất đi và thay vào đó là cảm giác hào hứng và thú vị.
Xem thêm
Trăn trở sự tồn tại người - Gía trị nhân bản trong thơ Văn Cao
Đọc thơ Văn Cao, ở nhiều thi phẩm như: Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Những người trên cửa biển, Khuôn mặt em, Một đêm đàn lạnh trên sông Huế, Lá, Trôi, Thời gian, Cánh cửa, Thu cô liêu, Năm buổi sáng không có trong sự thật, Ba biến khúc tuổi 65, Linh cầm tiến… bạn đọc cũng có thể thấy sự đa dạng cung bậc cảm xúc, có xôn xao, có sâu lắng bâng khuâng… nhưng dường như chủ đạo vẫn là những thì thầm tự vấn, suy tư trăn trở, đau buồn và thậm chí nhiều khi hoang mang, kinh hãi, lo âu. Phải chăng, tất cả những thể nghiệm cảm xúc nội tâm ấy bắt nguồn sâu xa từ những “chấn thương” tinh thần của tác giả bởi tác động của hoàn cảnh sống? Và dưới tầng sâu lớp ngôn từ của mỗi thi phẩm ẩn giấu bao mỹ cảm mà chúng ta cần suy ngẫm“giải mã”?
Xem thêm
Nguyễn Trọng Tạo mà đời vẫn say, mà hồn vẫn gió
Hôm nay 12/6, Nhà lưu niệm nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo (1947-2019) được khánh thành tại đội 6, xã Diễn Hoa, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
Xem thêm
Số phận các nhân vật nữ trong tập truyện ngắn “Đảo” của Nguyễn Ngọc Tư
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư Sinh năm 1976 tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, là nhà văn, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Năm 2018, cô được trao Giải thưởng Văn học Liberaturpreis 2018 do Litprom (Hiệp hội quảng bá văn học châu Á, châu Phi, Mỹ Latin ở Đức) bình chọn, dựa trên việc xem xét các bản dịch tiếng Đức tác phẩm nổi bật của các tác giả nữ đương đại tiêu biểu trong khu vực. Giải thưởng được trao hàng năm nhằm vinh danh các tác giả nữ đến từ châu Á, Phi, Mỹ Latin, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) và vùng Caribe.
Xem thêm
Lê Khánh Mai và hành trình nhà thơ nữ bứt phá
Nhà thơ, nhà văn Lê Khánh Mai đến nay (năm 2024) đã ấn hành 12 đầu sách, trong đó có 7 tập thơ, 1 tiểu thuyết, 1 tập truyện ngắn, 1 chuyên luận văn học, 1 tập tiểu luận phê bình văn học, 1 tập tản văn và tuỳ bút. Sức sáng tạo ở một tác giả nữ như vậy là liên tục và rất mạnh mẽ. Thơ là thể loại chính của ngòi bút Lê Khánh Mai nhưng văn xuôi và lý luận, phê bình cũng đạt nhiều thành tựu. Tất cả làm nên tên tuổi của một nhà thơ, nhà văn tiêu biểu của tỉnh Khánh Hoà và của văn học Việt Nam hiện đại.
Xem thêm
Trần Đàm đi tìm một bản ngã
Đã ngoài tám mươi mà mỗi lần theo ông, cánh hậu sinh chúng tôi cách ông cả giáp vẫn thấy hụt hơi. Đúng là không nói ngoa cả khi leo dốc, đường trường lẫn khi viết lách, chơi bời.
Xem thêm
Đọc Người xa lạ của Albert Camus bằng chiếc gương soi của chủ nghĩa hiện sinh
Giàu Dương Nếu triết học cổ điển đề cao bản chất và dấn thân vào việc tìm kiếm những định nghĩa về bản chất, thì trào lưu hiện sinh tập trung vào sự tồn tại của bản thể, lấy đó làm điểm khởi nguyên cho mọi sự phóng chiếu vào thực tại khách quan. Người xa lạ (L’Étranger) của Albert Camus ra đời như một dấu ấn sâu sắc của triết thuyết hiện sinh ở giai đoạn nửa sau thế kỷ XX. Là một triết gia, nhà văn tài hoa, Camus đã mở ra những cánh cửa để người đọc bước vào thế giới của “kẻ xa lạ” Meursault – một người đàn ông tự mình chọn lấy thế đứng bên lề của xã hội. Hành trình của Meursault không đi tìm một kết luận duy nhất của sự tồn tại mà chỉ trình bày sự tồn tại như nó vốn là.
Xem thêm
Một thế giới rất ‘đời’ trong sáng tác của Tản Đà
Nhà thơ, nhà báo Tản Đà (SN 1889), quê làng Khê Ngoại, xã Sơn Đà, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây.
Xem thêm
Cây có cội, nước có nguồn
Nguồn: Báo Văn nghệ số 19/2024
Xem thêm
Khát vọng Dế Mèn
Sự ra đời của Giải thưởng Dế Mèn cùng với phát ngôn của đại diện Hội Nhà văn Việt Nam đã chạm đến khát vọng lâu nay vẫn nằm đâu đấy trong những người yêu và hiểu rõ hiện trạng văn học thiếu nhi nước nhà…
Xem thêm