TIN TỨC

Nguyễn Ngọc Hạnh - Hồn thơ reo mãi phía làng

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-01-14 07:06:13
mail facebook google pos stwis
1333 lượt xem

(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) – Sáng hôm qua, ngày 13/01/2024, tại TPHCM, nhà thơ Nguyễn Ngọc Hạnh, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ Đà Nẵng, đã tổ chức rất thành công tập thơ mới có tựa “Nắng dậy thì” của mình. Nhà văn Bích Ngân, Chủ tịch Hội Nhà văn TPHCM đã tới dự và tặng hoa chúc mừng và Văn chương TPHCM đã đưa tin ngay về sự kiện này. Hôm nay chúng tôi xin giới thiệu bài viết của nhà thơ Hoàng Thụy Anh về “Nắng dậy thì” cùng một số hình ảnh do PV trang web ghi được tại buổi ra mắt nhiều cảm xúc này.
 

HOÀNG THỤY ANH

Thời gian là vòng quay vĩnh hằng của vạn vật, bất kể sinh thể nào cũng không thể bước ra ngoài nó. Thời gian tồn tại mãi mãi, còn cõi người thì tàn phai, ngắn ngủi. Mỗi người đều có cách ứng đối thời gian khác nhau. Có người buông lơi, phó thác để thời gian trôi qua phí phạm những đam mê. Có người xoay thời gian theo dòng hồi ức, kỉ niệm để tái tạo và lưu giữ. Có người đồng hành với thời gian, trải nghiệm và chấp nhận những gì nó mang đến. Nhưng dù cuộc sống có nhiều biến thiên thì những gì thuộc về “quà tặng kí ức” vẫn khó nhạt nhòa, phôi phai.


Nhà thơ Nguyễn Ngọc Hạnh

Nguyễn Ngọc Hạnh là một trong số những nhà thơ ý thức thâm canh trên cánh đồng làng. Với Nắng dậy thì, ông tìm kiếm sự bình yên, thanh thản giữa những va đập của cuộc sống bằng những giá trị nhân ái, những hoài niệm sơ nguyên.

Kí ức là tài sản riêng có của mỗi người. Mỗi người đều nương tựa vào “quà tặng kí ức” mà định hình tâm hồn, lẽ sống và tình yêu. Song, nếu chúng ta cứ mãi sống với kí ức, không giải phóng mình khỏi lớp sóng quá khứ, liệu chúng ta có đảm bảo được sự tốt đẹp ở hiện tại và sự bền vững ở tương lai? Vậy Nguyễn Ngọc Hạnh làm thế nào để “quà tặng kí ức” ấy hiện hữu trong thơ một cách sống động, ấn tượng ngay trong từng sát-na?

Tuổi thơ là quãng thời gian đẹp đẽ nhất trong cuộc đời của mỗi người. Đối với Nguyễn Ngọc Hạnh, tuổi thơ mãi gắn bó với làng, “quấn quít phía sông quê”. Để rồi, lúc nào hồn thơ ông cũng đong đầy nỗi nhớ, hồn quê.  Mỗi cuộc quay về, nhà thơ như được sống lại những năm tháng đẹp đẽ, đầm ấm bên gia đình. Nơi đó, kí ức tuổi thơ của ông bay khắp đồng làng”, neo đậu với “sông dọc bờ quê”,“lều tranh một mái”, “hoa cau rụng trắng”, “cối xay trầu của bà”, “tiếng chim dồng dộc hót”, người mẹ “sanh nở những niềm đau”, người cha “trĩu nặng bờ vai khổ nhọc”,…  Nơi đó, suối lòng ông một đời tan chảy, “cứ nhớ hoài lửa bếp cời than/ nhớ ngọn khói chiều mồ côi nương rẫy/ nhớ tiếng chim lạc bầy gọi mẹ/ nhớ bờ ao cạn cháy cơn mơ” (Lạc mất đường về).

Trên hành trình trở về của Nắng dậy thì, Nguyễn Ngọc Hạnh đã hữu hình hóa hoài niệm bằng sự sống động của không gian tâm hồn. Chúng ta bắt gặp ở đó vẻ đẹp của sự luyến lưu, trì níu, mắc cạn, mãi “cắm sào triền sông”, “lấm bờ đê đầu làng”… qua lời thủ thỉ, tâm tình của ông. Hương quê, tình quê được thể hiện qua những hình ảnh, âm thanh, mùi vị thân thương, gần gũi, tất cả quyện hòa như một bản nhạc êm đềm, ngày đêm ngân nga, mang đến những giá trị tinh thần vô biên: “mẹ một mình/ sanh nở những niềm đau/ bất chợt nhớ ngày xưa đến lạ/ mơ được một lần làm mẹ để sinh con” (Ngày mẹ sinh tôi).

Bè trầm kí ức, giản dị, mộc mạc nhưng lại là món quà không thể đong đếm đối với Nguyễn Ngọc Hạnh. Nhờ bè trầm kí ức, nhà thơ tìm được sự bình yên, điểm tựa vững chãi giữa những xô bồ, bon chen của phố phường. Cũng nhờ bè trầm này, nhà thơ đã tạo nên miền thơ chân thành, đậm vị làng quê, để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.

Có thể nói, kí ức là điểm tựa để Nguyễn Ngọc Hạnh hóa giải những khổ đau, mất mát: “Nón che không hết mùa đông/ Phố che không hết nỗi buồn trần gian” (Lục bát qua sông). Nơi đó nhà thơ được tung tẩy tâm hồn, được tự do, được thổ lộ nỗi niềm mà không phải vướng bận bất cứ điều gì. Nhà thơ nghĩ về quá khứ để làm đẹp hiện tại và tương lai. Cách thức sở hữu “quà tặng kí ức” của Nguyễn Ngọc Hạnh do vậy đã minh chứng một hồn thơ giàu có nhân ái, một phong cách thơ đắm đuối, đậm chất quê kiểng rất riêng của mình.

Lẽ thường, vui chung buồn riêng. Chỉ ở những điểm đau, nút thắt tê tái, buốt xót mới chạm đến bản nguyên của cái tôi, mới thấy sức mạnh của nỗi đau. Sáng tạo là con đường hợp lý nhất để người nghệ sĩ giải toả, chiếm lĩnh và thăng hoa vẻ đẹp cái buồn. Khi họ vật lộn kịch liệt với bản ngã, truy tìm lối ra, họ mới đối diện trọn vẹn nhất cái tôi của chính mình, không bị trộn lẫn giữa nghìn trùng cá thể, mới phát tiết cái riêng, cái lạ, cái độc. Nỗi buồn, do vậy, là đặc ân, món quà vô giá mà tạo hóa ban tặng cho người nghệ sĩ như lời mở đầu của nhà thơ về tập thơ này: “Nỗi buồn trong Nắng dậy thì vẫn là nguồn mạch thơ tôi. Yêu cũng buồn, ghét cũng buồn, có được phút giây hạnh phúc cũng buồn, oan nghiệt càng buồn, bởi tất cả đó là niềm đau, là nỗi buồn chân thành, không hề tô vẽ”.

Nguyễn Ngọc Hạnh nhập vào nỗi buồn rồi lại tách mình ra khỏi nỗi buồn. Vì thế nỗi buồn càng lắng sâu trong một cái tôi đa nhân cách; vừa muốn quay về niềm xưa chốn cũ, vừa muốn chất vấn những hệ lụy, dư chấn của đời sống. Sự xung đột nội tâm này tạo nên những đối lập, mâu thuẫn cho thi tập: sự sống - cái chết, niềm vui - nỗi buồn, hiện thực - cõi mơ, có - không, đêm - ngày, sáng - tối,… Phản ứng của ông không phải đoạn tuyệt nỗi buồn, mà muốn cảm nhận sâu sắc hơn giá trị thặng dư của nỗi buồn. Ở vị trí hiện tại, những hành động mang tính chất “tác động”, xâm lấn vào miền kí ức của ông như “chạm”, “cúi”, “tìm”’, “trôi”, “cài”, “gối”, “hôn”, “gánh”, “níu”,… đã bày tỏ nỗi khát khao muốn nhập cuộc vào nỗi buồn một cách tuyệt đối. Nhưng nỗi buồn ấy cũng như một nam châm trái chiều, lại đẩy ông ra ngoài bản thể, để ông tiếp tục đối diện bản thể, chất vấn bản thể một cách cùng tận: “Biết lấy gì để tặng nỗi buồn/ Xin trích đời tôi ngày gió bão/ Trích phận em phập phù thiếu nữ/ Chẳng có ngày vui đàn bà// Biết lấy gì để tặng đời tôi/ Khi giấc mơ sắp khép lại rồi/ Biết trích vào đâu mà gửi lại/ Câu thơ còn nợ phía bèo trôi” (Nợ phía bèo trôi). Khoảng cách vừa gần vừa xa của nỗi buồn có khả năng thiết kế vũ điệu tâm hồn giúp ông thể nghiệm những trạng thái hiện sinh cũng như thể hiện vẻ đẹp bình dị của ngôn ngữ. Nỗi buồn chất chứa trong không gian hoài niệm và trước thực trạng đời sống của Nguyễn Ngọc Hạnh, do vậy không hề yếu đuối. Nỗi buồn đã làm cho cái tôi cá nhân của ông trở nên mạnh mẽ, bản lĩnh, quyết đoán hơn: “Ai hiểu được đâu là được mất/ Cứ gánh mà đi về phía thơ mình” (Gánh thơ).

Thi ca có sứ mệnh mang đến tiếng nói hòa điệu và chữa lành vết thương. Đọc thơ Nguyễn Ngọc Hạnh, tôi gặp lại bản thể rực rỡ tuổi thơ của chính mình. Vì vậy, có thể khặng định, hành trình chạm đến thuở “nắng sớm dậy thì” để “trong suốt” hôm nay và mai sau, đã làm nên thành công của ông.



MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ BUỔI RA MẮT SÁCH "NẮNG DẬY THÌ"

(Ảnh: Nguyên Hùng)

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm