TIN TỨC

Người chiến sĩ Điện Biên Nguyễn Thiện Thuật - Mùa hoa ban đẹp mãi

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2024-04-25 12:09:37
mail facebook google pos stwis
1493 lượt xem

Phùng Văn Khai

Đối với mỗi người Việt Nam chúng ta hôm nay, cái tên Điện Biên Phủ đã như một dấu mốc luôn hiện lên sừng sững mỗi khi nhắc đến. Ai cũng rưng rưng xúc động bởi máu xương của cha anh, của nhân dân đã đổ xuống để làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là không thể đo đếm hết được.

Nhà văn Nguyễn Thiện Thuật

Nhà thơ Chính Hữu, trong bài thơ Giá từng thước đất đã viết:

Năm mươi sáu ngày đêm mưa dầm pháo giội

Ta mới hiểu thế nào là đồng đội

Đồng đội ta là hớp nước uống chung

Nắm cơm bẻ nửa

Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa

Chia khắp anh em một mẩu tin nhà

Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp

Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết.

 

... Khi bạn ta

Lấy thân mình

Đo bước

Chiến hào đi

Ta mới hiểu

Giá từng thước đất...

Từng câu thơ đã trên nửa thế kỷ vẫn luôn găm sâu vào trí óc chúng ta mỗi khi nhắc tới Điện Biên Phủ. Ở đó, tinh thần và ý chí chiến đấu ngoan cường, dũng cảm, tuyệt không quản ngại hy sinh, ai cũng sẵn sàng lấy thân mình đo bước chiến hào đi chính là vẻ đẹp của đoàn quân chính nghĩa đã đem tất cả sức lực và trí tuệ, máu thịt và niềm tin để làm nên chiến thắng lịch sử. Âm hưởng của Điện Biên Phủ tới hôm nay vẫn không một chút suy suyển mà càng được nâng cao trong vị thế mới của dân tộc Việt Nam.

Thật thú vị khi được tiếp xúc với tiểu thuyết Mùa hoa ban đẹp mãi của tác giả Nguyễn Thiện Thuật. Ông đã trở về với thế giới của người hiền, nhưng văn chương của ông, các tác phẩm của ông, trong đó có Mùa hoa ban đẹp mãi vẫn ở lại, từng trang sách vẫn sống trong lòng bạn đọc. Đó chính là vẻ đẹp của văn chương!

Mùa hoa ban đẹp mãi là tiểu thuyết viết trực tiếp về cuộc chiến đấu ở Điện Biên, về Chiến dịch Điện Biên Phủ, về Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi ngủ hầm mưa dầm cơm vắt/ Máu trộn bùn non/ Gan không núng/ Chí không mòn/ Những đồng chí thân chôn làm giá súng/ Đầu bịt lỗ châu mai/ Băng mình qua núi thép gai/ Ào ào vũ bão/ Những đồng chí chèn lưng cứu pháo/ Nát thân nhắm mắt còn ôm... (Hoan hô chiến sĩ Điện Biên - Tố Hữu) chính là khoảnh khắc đặc biệt nhất của công cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta, nhân dân ta.

Đặt trong bối cảnh ấy, Mùa hoa ban đẹp mãi lấy cảm hứng từ cuộc chiến đấu rộng lớn của nhân dân ta, những người dân vừa mới giành quyền độc lập, tự do đã đứng trước sự phản bội của thực dân, đế quốc, thì chúng ta chỉ có thể dùng súng đạn để nói chuyện và đập tan kẻ bạo quyền như lời Bác Hồ kêu gọi trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến năm 1946: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Lời kêu gọi cũng là lời hịch non sông ấy đã ngấm sâu vào trong trái tim và trí óc của mỗi người chiến sĩ Điện Biên.

Ông Nguyễn Quân - con trai Nhà văn Nguyễn Thiện Thuật làm việc với NXB về sách Mùa Hoa Ban đẹp mãi 

Mùa hoa ban đẹp mãi luôn tuân thủ lối viết hiện thực. Những câu văn giản dị, chân thành đã tạo dựng môi trường thẩm mỹ của tiểu thuyết, vừa nhất quán vừa đưa ra những thông điệp nhân văn từ cuộc sống chiến đấu vô cùng quả cảm của bộ đội ta ở Điện Biên Phủ. Các trường đoạn trong Mùa hoa ban đẹp mãi được liên kết với nhau chặt chẽ theo diễn biến gay cấn, quyết liệt, căng thẳng của Chiến dịch Điện Biên Phủ. Không khí có lúc như đông đặc lại trong các trận đánh quyết liệt, giành giật từng tấc chiến hào. Nổi bật nhất là tinh thần chiến đấu ngoan cường và sự lạc quan, tinh thần đoàn kết, sẵn sàng hy sinh vì đồng đội, vì Tổ quốc. Các chiến sĩ Điện Biên - Chiến sĩ anh hùng/ Đầu nung lửa sắt đã lấy máu xương mình tạc nên tượng đài lịch sử hiện ra bằng xương bằng thịt trong tiểu thuyết của Nguyễn Thiện Thuật. Họ thậm chí rất lạc quan, tếu táo trước bom đạn mịt mùng và cái chết luôn kề cận. Không khí trong tiểu thuyết chính là không khí của chiến trận với những câu thoại rất tự nhiên:

“Sau khi phổ biến nhiệm vụ cho anh em, Kỳ len lỏi tới từng người. Ngồi cạnh Tuấn, Kỳ hỏi:

- Có cậu nào đau bụng, đau bão gì không? Ăn uống phải cẩn thận nhé!

Tuấn đáp:

- Dạ. Chúng em còn ‘tốt bụng’ lắm anh ạ.

Kỳ mỉm cười:

- Ừ, được. Phải giữ sức khỏe cho tốt. À này Tuấn! Chuẩn bị làm bài thơ cho báo tường nhé!

- Dạ. Em chỉ biết ngâm mấy bài thơ cũ thôi ạ. Làm thơ thì khó lắm...

- Làm ca dao có được không?

- Dạ, em sẽ làm ca dao...”

Cuộc sống đời thường của người lính Điện Biên trước những giờ nổ súng là như thế đấy.

Mùa hoa ban đẹp mãi sau dấu mốc chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7/5/1954) đã mở ra những trang mới thì không khí trong tiểu thuyết cũng chuyển động mới mẻ nhưng thống nhất giọng văn hiện thực của nó. Những trang nhật ký mà Tuấn viết cho Dung, cho Lan như tiếng reo mừng của trẻ thơ trước chiến thắng lịch sử chính là một dụng công của tác giả đã thi vị hóa đời sống người chiến sĩ sau chiến thắng với những niềm vui bất tận, sự bay bổng, sự lãng mạn đầy chất thơ cũng là những dòng hay nhất trong Mùa hoa ban đẹp mãi. 

Nhà văn Nguyễn Thiện Thuật sinh ngày 12/9/1926, là con thứ sáu trong một gia đình nông dân ở thôn Thọ Bi, xã Tân Hòa, huyện Thư Trì (nay là huyện Vũ Thư), tỉnh Thái Bình. Là con trai út nên được cha mẹ ưu ái cho đi học ở thị xã Thái Bình. Cách mạng tháng Tám bùng nổ, ông tham gia cách mạng và trở thành Thanh niên cứu quốc. Ông được cấp trên cử làm cán bộ tuyên truyền vì có khả năng viết lách và có chút vốn tiếng Pháp, 19 tuổi đã thoát ly gia đình lên Hà Nội làm cán bộ của Sở Thông tin Hà Nội, giúp việc cho nhà báo Hồng Lĩnh. Sau ngày toàn quốc kháng chiến 19/12/1946, ông cùng cơ quan sơ tán lên chiến khu hoạt động trong lĩnh vực tuyên truyền suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, ông cùng đơn vị bộ đội về tiếp quản thị trấn Phát Diệm (Ninh Bình), làm công tác vận động bà con công giáo không di cư vào Nam, sau đó chuyển ngành sang Công ty lương thực tỉnh Ninh Bình.

Nhà văn Nguyễn Thiện Thuật từng viết nhiều truyện ngắn và bút ký đã được in chung với các tác giả khác là bạn bè thân thiết cùng thời của ông như Hà Ân, Nguyễn Đức Mưu… trong tập ký “Hạt gạo nghĩa tình” của Nhà xuất bản Hà Nội 1979. Ông có tập truyện ký được in riêng “Sắn về nhà máy” viết khi đi thực tế ở Vĩnh Phú những năm 1969-1970.

Tài sản lớn nhất mà Nhà văn Nguyễn Thiện Thuật để lại còn lưu giữ được chính là hơn 20 cuốn tiểu thuyết mà ông đã miệt mài viết sau khi nghỉ hưu. Xuất phát từ nguồn tư liệu của cuộc đời qua hai cuộc kháng chiến và tư liệu của các vụ án lớn trong thời bình sau 1975, ông đã cho ra đời nhiều tiểu thuyết hình sự và tiểu thuyết lịch sử, trong đó có tiểu thuyết “Đường đi ra biển” được xuất bản năm 1997 nói về những ngày tháng hào hùng của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử năm 1975, và đặc biệt là cuốn tiểu thuyết “Mùa hoa ban đẹp mãi” được Nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành lần đầu năm 1994, được tái bản lần thứ nhất năm 2004 - năm ông đi xa - và tái bản lần thứ hai này nhân kỷ niệm 70 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.

Mùa hoa ban đẹp mãi đã tái hiện bối cảnh lịch sử những năm cuối của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và những ngày hòa bình đầu tiên sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, sự hy sinh lớn lao của chiến sỹ và nhân dân, sự kiên trinh và thủy chung của họ khi trở về với cuộc sống hòa bình, đối mặt với bao cám dỗ và khó khăn, lại phải chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới ở phương Nam. Hình ảnh của những anh bộ đội Điện Biên như tiểu đoàn trưởng Mai Cương, tiểu đội trưởng Kỳ, các chiến sỹ Tuấn, Minh…đọng lại trong tâm trí người đọc như biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tấm gương chiến đấu hy sinh cao cả vì Tổ quốc và tình yêu vô bờ bến đối với gia đình, người thân và nhân dân.

Càng về những trang viết cuối, Mùa hoa ban đẹp mãi càng nhất quán và sẵn sàng trực diện với cả biểu hiện tha hóa đã bắt đầu phát sinh từ lòng tham, sự dao động của một số nhân vật như là một tất yếu trong cuộc sống. Song, những điều đó chỉ là những rạn nứt nhỏ, rồi sẽ mau chóng bị xóa đi bởi sự cao thượng và tấm lòng bao dung của con người bởi công cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam vẫn còn đang ở phía trước.

Khi trang viết cuối cùng của Mùa hoa ban đẹp mãi khép lại cũng là lúc mở ra một trang mới của người chiến sĩ dưới tán phong lan rừng Trường Sơn hùng vĩ đang chung một trái tim, chung một con đường giải phóng miền Nam.

 

P.V.K

Bài viết liên quan

Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm