TIN TỨC

Nguyễn Xuân Khánh và câu chuyện của một thế hệ

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2021-12-30 22:56:36
mail facebook google pos stwis
1923 lượt xem

Không chỉ có cuộc đời trải dài qua nhiều thời đoạn đầy biến động, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh (1933-2021) còn có một hành trạng văn chương nhìn chung kịch tính, và đặc biệt, có một sự quan sát, tham dự, cùng hội cùng thuyền với một thế hệ văn sĩ, trí thức nhiều thăng trầm.

Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh.

Câu chuyện của họ, dù chưa được phơi mở đầy đủ nhất, nhưng cũng phần nào tạo nên tư liệu đủ hấp dẫn để các nhà nghiên cứu quan sát kĩ lưỡng hơn bối cảnh hình thành, phát triển văn chương, văn hóa Việt Nam từ nửa sau thế kỉ XX.

 

1. Dù chứa đầy hồi ức, hồi cố nhưng Tiếng người trong văn (2021), cuốn sách được ấn hành sau khi Nguyễn Xuân Khánh qua đời lại không phải là hồi kí. Nó tập hợp nhiều bài viết, thường dưới dạng tùy bút và tiểu luận, ở nhiều thời điểm khác nhau. Điều này khiến những câu chuyện cá nhân và những gì thuộc về bạn bè, đời sống xã hội được Nguyễn Xuân Khánh cân nhắc, gia giảm liều lượng để giúp người đọc phần nào hình dung bức tranh nhân tâm, thế sự của quá khứ chưa hẳn đã quá xa xưa.

Tự nhận là người ngại đám đông, ồn ào và không dễ dàng bắt chuyện với xung quanh, Nguyễn Xuân Khánh chỉ có thể nhớ lại, viết sâu về dăm ba bạn văn mà ông có gắn bó nhất. Ông dường như chủ ý giữ sự kiệm lời, kiệm thông tin về đời tư cá nhân của mình. Ông lại giữ cự li nhất định khi đánh giá, nhìn nhận những sự kiện mà bản thân chắc chắn từng biết đến như Nhân văn-Giai phẩm, “Xét lại”,…

Ông cũng giữ thái độ điềm nhiên, bình tâm khi nhắc đến những phiền hà, hệ lụy mà ông từng trải qua vào thời điểm viết hai cuốn tiểu thuyết gây ồn ào nhất của mình là “Miền hoang tưởng” và “Chuyện ngõ nghèo”. Nghĩa là, cho dù được phép nhớ lại bao nhọc nhằn vất vả, bộc bạch những sự thật liên quan đến hoạn nạn của bạn bè, Nguyễn Xuân Khánh vẫn không cố tình gây hú vía, thót tim độc giả hôm nay.

Trước sau, cuốn sách đều có giọng nhẹ nhàng, thủ thỉ, hóm hỉnh kể chuyện của một người từng trải, thấm thía nhân tình thế thái, của một trí thức biết rõ phận sự suy ngẫm, nhẫn nại và kiên tâm trước những thử thách cuộc đời khắc nghiệt. Tính chất nhẹ nhàng, thư thái kể chuyện làm nên sức cuốn hút của cuốn sách và theo tôi, cũng cho phép nhà văn thuận tiện hơn khi sắp xếp, tái dựng các chi tiết nhỏ, thậm chí vụn vặt, nhưng rất sinh động, chân thực, cụ thể. Tiếp nhập những chi tiết này, tôi nghĩ, mới khiến chúng ta hiểu rõ và trân quí cung cách sống, sáng tạo của thế hệ văn nhân tài năng mà nhiều phen lao đao, lận đận.

Quê cha làng Cổ Nhuế, quê mẹ làng Thanh Nhàn, Nguyễn Xuân Khánh từ tấm bé đã thân thuộc những không gian và nét sinh hoạt của vùng nửa quê nửa thành Hà Nội. Lên sáu tuổi, sau khi cha mất, Nguyễn Xuân Khánh cùng mẹ về ở hẳn Thanh Nhàn, tuy thuộc nội thành, nhưng lại là “một cái làng trồng rau muống, trồng hoa sen, trồng ổi và thả cá”. Bản thân Nguyễn Xuân Khánh, cùng mẹ già, vợ và bốn người con sống trong căn nhà lá, xây bằng đất “nhỏ bé xinh xinh”, phải liên tục mở rộng, sửa chữa.

Hình ảnh ngôi nhà của ông, có thể nói, điển hình cho đời sống trí thức nghèo Hà Nội thời chiến, vừa chắt chiu đồng cam cộng khổ, vừa loay hoay cải thiện kế sinh nhai. “Bây giờ nghĩ lại mái nhà của tôi thấy nó thật trứ danh – Nguyễn Xuân Khánh viết. Nó là thứ hổ lốn. Vài viên fibrô xi măng. Một mảnh giấy dầu. Trên nóc nhà là những gianh nứa. Rồi cuối cùng là hai tấm tôn nhựa đường. Tôn xi măng và tôn nhựa đường thì lợp vào chỗ giường nằm, để chống dột”. Chính tại căn nhà “trứ danh” này, Nguyễn Xuân Khánh tăng gia nuôi lợn như bao gia đình Hà Nội khác vào thập niên 1970, 1980.

Nuôi lợn, theo hồi ức Nguyễn Xuân Khánh, đã trở thành phong trào lúc đó, “phong trào tự cứu lấy mình”, đến mức “cả xã hội lên một cơn lên đồng, một cơn điên về nuôi lợn”. Nhà văn của chúng ta “nuôi lợn hơn một chục năm liền. Cũng dậy sớm từ hai, ba giờ sáng đạp xe đạp sang tận chợ Sọ, chợ Chi Đông, chợ tỉnh Phúc Yên, chợ Hương Canh để mua con giống. Cũng nuôi bèo, thả rau muống, lặn lội bờ ao để có rau cho lợn ăn”. Thực tế bi hài và phong phú ấy khiến ông không ngừng suy nghĩ, nung nấu viết một cuốn tiểu thuyết về nuôi lợn.

Ông cho biết thêm: “Ngồi một mình trên cái gác xép ọp ẹp, bên ngọn đèn dầu mù mờ, tôi cặm cụi viết, tha hồ thả trí tưởng tượng, đồng hành cùng những con lợn ỉn, lợn bò, có lúc phiêu lãng vào xứ sở huyền thoại, có lúc lạc vào những bãi chết mà có lúc tôi đã thấy. Thực thực, hư hư tôi trườn vào những giấc mơ lổn nhổn nào lợn, nào đồ tể”. Cuốn tiểu thuyết có thể nói là đầy táo bạo, gai góc về “người”, “lợn” ấy của Nguyễn Xuân Khánh, rút cuộc, không xuôi chèo mát mái như ông mong muốn. Phải gần 35 năm sau khi hoàn thành, Trư cuồng (cách đặt tên chơi chữ từ thuật ngữ “porcinomanie”), mới được xuất bản chính thức dưới tên gọi “Chuyện ngõ nghèo” (2016).

2. Nguyễn Xuân Khánh nuôi lợn, còn bạn thân của ông, nhà thơ Trần Dần thì nuôi ong. Căn buồng của vị thi sĩ nổi tiếng “lúc thì là một công xưởng cưa bào đóng thùng ong, lúc thì là một phòng thí nghiệm theo dõi sự chung sống hòa bình của hai đàn ong”.

Công cuộc nuôi ong mưu sinh gian nan không kém nuôi lợn. Nuôi ong thì cần có mật hoa nhưng Hà Nội lại không có nhiều vườn hoa. Thành thử, vào mùa đông, Trần Dần phải cho ong hút nước đường. “Hai tổ ong – Trần Dần kể với Nguyễn Xuân Khánh, mèng ra mỗi tháng cũng phải chi ra một cân đường. Thế là phải bóp mồm bóp miệng cả nhà lại. Trẻ con cũng không được ăn đường”. Trần Dần đành bỏ việc nuôi ong như bỏ một giấc mộng kiếm thêm miếng cơm trong thời buổi khó khăn bủa vây mọi người.

Hà Nội từ sau 1954, theo Nguyễn Xuân Khánh, là một thành phố đậm chất nông dân. Những người nông dân, từ ngoại thành và các tỉnh lân cận đổ về, sống xen vào các khu phố, và họ “đã đem lại cho Hà Nội, tiêm vào dòng máu Hà Nội một sức sống mới, đó là sức chịu đựng dẻo dai, đó là sự chất phác hồn hậu, đồng thời cũng làm Hà Nội trở nên xô bồ, hỗn độn”. Bản thân những người như Nguyễn Xuân Khánh, thật ra, cũng phải tự rèn cho mình sức chịu đựng, chấp nhận những giới hạn vật chất thì mới bình tâm cầm bút được.

Chính trong điều kiện ngặt nghèo sinh kế đó, Trần Dần, Nguyễn Xuân Khánh, Dương Tường, Châu Diên vẫn duy trì viết, đọc và tìm cách biểu đạt giá trị mình thông qua trang viết, thậm chí, thông qua những mơ mộng về “chân trời có người bay”. Riêng Nguyễn Xuân Khánh, ông không ngừng nghiền ngẫm các khía cạnh chiều sâu văn hóa, lịch sử và tính cách dân tộc để, từ năm 2000, trở thành cây bút thành công bậc nhất với các trường thiên tiểu thuyết “Hồ Quý Ly” (2000), “Mẫu thượng ngàn” (2005), “Đội gạo lên chùa” (2011).

Thế hệ nhà văn Nguyễn Xuân Khánh, những người sinh đầu thập niên 1930, là thế hệ chịu nhiều biến cố lịch sử, xã hội. Hết kháng Pháp lại chống Mỹ, “liên miên sống trong không khí chiến tranh”. Nhưng đây là thế hệ vượt trội và vượt thoát rất nhiều giới hạn về tri thức, kiến văn nhờ nỗ lực tự học. Đó cũng là thế hệ gần như cuối cùng trước 1954 có tiếp xúc văn chương, văn hóa Pháp trong hệ thống giáo dục Pháp thuộc địa. Chính ông khi viết về người bạn thân Dương Tường đã khái quát: “thế hệ chúng tôi là thế hệ học sinh của Hà Nội, tuy chưa được học nhiều, nhưng từ nhỏ đã được giáo dục theo tinh thần văn hóa phương Tây”.

Một hành trang thiên về giao thoa văn hóa, tuy chịu nhiều dở dang, song vẫn là vốn quí của thế hệ này, giúp họ luôn cởi mở, hào hứng và quyết liệt lựa chọn cái mới. Theo Nguyễn Xuân Khánh, “tinh thần trân trọng cái mới, đón chào cái mới vào đầu những năm 40 ấy xuất hiện trong đám thanh niên chúng tôi rất mạnh. Và nó đi theo chúng tôi mãi cho tới sau này”.

3.Nhờ tinh thần này, cùng sự tự học không ngừng, những Trần Dần (1926-1997), Dương Tường (sinh năm 1932), Châu Diên (1932-2019), Nguyễn Xuân Khánh đều không bị nhấn chìm, hòa lẫn trong bối cảnh văn nghệ, văn hóa bình dân, bình quân chủ nghĩa đang nổi lên lúc bấy giờ. Hơn nữa, ngay cả khi gặp bí bách, túng thiếu, họ vẫn có thể mưu sinh và làm giàu tri thức bằng một công việc thoạt tiên chỉ là thời vụ: dịch sách, dịch tài liệu ngoại văn.

Vốn tiếng Pháp, tiếng Anh chắc chắn đã giúp họ dịch “đủ mọi lĩnh vực”, từ triết học, xã hội học, đến tâm lí học của nhiều tên tuổi hãy còn xa lạ với số đông miền Bắc lúc bấy giờ như Durkheim, Bachelard, Freud, Jung… Tính chất công việc khai mở kiến thức này, có thể nói, định hình sự khác biệt của thế hệ Nguyễn Xuân Khánh: luôn hướng đến sự đổi mới, khao khát cách tân và thể hiện mình như những “người bay có chân trời”.

Không có con đường độc đạo vùi mình vào sách vở, không có những khó khăn đẩy họ vào sự tĩnh lặng tuyệt đối của văn hóa phương Tây, hẳn họ sẽ không trở thành những cá tính lớn trong nghệ thuật lẫn đời sống. Đứng trong, thuộc về, và sống cùng một thế hệ như vậy, có lẽ, cũng là phước hạnh đời người.

Sự ra đi, dần vơi bóng dáng của thế hệ này, đặt trong sự nổi lên chưa thể nói là rực rỡ của lớp văn nhân ở thì hôm nay, tôi nghĩ, nhiều người sẽ có cảm giác tiếc nuối. Vắng họ, xét đến cùng, là vắng những gì bay bổng, lãng mạn bậc nhất trong hành trình kiến tạo văn chương, văn hóa. Vắng họ cũng là vắng một tâm thế sống bản lĩnh, kiên định và sáng giá.

Theo Mai Anh Tuấn/Văn học Sài Gòn

Bài viết liên quan

Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm
Nhà lý luận phê bình Đỗ Nguyên Thương và tập thơ “Tìm về miền ký ức”
Tôi quen nhà giáo, nhà Lý luận Phê bình văn học Đỗ Nguyên Thương thật tình cờ trong buổi Tọa đàm về Thơ 1-2-3 do nhà thơ Phan Hoàng chủ trì có sự phối hợp của Hội nhà văn Cần Thơ và khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn tường Đại học Cần Thơ.
Xem thêm
Tư tưởng nhân dân anh hùng
1. Vì tình yêu quê hương đất nước, Trần Bảo Định đến với văn chương. Nhà văn Long An để lại dấu ấn đáng kể trong sinh hoạt văn chương từ những năm 2010 đến nay. Bên cạnh bộ sách Đất và người Nam Bộ mến yêu gồm 14 tập truyện ngắn, Trần Bảo Định còn có 6 tập thơ, 5 tập tiểu luận phê bình. Năm 2024, nhà văn trình làng tuyển tập Đất Việt trời Nam liệt truyện gồm 3 tập (thượng, trung, hạ) do Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành. Tái hiện diễn trình lịch sử vùng đất Nam Bộ từ hồi một 1620, hồi hai 1859, đến hồi ba 1900, tuyển tập có thể xem như trường thiên tiểu thuyết ca ngợi tinh thần đấu tranh yêu nước anh dũng của nhân dân Nam Bộ, như lời giới thiệu của Nhà xuất bản: “Chính các anh hùng vô danh mới thể hiện toàn bộ chủ đích nghệ thuật của Trần Bảo Định, cho thấy tư tưởng: nhân dân anh hùng!”
Xem thêm
Thơ tình Nguyên Bình đắm đuối
(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Các nhà thơ từ cổ chí kim không nhiều thì ít đều viết thơ tình, điều đó không có gì lạ; vì tâm hồn họ lãng mạn, mơ mộng, tôn thờ phái đẹp. Nhà thơ Nguyên Bình không nằm ngoài số đó. Anh viết văn làm thơ từ thời sinh viên, cả trước và sau năm 1975. Những bài thơ tình, anh không dám trao tay cô nữ sinh xinh đẹp xứ Huế anh yêu say đắm: Vẫn mãi “Là bài thơ còn hoài trong vở/Giữa giờ chơi mang đến lại mang về” thơ Đỗ Trung Quân.
Xem thêm
Mỹ cảm của kiểu tự sự trong suốt trong tập tản văn “Nỗi buồn trong suốt” của Nguyễn Đức Phú Thọ
Tản văn là một thể loại dễ tiếp cận với mọi mặt của đời sống thông qua những lát cắt hiện thực, nhưng trung tâm tinh thần của thể loại này lại là cái tôi tư tưởng, cảm xúc của người nghệ sĩ. Tản văn vừa đậm chất trữ tình, vừa mang bản chất tự sự. Mỗi tác phẩm là một cách diễn giải về “Thế giới như tôi thấy”, đồng thời cũng là một tấm gương phản chiếu cấu trúc nội tâm của nhà văn.
Xem thêm
Cảm nhận thơ Trần Xuân Hóa từ một góc nhìn đa cảm
Bài viết của nhà thơ CCB Trần Trí Thông
Xem thêm
Hơi thở đất quê trong miền nhớ của Huỳnh Khang
Chủ đề và nội dung trong MIỀN NHỚ xoay quanh ký ức quê hương, tình mẫu tử, nghĩa làng nghĩa xóm, thiên nhiên, tình yêu đôi lứa, nỗi buồn mất mát, cùng những triết lý đời thường.
Xem thêm
Tiếng văn từ phía “bạn nguồn”
Nguyễn Minh Sơn, Hồ Tấn Vũ và Nguyễn Thị Như Hiền là ba cây bút thuộc thế hệ 7X và 9X
Xem thêm
Về trên dặm trường thiên lý “Miền Ô châu”
Tiếp theo các cuốn tản văn Sông vẫn chảy đời sông (NXB Thanh Niên 2023), Bốn mùa thương nhớ (NXB Thanh Niên 2024), nhà văn Nguyễn Linh Giang vừa ra mắt cuốn tản văn mới: “Miền Ô Châu” (NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2025).
Xem thêm
Thơ ca chào đón Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Cách mạng tháng Tám - 1945 thành công, mở ra trang sử vàng chói lọi cho dân tộc. Bác Hồ đọc “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập. Hai tiếng Việt Nam vang lên đầy phấn khởi, tự hào trên trường quốc tế, đã khơi nguồn, làm bừng dậy biết bao cảm hứng về thơ ca, nhạc, họa thật mới mẻ, mãnh liệt và sôi nổi, làm không khí văn nghệ đổi sắc thay da. Từ đây nền văn học của ta chỉ còn duy nhất một trào lưu là văn học cách mạng.
Xem thêm
Hồi hộp trước “phút bù giờ” của Minh Đan
Ngôn ngữ của Minh Đan đôi lúc không còn chỉ là ký tự để giải nghĩa, mà là vật liệu có tâm hồn – biết khít lại, giãn ra, để tạo hình tượng và âm thanh.
Xem thêm