TIN TỨC

Nguyễn Minh Châu, một nhà văn tiên phong của văn học đổi mới

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2021-12-22 22:18:23
mail facebook google pos stwis
10285 lượt xem

 

Nguyễn Minh Châu sinh năm 1930, quê ở làng Văn Thai, tên nôm là làng Thơi, xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Năm 1945, ông tốt nghiệp trường Kỹ nghệ Huế với bằng Thành chung. Tháng 1 năm 1950, ông học chuyên khoa trường Huỳnh Thúc Kháng tại Nghệ Tĩnh và sau đó gia nhập quân đội, học ở trường sĩ quan lục quân Trần Quốc Tuấn. Từ năm 1952 đến 1956, ông công tác tại Ban tham mưu các tiểu đoàn 722, 706 thuộc sư đoàn 320. Từ năm 1956 đến 1958, Nguyễn Minh Châu là trợ lý văn hóa Trung đoàn 64 thuộc sư đoàn 320. Năm 1961, ông theo học trường Văn hóa Lạng Sơn. Năm 1962, Nguyễn Minh Châu về công tác tại phòng Văn nghệ quân đội, sau chuyển sang tạp chí văn nghệ Quân đội. Ông được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam năm 1972. Ông qua đời ngày 23 tháng 1 năm 1989 tại Hà Nội thọ 59 tuổi.

Sau năm 1975, văn học Việt Nam trải qua một cuộc chuyển mình dữ dội, không chỉ từ văn học thời chiến sang thời bình, từ văn học sử thi sang văn học thế sự và đời tư, mà trong chiều sâu của nó có sự chuyển động từ văn học tuyên truyền chính trị, phản ánh hiện thực theo phương pháp hiện thực XHCN sang một nền văn học hậu văn học cách mạng, hậu hiện thực XHCN. Bởi từ trong đáy sâu của ý thức, nhiều nhà văn đã nhận ra văn học chính trị và chủ nghĩa hiện thực XHCN đã trói buộc sáng tác quá nhiều và khao khát giải thoát khỏi các trói buộc ấy.


Nhà văn Nguyễn Minh Châu (1930-1989).

Thuật ngữ văn học hậu văn học cách mạng hay văn học hậu hiện thực XHCN có thể sẽ gây tranh cãi, song rõ ràng không thể coi văn học đổi mới là văn học cách mạng như cũ, cũng không thể cứ gọi mãi nó là văn học đổi mới. Bởi sau khi đổi mới văn học sẽ có một tính chất mới, khác trước, mà không thể gọi chung chung là “đổi mới” được. Dù sao ta không thể loại bỏ sáng tác thời kì này của các nhà văn như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Lê Lựu, Nguyễn Minh Châu, Tô Hoài, và của nhiều nhà văn nữa là văn học cách mạng khi nó không phục vụ chính trị và không theo phương pháp sáng tác hiện thực XHCN. Hàm nghĩa của Đổi mới đã biến đổi trong tiến trình văn học. Lúc đầu người ta nghĩ rằng, lí thuyết Mác-Lê vốn là khoa học, đã bị hiểu sai, dung tục hóa, đổi mới là tìm lại cách hiểu đúng cho nó. Nhưng tiếp theo Liên Xô và cả Đông Âu sụp đổ, chiến tranh lạnh kết thúc, người ta nhận thấy quả là vấn đề quá lớn, mà các nguyên lí từ phản ánh, tính đảng cho đến lí thuyết đấu tranh giai cấp, chủ nghĩa xã hội đều là các lí thuyết không thể một thời gian ngắn có thể giải thích rõ ràng, các nhà văn còn phải suy nghĩ xa hơn nữa, tạo nên một bước ngoặt thật sự trên con đường giải phóng nghệ thuật. Vừa đến những năm 90, cuộc hội nhập quốc tế về văn hóa văn nghệ đã tiếp sức cho những tìm tòi mới, tiếp cận chủ nghĩa hiện đại, hậu hiện đại. Xét về mặt này, văn học Việt Nam sau 1986, dần dần, một bộ phận lớn, quan trọng, tiêu biểu cho tinh hoa đã chuyển sang giai đoạn văn học hậu văn học cách mạng và hậu hiện thực XHCN, mà nhiều nhà văn đã thể hiện.

Về mặt chính trị, Đổi mới là đường lối thay đổi các chính sách kinh tế, chính trị nhằm cứu vãn tình trạng khủng hoảng trầm trọng do nhiều sai lầm tích tụ lâu ngày cả về lí thuyết và thực tiễn, quan trọng nhất là đổi thay tư duy về xã hội và kinh tế, hướng tới giải phóng mọi tiềm lực xã hội để phát triển sản xuất theo hướng kinh tế thị trường, thừa nhận nhiều thành phần kinh tế. Bản thân chính sách Đổi mới đó là một cuộc thay đổi về đường lối của đảng cầm quyền làm cho nó thích nghi thời cuộc, đồng thời làm thay đổi toàn bộ xã hội, có thể diễn biến theo xu hướng xấu hơn, như ta đã thấy về văn hóa, đạo đức xuống cấp, mà đương thời không ai có thể dự đoán hết được. Về văn nghệ cũng thế, trước hết “Đổi mới” lúc đầu chỉ nhằm cởi trói, tháo gỡ các nút thắt trói buộc văn nghệ do hiểu và vận dụng lí luận Mác Lê. Nhưng càng về sau càng hiểu rõ bản thân lí thuyết Mác Lê về văn nghệ có nhiều bất cập, và nhiều nhà văn đã tự giải thoát, tìm tòi lí luận thích hợp cho mình. Chính sách văn nghệ của Đảng, tuy vẫn cứng rắn, song cũng tạo nhiều khoảng trống tự do về phong cách và phương pháp sáng tác, không nhắc tới chủ nghĩa hiện thực XHCN và tính đảng, tính nhân dân nữa. Và khuynh hướng tự do hóa trong văn nghệ trở thành xu thế không thể đảo ngược. Công cuộc đổi mới văn nghệ của ta bắt đầu từ sự nêu lên những sai lầm về quan niệm văn nghệ, những lí thuyết trói buộc văn nghệ cần được tháo gỡ, nhưng văn nghệ sẽ như thế nào hầu như chúng ta chỉ có một lí tưởng nhân văn và các khuynh hướng của văn nghệ thế giới đang mời gọi. Trong bối cảnh đó, vai trò sáng tạo chủ động, tự quyết bung ra của các cây bút tài năng có vai trò cực kì quan trọng. Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Tô Hoài, Nguyễn Bình Phương và một số cây bút khác đã mở ra các hướng mới. Mỗi người có một cách đi. Một phương hướng và văn nghệ đổi mới là một hợp lực của những tìm tòi sáng tạo có tính cá nhân ấy. Bức tranh văn học Việt Nam hơn 40 năm qua đã hết sức đa dạng mà cho đến nay vẫn chưa thấy có công trình nào tổng kết toàn diện về các khuynh hướng nghệ thuật. Trong bối cảnh đó, Nguyễn Minh Châu là một nhà nghệ sĩ tiên phong rất đáng được nghiên cứu.

Vai trò tiên phong của Nguyễn Minh Châu thể hiện ở trên ba phương diện. Phát hiện vấn đề, đổi thay lí thuyết và thực tiễn sáng tác.

1. Người nhận thức thấu triệt những phẩm chất và làm ra văn học cách mạng.  Nguyễn Minh Châu là một nhà văn tiêu biểu của văn học cách mạng và đã sáng tác những tác phẩm tiêu biểu cho văn học này, như Dấu chân người lính. Nhờ thế ông hiểu hơn ai hết về tính chân thực của văn học này. Đọc Trang giấy trước đèn, phê bình và tiểu luận của nhà văn ta thấy ít nhất, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã chỉ ra ba vấn đề chính xác và quan trọng. Một là hoài nghi về tính chân thực của văn học ta, do nhu cầu tuyên truyền mà tự tô hồng, che giấu bớt sự thật mất mát, đau đớn (1978). Hai là ông phát hiện ra sai lầm trong phương pháp sáng tác, đó là coi trọng cái thực tại cần phải có hơn cái thực tại vốn có. Đây là nhận xét mà sau đó nhà phê bình văn học Hoàng Ngọc Hiến đã khái quát lên thành chủ nghĩa hiện thực phải đạo gây tranh luận một thời. Và ba là ông là người đầu tiên và duy nhất đề xuất Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa (Báo Văn nghệ, số 49/50 ngày 5/12/1987), trong đó mô tả toàn bộ cái không gian chật chội, trói buộc, gieo rắc sự sợ hãi, chán nản, nếu nhà văn có ý tưởng, phát hiện mới mẻ của riêng mình thì buộc phải ngụy trang, che chắn một cách thảm hại nếu muốn viết. Người nghệ sĩ muốn trở thành nghệ sĩ lại phải giết dần cái phần nghệ sĩ trong bản thân mình… Ông đã lên án sâu sắc, triệt để chủ nghĩa giáo điều trong văn nghệ. Cho đến lúc đó chưa có ai lên tiếng phê phán lí thuyết giáo điều và sự trói buộc sâu sắc hơn, toàn diện và mạnh mẽ hơn. Nhiều nghệ sĩ lớn cũng cảm thấy, nhưng không ai nói. Điều này cho thấy Nguyễn Minh Châu rất dũng cảm.

2. Người dứt khoát vứt bỏ các nguyên tắc lí thuyết giáo điều trong văn nghệ đương thời. Chính vào lúc các tác phẩm Đứng trước biển (1982), Cù lao Tràm (1985) được ông Hà Xuân Trường cổ vũ như là thành tựu của chủ nghĩa hiện thực XHCN, thì trong sáng tác thời kì này của Nguyễn Minh Châu như Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983), Bến quê (1985), Cỏ lau (1989), Mảnh đất tình yêu (1987), ông không còn sáng tác theo phương pháp sáng tác hiện thực XHCN nữa. Tác phẩm của ông không viết ra theo yêu cầu, đòi hỏi của nhiệm vụ tuyên truyền chính trị. Các nhân vật của ông không phải là các nhân vật điển hình khái quát, như hình tượng người cộng sản, anh bộ đội cụ Hồ, người nông dân XHCN… mà có vẻ như những con người cá biệt, thậm chí là dị biệt. Điều này đã được một nhà phê bình đương thời chỉ ra như một khuyết điểm, nhưng theo chúng tôi, đó là một ưu điểm quan trọng. Ông cũng không sáng tác các nhân vật anh hùng của thời đại, trái lại xây dựng các nhân vật “phản anh hùng”, nghĩa là những người bình thường. Phải vứt bỏ điển hình hóa thì mới có thể có các hình tượng như Tiểu đoàn trưởng Toàn trong Mùa trái cóc ở miền Nam, chẳng tiêu biểu gì cho bộ đội giải phóng ngay sau ngày 30/4/1975 vừa giải phóng miền Nam. Anh ta là một kẻ ích kỉ, tàn nhẫn, xấu xa. Anh bộ đội và người họa sĩ trong Bức tranh chẳng điển hình gì cho loại người vừa chiến thắng mà họ có thể đại diện. Phải vứt bỏ điển hình vì các nhân vật lúc này đang chuyển hóa, đang diễn biến, không thể ổn định như trước nữa. Nhân vật của ông cũng không nhằm vẽ ra những tấm gương anh hùng, trái lại nhân vật có vẻ như là những phản anh hùng, những con người thừa, những dị biệt bình thường. Nhân vật Phác là anh hùng thật sắp được phong Anh hùng thì trong sinh hoạt sau giải phóng chẳng có vẻ gì là anh hùng cả. Anh ta thích đi thăm thú nơi này nơi khác, sau khi đã chiến thắng. Tác phẩm của ông không nhằm đem lại một niềm lạc quan cách mạng nào cả. Sáng tác của ông hoàn toàn đi ngược lại với hệ thống lí luận cũ vẫn đang thịnh hành, khiến cho giới phê bình lúc ấy không thể hiểu nổi. Ông Hà Xuân Trường lúc ấy, đã nói dè dặt: sáng tác của Nguyễn Minh Châu chỉ có một nửa hiện thực XHCN. Tác phẩm của anh ấy nhiều ưu tư quá, thiếu tinh thần lạc quan cách mạng. Nhận xét của Hà Xuân Trường đã cho thấy Nguyễn Minh Châu đã trượt khỏi chủ nghĩa hiện thực XHCN, mà đi theo một khuynh hướng sáng tác khác, rõ ràng lí thuyết cũ không thể đánh giá được sáng tác của Nguyễn Minh Châu. Và chỉ những ai vượt qua lí thuyết thịnh hành ấy thì mới có thể hiểu được ông.

3. Trăn trở tìm tòi những hướng sáng tác mới. Nhận thấy văn học thiếu chân thực, ông đi tìm cái chân thực. Cái chân thực là cái vốn có trong đời sống mà ai cũng có thể nhận thấy mà người ta có ý làm ngơ, nhắm mắt không nói đến. Nguyễn Minh Châu không chấp nhận lối sáng tác cài hoa kết lá vờn mây cho những gì có sẵn, ông viết những gì không có sẵn trong các quy phạm, nhưng lại có trong thực tế. Khắc phục lối miêu tả hiện thực theo nguyên tắc cần phải có, nhà văn hướng đến miêu tả hiện thực như nó vốn có, ngược lại với cái cần phải có. Trong cả ba tập truyện ngắn cuối đời, Nguyễn Minh Châu không phản ánh hiện thực đấu tranh địch ta, không tuyên truyền chính trị, mà hướng về cái hiện thực vốn có, hướng về cách ta hiểu về hiện thực, hướng về tự phản tỉnh thái độ đối với hiện thực. Bức tranh, Bến quê, Dấu vết nghề nghiệp, Một lần đối chứng, Cơn Giông, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Sắm vai… thuộc về loại này. Ở đây có hiện thực của những chủ thể đầy ngộ nhận, nhầm lẫn, nói lên khả năng nhận thức của chủ thể rất giới hạn chứ không hề thần thánh. Không có con người toàn bích, sáng suốt đại diện cho trí tuệ thời đại. Một người thủ thành, giữ gôn, tuy bắt được những quả penalty, song cũng để lọt lưới những quả bóng rất ấu trĩ. Các cán bộ trong Chiếc thuyền ngoài xa tỏ ra hời hợt và rất non nớt trước hiện thực phức tạp. Nhân vật Nhĩ trong Bến quê là cán bộ cấp cao, từng qua nhiều nước, nhưng vẫn chưa đến được bến quê của mình. Nhân vật trong Sắm vai chỉ biết đóng vai mà đánh mất bản thân mình. Cái xa thực tế như thế thật đáng buồn. Đó là cả một mang hiện thực to lớn chưa hề được nói đến. Điều này thể hiện niềm ưu tư của nhà văn như ông Hà Xuân Trường cảm thấy. Một lần đối chứng tôi nghĩ không phải nói chuyện nhận thức lầm loài vật. Nó được viết sau năm 1979, thì cũng có thể hàm ý ta đã quá hiểu lầm với quân bành trướng và tay sai của chúng. Cái hiện thực vốn có khả năng cung cấp nhiều nghĩa cho người ta suy nghĩ hơn là cái hiện thực được quy định sẵn. Trong Khách ở quê ra nhà văn đã miêu tả đầy đủ hình ảnh một người nông dân cá thể, tư hữu, không vào hợp tác xã mà không hề có ý vị phê phán, trái lại với tất cả sự đồng cảm, nể phục sức lao động sáng tạo của người nông dân cá thể, tư hữu, mặc cho ông Bời Bí thư Huyện ủy quyết đưa ông Khúng lên CNXH. Trong Phiên chợ Giát, nhà văn thể hiện niềm ưu tư sâu sắc về số phận con người nông dân, không phải là nông dân tập thể, mà là con người nông dân trong đời sống của họ. Cho dù muốn giải phóng cho con bò được tự do thì cũng không thể được. Sự trở về của con bò nói lên việc con người không thể thoát khỏi số phận chính mình. Đó là chưa nói đến khía cạnh sinh thái được đề cập trong truyện Sống mãi với cây xanh.

Qua các sáng tác cuối đời, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã thể hiện những chủ đề mới của văn học, cho ta nhìn thấy những khía cạnh phong phú, phức tạp mà văn học trước đó chưa hề đề cập.

Về nghệ thuật ông đã chuyển sang độc thoại nội tâm của những người kể chuyện xưng tôi hoặc người kể mang điểm nhìn bên trong của nhân vật. Ông bắt đầu trở về với ngôn ngữ biểu tượng. Bức tranh, Chiếc thuyền ngoài xa, Cỏ lau, Phiên chợ Giát, Khách ở quê ra… đều là các biểu tượng mới của văn học. 

Nguyễn Minh Châu đã qua đời quá sớm khi tài năng đang độ chín và cuộc đổi mới văn học của đất nước vừa mới bắt đầu. Nhưng các suy nghĩ sâu sắc của ông về thực trạng văn học, các sáng tác mở đầu của ông đầy dứt khoát kiên nghị, hoàn toàn đủ để ta nhìn thấy ở ông – một nhà văn tiên phong của văn học đổi mới.

 Trần Đình Sử/Vanvn

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm