TIN TỨC

Nhà thơ Đinh Thị Thu Vân: Trái tim chân thành, tấm lòng độ lượng

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-01-01 19:10:53
mail facebook google pos stwis
2302 lượt xem

ĐOÀN TUẤN

Mùa mưa những năm 1980-1981, rừng Anlung Viêng, Đông – Bắc Campuchia, tôi bị sốt rét, nằm trên võng trong hầm ngập nước, đồng đội Lê Minh Quốc cầm cho tôi cuốn Văn Nghệ Quân Đội. “Đọc đi. Có bài “Con tem quân đội” hay lắm!”.

Quốc vừa đi gùi thực phẩm ở trung đoàn về, ghé vào, cho tôi quà quý. Tôi mở, đọc ngay: “Anh về từ chiến trường xa/ Con tem quân đội làm quà tặng em/ Tay em năm ngón dẫu mềm/ Vẫn e chưa đủ dịu êm khi cầm…”. Thơ ai mà tự nhiên như thế? Đọc tiếp: “Miền Nam không có mùa đông/ Vẫn em se lạnh sắc hồng trong tay/ Em rằng chỉ thoáng gió lay/ Màu tem lẩn giữa màu mây đồng bằng…”. Tác giả là người Nam bộ. “Màu mây đồng bằng” gợi lên không gian bao la thoáng đãng và trong sáng cao xanh. Chẳng bù cho nơi này, bầu trời thấp phủ xuống rừng lá thấp. Mái hầm sũng nước trùm lên một người đang sốt.

Dạo ấy, hai đứa chúng tôi cùng đơn vị, ngày đi tuần, đêm đi phục. Cả hai đều có ước mơ chung. Làm được những bài thơ phản ánh đúng cuộc sống và chiến đấu của lính tráng. Lê Minh Quốc đang ấp ủ bài thơ dài “Đất nước và Người lính”. Còn tôi, đang làm công việc chôn cất tử sĩ, cũng bắt đầu viết “Đất bên ngoài Tổ quốc”. Toàn chủ đề lớn. Sao có người làm được thơ về cái vật bé xíu? “Con tem quân đội”, chúng tôi có đầy trong ba lô. Đã bao lần lấy tem dán lên bì thư, chúng tôi không ai nghĩ đến chuyện làm thơ về nó. Vậy mà có người viết. Viết rất hay. Sao lại là món quà? Sao phải cầm một cách dịu êm? Sao lại sợ gió lay? Và sắc hồng sao lẩn vào màu mây? Mây đồng bằng có khác gì mây rừng núi?

Khi khỏi sốt rét, tôi khoác súng sang đại đội Quốc. Trò chuyện về thơ. Thơ Quốc viết đầy trên cánh võng. Dưới ánh trăng mờ đêm mùa mưa, hai thằng nằm trên hai con thuyền, tâm tưởng trôi về thơ. Bài thơ ấy nói với chúng tôi rằng, thơ không phải là việc viết về cái gì. Quan trọng nhất, cần phải có hồn thơ trong mọi vật. Hồn thơ ấy tỏa ra từ người làm thơ. Về bài thơ ấn tượng này, tác giả  tâm sự: “Con tem quân đội lưu dấu những rung cảm của thời thiếu nữ trong lành, khi ấy, những năm sau 1975, thay vì đi dạy sau khi tốt nghiệp sư phạm, tôi bước đầu làm quen với văn học, viết và yêu…”.  Đơn giản “viết và yêu” thôi sao? Song, tôi nghĩ, đây là thời gian rất hạnh phúc của chị. Còn gì sung sướng hơn, chỉ việc viết và yêu? Yêu và viết?

Những rung cảm đầu đời, như chị nó “của thời thiếu nữ trong lành” đã khơi trong chị nguồn cảm xúc như thác đổ. Thiên thời – địa lợi – nhân hòa, cả tâm hồn là thơ. Cả đất trời là thơ. Và người mình yêu cũng là cả một vùng sáng đầy thơ. Chị  nhìn đâu cũng thấy thơ. Như bài “Áo người yêu”. Áo quần lính tráng phơi đầy rừng. Còn đậm mùi máu, mùi mồ hôi, mùi thuốc súng, mùi khói mìn… Chúng tôi đâu thấy gì? Nhưng, chị cảm nhận, một sự cảm nhận rất riêng: “Dáng áo cũng trầm như dáng anh/ Về phép chưa quen nắng phố mình/ Để em nhìn chiếc sào phơi mãi/ Chỉ sợ nắng làm áo phai xanh/ Sợi vải nào thương anh giữa đêm?/ Sợi vải nào vương hơi thở mềm?/ Sợi vải nào nhớ vùng ngực ấm?/ Có sợi nào tương tư áo em?”. Rất cổ điển song cũng rất hiện đại về nội dung và hình thức. Không thể phân tích được cổ điển thế nào, hiện đại ở đâu, bởi chúng nhuần nhuyễn, quấn quyện vào nhau.

Người Việt Nam thường sống nặng về tình cảm. Nhiều câu thơ, bài hát đã giúp bao con người vượt qua những thời điểm khó khăn trong cuộc sống. Song, tác giả của những tác phẩm đó thường ít được biết đến giá trị tinh thần của những đứa con tuyệt vời của mình. Tôi có người bạn cũ. Anh tâm sự, nhờ được đọc một bài thơ của tác giả Đinh Thị Thu Vân mà anh như sống lại. Anh đã cứu được cuộc hôn nhân bên bờ vực của mình. Đã cứu được gia đình mình và cứu được chính mình. Anh có tật ghen bóng ghen gió. Một hôm, tình cờ đọc được bài thơ cũ của vợ tặng người yêu thuở sinh viên, anh đã nổi giận. Anh đay nghiến vợ. Và quyết định ly thân.

Trong bước đường lang thang, ở một nhà ga xe lửa, anh mua tờ báo. Tình cờ, trong báo có in “Bài thơ lục bát của anh”. Tưởng chỉ đọc để giết thời gian: “Thơ anh một thuở gieo vần/ Tặng cho ai những tháng năm học trò?/ Cô gái ấy có làm thơ?/ Có yêu anh giống bây giờ em yêu?”. Anh giật mình. Sao giống tình trạng của mình đến thế? Đọc tiếp: “Bây giờ chép lại trao em/ Bài thơ lục bát còn nguyên ngọt ngào”. Anh chàng trong thơ liều hơn vợ mình. Song, giống nhau ở sự cảm nhận hương vị tình đầu “còn nguyên ngọt ngào”.  Nhưng, đến câu sau: “Biết anh chẳng giấu gì nhau/ Nên em mãi ngại ngần câu trách hờn”, anh bỗng giật mình. Chả nhẽ mình là đàn ông, tình cảm lại hẹp hòi hơn người con gái, tác giả của bài thơ sao? Mồ hôi vã ra. Tay run. Anh đọc tiếp: “Chỉ đành trách những con đường/ Khéo bay trăm lá me vương tóc người/ Cho tay anh vội bồi hồi/ Rối trên những sời tóc dài, mềm đi/ Trách ngày sao để đêm về/ Cho bao nỗi nhớ bộn bề vây anh”. Sự đồng cảm đây rồi. Nhưng, tác giả bài thơ cao thượng hơn mình.

Chuyện thơ tình cũ, đâu phải chuyện riêng anh. Của nhiều người khác, nhiều lứa đôi khác. Quan trọng là cách ứng xử bây giờ. Anh đọc hết và nhìn tên tác giả: Đinh Thị Thu Vân. Anh bảo, nếu tên tác giả là nam, chưa chắc anh sửng sốt. Đằng này, lại là nữ. Cảm thấy ân hận và xấu hổ, anh quyết định mua vé quay về… Khi nghe câu chuyện này, nhà thơ khiêm nhường nói: “Tôi luôn nghĩ thơ tôi chỉ như những dòng nhật ký, viết cho mình, chút riêng tư nhỏ lẻ, nhận được yêu mến là do may mắn, chưa bao giờ tôi thấy nó không bé mọn – nghe mọi người nói về sứ mệnh văn chương, tôi tin nhưng điều này dành cho những tác phẩm lớn, mình không tùy tiện vơ vào”. Nhưng, tục ngữ nói: “Cứu một người, phúc đẳng hà sa”.

Thơ đến với chúng ta từ nhiều nguồn. Có người tìm cảm hứng từ thiên nhiên, từ bên ngoài. Rồi tức cảnh sinh tình. Nhưng, ở Đinh Thị Thu Vân, thơ đến từ bên trong. Từ trái tim lúc nào cùng nồng nàn tình yêu, khát khao bao trùm tình yêu lên người mình thương nhớ. Chị yêu hết lòng, như dân gian nói, đến “khô máu”. “Trái tim đã đập chân thành/ Xin yêu ngày tháng chưa dành cho nhau”. Thơ chị nhiều người nhớ, nhiều người thuộc bởi sự chân thành. Đọc lên, nó chiếm được lòng tin của người đọc ngay. Không cần vòng vo nhiều lời, chị tỏa cảm xúc vào người đọc ngay ở câu đầu, khổ thơ đầu. Khiến người đọc chú ý. Sang những khổ thơ sau, người đọc sẵn sàng, tin yêu đi theo cảm xúc của chị. Cuối cùng, bị thơ chị chinh phục. Bị chinh phục một cách hạnh phúc và vui mừng. Hiếm nhà thơ nữ nào có được diễm phúc này.

Chị cho biết: “Riêng với tôi, thơ là chốn dễ nhận ra thật giả nhất đời, thơ như người, càng giả thì càng đáng chán, mà thật đến ngô nghê cũng khó lay động. Không cần phân định nam hay nữ, cứ thơ đẹp là mình nhận ngay ra thôi”. Cảm ơn chị. Chị đã nói thêm một khái niệm “thơ đẹp”. Đúng như nhà văn Nga A. Trekhov viết, một con người đẹp, ngoài ngoại hình, thời trang, cần tâm hồn, lời nói cũng phải đẹp. Cái đẹp trong thơ Đinh Thị Thu Vân chính là sự chân thành. Chân thành đến đau đớn. Nhưng, trước tình trạng thơ đang lạm phát, thơ giả tràn lan, chị nhận xét: “Tác hại của điều này là thấy thơ nhiều quá đâm ra mệt, đâm ra thắc mắc sao mọi người thiếu nhạy cảm quá, sao ồn ào đến vậy, đến bao giờ tai hại này có thể giảm hay ngày càng trở thành thảm nạn!”.

Sinh ở miền Tây Nam bộ, vùng đất đồng bằng, mênh mang trời xanh, gió đồng phóng khoáng nên hồn thơ Đinh Thị Thu Vân, tự bên trong, đã mang đậm dấu ấn phong thủy của quê hương, như Nguyễn Du từng viết: “Văn chương nết đất, thông minh tính trời”. Đọc thơ chị, người ta cảm nhận sự ào ạt, nồng nàn khí trời, của đất, của màu xanh thiên nhiên, của sự quặn lòng của những cơn gió phóng đãng. Bài nào cũng vậy. Nhưng, không bài nào giống nhau.

Mỗi bài là một cung bậc cảm xúc khác nhau, những hướng động tâm hồn khác nhau. Chị có thế mạnh của riêng mình, chỉ duy nhất mình mới có. Chị hiểu điều này. Chị không bao giờ vay mượn cảm xúc của ai. Chính trái tim chị cất lên tiếng hát của chị, dù đôi khi là tiếng khóc. Chị hát lên thành giai điệu nhiều nỗi lòng, nhiều xúc cảm của giới nữ mà nhiều người lâu nay chứa chất trong lòng, không thể nói ra. Một tiếng nói mạnh mẽ, khỏe khoắn cất lên giữa vùng đất Nam Bộ bao la. Nhưng, trong thơ chị, người đọc còn cảm nhận một phẩm chất cao quý, đó là sự độ lượng, đó là đức khoan dung. Rất nhiều khổ thơ, bài thơ của chị thấm đẫm tấm lòng của người chị, người mẹ, người tình… đón đứa con lầm lỗi trở về. Phải là người sâu lắng lắm mới rèn luyện cho mình có được đức hạnh này.

Người ta đọc thơ chị, hiểu được chiều sâu tâm hồn của con người vùng đất này. Chị công nhận: “Chắc phải có “phong thổ” chứ nhưng tôi không nhận ra hết được, chỉ đôi khi tự “xét nét”, tôi thấy mình viết không kiểu cách, không hư danh, thêm cái nết tà tà từ từ làng nhàng thì hẳn là Nam bộ phải không?”. Đúng quá rồi. Thơ và người làm thơ cứ làm điệu, theo đuổi hư danh này nọ, không sớm thì muộn, chỉ nhận được sự bẽ bàng mà thôi. Ở chị, lại thêm cái nết “tà tà” nữa, đúng là đặc điểm người miền Tây. Không vội vã. Cái sự phù phiếm giục người ta làm cẩu thả nhều thứ lắm. Nhưng, chị sớm lánh xa điều này. Cứ tà tà. Nhớ chuyện ngày trước, ở chiến trường K, khi nghe tiếng chim rừng “Tác-ta-tác-ta-ta…”, lính tráng miền Bắc thường phiên âm thành: “Bắt con tép kho cà”, còn lính miền Nam thì lại nhại thành: “Dắt bà xã tà tà…”. Một bên ăn. Một bên chơi. Bên nào cũng vui. Nhưng, bên chơi vui nhiều hơn.

Để làm được thơ hay, cần nhiều yếu tố. Song, yếu tố quan trọng, yếu tố tự thân, đó là sự vô tư. Thấy gì đẹp là thích. Thấy gì hay là khen. Thơ Đinh Thị Thu Vân hay, rất hay vì ở chị có một phẩm chất rất đáng quý, càng quý hơn đối với người làm văn chương, đó là tính không đố kị. Nhiều người làm thơ mắc chứng bệnh này nhưng không nhận ra tác hại của bệnh. Cứ nuôi dưỡng và nó càng gây nguy hiểm cho con bệnh. Nói về chứng bệnh này, chị viết: “Tôi luôn nghĩ sự đố kị nếu mình phải gặp ở ai đó thì… quá đáng lắm, vì tôi không ảo tưởng, không huyễn hoặc, không bon chen, không rộn ràng, tôi chui trong góc khuất, cơ chi mà hẹp lòng”.

Trái tim thơ sau bao năm sóng gió tình đời, giờ đang đập những nhịp điệu bình thường. Dòng sông băng qua bao thác ghềnh giờ đang xuôi về biển. “Tôi luôn cố gắng sống sao để không phiền toái cho bất kỳ ai, một chút cảm giác không đẹp nơi người khác dành cho mình, tôi cũng bứt rứt. Biết mình quá nhạy cảm, đong đo được sự nhạy cảm nơi mình là một bất hạnh, nên tôi luôn cô gắng ru cho nó ngủ, không dễ dàng chút nào”. Có người hỏi, đến tuổi này, chị giữ cho mình những bài học kinh nghiệm gì ?

Chị trả lời: “Để được bình yên, tôi chọn cách sống im lìm, nó phù hợp với cá tính của tôi, ngay từ thời trẻ, tôi đã không quen với những chộn rộn, chỉ có thể tự tin trong ngôi nhà của mình với đôi người thân quen, khác đi là tôi thấy lạc lõng. Kinh nghiệm là không nên thoát khỏi mình, sẽ dễ dàng lao đao lận đận và cô đơn cùng cực!”. Trong thời buổi cuộc sống vận động với tốc độ như hiện nay, công chúng sau khi đuổi theo những ảo ảnh quay cuồng, sẽ ngày càng nhận ra và tìm đến bến đỗ là bến sông thơ của chị.

Nguồn: https://vanvn.vn/

Bài viết liên quan

Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm