- Chân dung & Phỏng vấn
- Nhà văn Lê Lựu: Người cầm cày trên trang viết
Nhà văn Lê Lựu: Người cầm cày trên trang viết
Lê Lựu cầm bút như cầm cày. Ông là người cầm cày trên trang viết. Ông cày trước hết vào cuộc sống của nhân dân mình. Thời chiến tranh ông viết trong dàn đồng ca chung của những người cầm bút cùng thế hệ để ca ngợi những người cầm súng.
Nhà văn Lê Lựu (1938 – 2022)
Nhưng ông vẫn biết cách lật xới những đường cày của mình. Tiểu thuyết “Mở rừng” là như thế. Ở đó, giữa âm hưởng anh hùng, nhà văn đã cho bật ra những nốt trầm về sự tráo trở của con người. Ngay như ở truyện “Người về đồng cói” ca ngợi người thương binh về hậu phương vẫn giữ phẩm chất người lính trong công việc đồng quê thì những nốt trầm ấy vấn vương và có phần nặng hơn.
Có lẽ, từ những dằn vặt sớm có ấy khi nhìn vào cuộc sống bên ngoài mà Lê Lựu cũng đã sớm nhìn vào cuộc sống bên trong của mình, nhìn vào cuộc đời của chính mình. Tiểu thuyết “Thời xa vắng” của ông xuất bản năm 1986 làm giật mình và bối rối mọi người. Khi mà sự đổi mới xã hội chỉ vừa dấy lên. Khi mà mọi người chưa kịp soát xét lại mình. Khi mà mọi sự còn ngổn ngang, dang dở. Khi mà văn chương chưa kịp tìm lại mình trong sự quay về lại với con người. Khi đó Lê Lựu đã nói về một thời gọi là xa vắng nhưng thực ra vẫn đang là hiện tại. Đó là cái thời con người bị/tự đánh mất mình, chỉ sống bằng những cái ngoài mình.
Anh thanh niên nông dân có tên gọi Giang Minh Sài vào lính không phải do xung phong tự nguyện như những nhân vật văn chương khác. Anh chạy vào lính những mong trốn khỏi cuộc hôn nhân mà mình bị ép buộc. Trong khi đó, tình yêu đúng nghĩa mà anh có thì anh lại cũng trốn chạy, không dám giành lấy. Đó là nửa đời đầu của Sài, sống với cái không phải của mình. Anh bị buộc phải sống cho bố mẹ, họ hàng. Sống cho tổ chức.
Từ cuộc chiến trở về đời thường, Giang Minh Sài lại mắc vào những quan hệ rối rắm mà bản chất con người nông dân của anh không thích ứng được. Nửa đời sau anh phải gồng mình sống theo cái mình không có. Kết cục mọi sự với anh đổ sụp, hôn nhân thất bại. Từ thành phố anh chạy trốn về nông thôn, về quê mong tìm lại sự yên ổn. Đó là giải pháp nhà văn tìm cho nhân vật của mình. Thực sự là ông đẩy nhân vật vào bước đường cùng đó. Vì tác giả cũng không có lựa chọn nào khác. Ngay cả cho chính ông.
Giang Minh Sài như thế là một nhân vật bi kịch. Lâu rồi văn chương Việt Nam không có nhân vật hiểu như một cá nhân cụ thể có thân phận, số phận. Nhân vật như là con người này. Chủ nghĩa tập thể và tinh thần lạc quan cách mạng một thời gian dài đã chỉ ưa chuộng nhân vật tập thể mang tính chung của cộng đồng. Anh bộ đội – cô thanh niên xung phong là một mẫu hình tiêu biểu. Cả một nền văn học không gọi được tên một nhân vật nào. Đùng một cái, Giang Minh Sài xuất hiện. Đó đã là một nhân vật. Mà lại là nhân vật bi kịch, biểu thị một hiện tượng bi kịch. Và Sài từ đó trở thành tên gọi một con người, một số phận, một thời kỳ sống. Gọi cả luôn cho tác giả. Giờ nhắc tới Giang Minh Sài là người ta biết đang nói về cái gì. Một đời văn đẻ ra được một nhân vật như vậy đã có thể coi là thành công lớn. Lê Lựu và Giang Minh Sài gắn chặt nhau trong “Thời xa vắng”.
Giờ đây người nông dân cầm cày trên cánh đồng chữ nghĩa đã nằm xuống ở mảnh đất quê mình. Ông đã cày xong cuộc đời mình trên trang viết. Xong ư? Không, người đọc sẽ còn thay ông cày tiếp. Vì thời xa vắng chưa hẳn đã xa. Vì dưới lòng sông vẫn còn sóng, nhiều sóng.
Tưởng nhớ nhà văn Lê Lựu tôi tạm ghép tên các tác phẩm và các nhân vật của ông thành một bài thơ:
Người cầm súng một thời lầm lỗi
Mở rừng đi về phía mặt trời
Chưa yên hàn người về đồng cói
Bỗng thấy mình thành gã dở hơi.
Có hai nhà ở quê ngày ấy
Tâm địa sinh sóng ở đáy sông
Phía sau anh thời xa vắng vậy
Giang Minh Sài vẫn đứng đồng không.
(Người cầm súng, Người về đồng cói, Một thời lầm lỗi, Mở rừng, Phía mặt trời, Phía sau anh, Gã dở hơi, Hai nhà, Sóng ở đáy sông, Ở quê ngày ấy, Thời xa vắng – tên tác phẩm. Giang Minh Sài, Tâm, Địa – tên nhân vật).
Theo Phạm Xuân Nguyên/Vanvn