TIN TỨC

Nhịp điệu của sức bền

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2024-08-21 11:35:14
mail facebook google pos stwis
671 lượt xem

(Về tập phê bình, tiểu luận "Nhịp điệu vẽ lối đi" của Mai Văn Phấn, NXB Hội Nhà văn 2024)                                                                 

 

Lê Hồ Quang

 

1. Trong nhiều tác phẩm và bài viết trao đổi, Mai Văn Phấn thường nhắc đến quan niệm viết (và sáng tạo nghệ thuật nói chung) như một hành động kiến tạo không gian khác –  khác với người khác và khác với chính mình, xem đấy như kim chỉ nam cho quá trình tìm tòi của ông. Đấy là một ý tưởng dễ được chia sẻ (và dễ biến thành các tuyên ngôn to tát) nhưng rất khó để hiện thực hoá, bởi nó buộc người viết phải ý thức đầy đủ về bản chất sáng tạo, biết liên tục đổi mới, hoặc nói cách khác, biết phủ định và tự phủ định. Càng ngày, khi càng đi xa và đạt nhiều thành tựu hơn, Mai Văn Phấn càng thấy rõ áp lực của việc phải khác trong thực hành sáng tạo. Nhưng đồng thời, việc viết trong áp lực (chủ yếu xuất phát từ đòi hỏi của ông với chính bản thân) đã hình thành ở tác giả này một tinh thần và thái độ thực tế mà ta có thể nói đơn giản như sau: muốn viết khác thì phải đọc sâu, đọc rộng. Có lẽ vì vậy, sau nhiều tác phẩm thơ liên tiếp xuất bản trong và ngoài nước, Mai Văn Phấn chọn nhịp bước chậm lại và rẽ sang phê bình với tập Không gian khác (2016) và mới đây nhất, là Nhịp điệu vẽ lối đi (2024).

2. Nhịp điệu vẽ lối đi có cấu trúc khá chặt chẽ với phần 1 – Đuổi bắt ánh sáng với 30 bài viết về các hiện tượng tác giả, tác phẩm văn học cụ thể trong và ngoài nước mà chủ yếu là thơ. Phần 2 – Không đường biên gồm 11 bài viết thể hiện những suy ngẫm của tác giả về thơ nói chung và về hoạt động viết/ sáng tạo trong bối cảnh toàn cầu hoá. Mai Văn Phấn đọc rộng và khá đa dạng. Đối tượng khám phá, phê bình của ông không chỉ tác giả trong nước mà còn bao gồm cả một số tác giả nước ngoài, không chỉ tác giả cùng thế hệ và gần gũi về quan niệm sáng tác mà còn có những tác giả khác thế hệ (đặc biệt có nhiều cây bút mới xuất hiện gần đây) và ít nhiều khác biệt trong quan niệm, tư tưởng; không chỉ các tác giả thơ mà còn có cả các tác giả văn xuôi,… Có thể thấy tinh thần tiếp cận khoa học và kiểu tư duy ấn tượng của nghệ sĩ kết hợp khá nhuần nhị trong phê bình của Mai Văn Phấn, từ cách chọn đối tượng phê bình và góc độ tiếp cận đến cách tổ chức văn bản, cách dùng ngôn từ, hình ảnh,... Một mặt, ông cố gắng phân tích các hiện tượng văn học một cách rành mạch, từ nhiều góc độ, phương diện cụ thể (hình tượng, cấu trúc, bút pháp, hoàn cảnh sáng tác…), mặt khác, ông luôn quan tâm tới các cảm giác, ấn tượng chủ quan được gợi lên trong quá trình tiếp xúc với tác giả, tác phẩm. Tên sách – Nhịp điệu vẽ lối đi – (và tên nhiều bài viết trong đó) được diễn đạt một cách hình ảnh, thể hiện khá rõ hướng tiếp cận cũng như cái “tứ” chung của tác phẩm. Là tác giả của 13 tập thơ và trường ca (xuất bản trong nước) và nhiều tập thơ được dịch và xuất bản ở nước ngoài, với Mai Văn Phấn, viết phê bình thực ra cũng là một cách để ông đến với thơ, từ góc nhìn và hướng tiếp cận khác. Điều này giải thích vì sao đối tượng chiếm đa số trong phê bình của ông là các tác giả, tác phẩm thơ. Ở mỗi tác giả, Mai Văn Phấn luôn cố gắng xác định cái tứ bao trùm, chi phối sáng tác của họ (thường là tứ về không gian khác), định danh nó bằng các hình ảnh, từ ngữ ngắn gọn và trong nội dung bài viết, tập trung xoáy sâu vào vấn đề/ hình tượng đó (thường thể hiện ngay trong tiêu đề của bài), ví dụ Không gian phi biên giới trong thơ Pháp Hoan, Nơi tụ hội ánh sáng (về thơ Đinh Trần Phương), Dấu chân trên hành trình tuyệt mù (về thơ Trần Tuấn), Cõi tinh sương trong “Màu tự nhiên” (về thơ Hàm Anh), Thức dậy trên đất lạ (về thơ Lương Kim Phương), Thơ Khosiyat Rustam, một con đường, một thế giới…  

3. Có thể nói, với người đọc, phê bình của Mai Văn Phấn - trước là Không gian khác và nay là Nhịp điệu vẽ lối đi - là một bản hướng dẫn/ gợi ý đọc hiệu quả. Danh mục tác giả được bàn tới trong cuốn sách khá phong phú, với nhiều cây bút mới, có tư duy và cách viết hiện đại. Màu sắc, dấu ấn riêng của mỗi tác giả được Mai Văn Phấn phân tích, lí giải khá cặn kẽ, bằng ngôn ngữ và giọng điệu ôn tồn, chừng mực, thể hiện rõ tấm lòng tri âm, liên tài. Sự đánh giá, thẩm bình của ông nhìn chung tinh tế và xác đáng, đặc biệt đối với các hiện tượng thơ. Đối với người viết, phê bình của Mai Văn Phấn có thể giúp rút ra những nhận thức ý nghĩa về hoạt động sáng tạo nói chung, làm thơ nói riêng, đặc biệt về mối quan hệ tương hỗ, tác động tích cực giữa hoạt động đọc (tiếp nhận) và viết (sáng tạo). Đọc nuôi dưỡng và thúc đẩy ý tưởng viết; viết là hiện thực hoá ý tưởng từ đọc và suy ngẫm. Hoạt động phê bình, do vậy, có ý nghĩa đặc biệt với chính Mai Văn Phấn. Ông đọc các tác giả khác trong tinh thần đối thoại cởi mở, qua đó, mở rộng kiến văn và tư duy, soát xét lại nhận thức, quan niệm, đồng thời, tiếp thu, học hỏi tích cực từ những cấu trúc không gian và nhịp điệu nghệ thuật khác. Viết phê bình cũng là cách để ông chia sẻ, xác nhận và cố định hoá những ý tưởng phong phú nảy sinh trong quá trình đọc và suy ngẫm, đối thoại. Tóm lại, với ông, phê bình là hành động tự ý thức hết sức cần thiết của nghệ sĩ.

Nhà thơ, nhà phê bình Mai Văn Phấn

4. Tuy nhiên, dù đã được cấu trúc theo ý tưởng “Nhịp điệu vẽ lối đi”, cuốn sách vẫn ít nhiều lộ ra tính tập hợp, ghép nối (do các bài được viết trong nhiều thời điểm và đề tài không hoàn toàn thống nhất). Trong một số bài, sự phân tích mới dừng lại ở việc nêu vấn đề hoặc những ấn tượng cảm tính (dù thường là chính xác) mà chưa đẩy tới cùng mạch phân tích, lập luận. Tư duy hình tượng của người sáng tác khiến tác giả dễ dàng “bắt sóng” với những cách nghĩ, cách diễn tả giàu thi tính của các nhà thơ khác nhưng nó cũng kéo theo một số “hệ luỵ” nhất định, chẳng hạn, một khi quá chú trọng đến tính “mê hoặc” của các hình ảnh (thường được ông dùng để mã hoá đặc điểm của các đối tượng phê bình, một kiểu diễn đạt thường gặp trong thơ, ví dụ: Đuổi bắt ánh sáng,…) mà chưa thực chú ý đến sự tương thích của hình ảnh với đối tượng hoặc chưa dành cho chúng những thuyết minh khái niệm cần thiết, thì chính cách nói hình ảnh đầy hấp dẫn đó sẽ gây nhiễu tiếp nhận, khiến độc giả khó hình dung được một cách chính xác, rành rõ về vấn đề hoặc đối tượng đang được nói tới.

5. Thay vì hướng đến một kết quả cuối cùng, mang tính hoàn tất, Mai Văn Phấn chủ trương hướng đến một hành trình sáng tạo mở. Ở đó, thành công của người nghệ sĩ không chỉ được tính đếm bằng các sản phẩm cụ thể mà phải được tính/ ghi nhận bằng sự nhạy bén và cởi mở của tư duy, bằng khả năng sản sinh và thực hành các ý tưởng mới. Quá trình tiếp xúc có ý thức với những không gian nghệ thuật khác, đa chiều khiến Mai Văn Phấn phát hiện thêm nhiều vấn đề thực sự có ý nghĩa đối với chủ thể và hoạt động sáng tạo. Việc không ngừng đọc, viết và ngẫm nghĩ, học hỏi cũng giúp ông phá vỡ được nhiều định kiến và sự xơ cứng, trì trệ trong nhận thức và tư duy (mà một người sáng tác lâu năm rất dễ mắc phải) để đi đến một cách nhìn, cách viết ngày càng bao quát, chân thực và tự nhiên. Từ tốn nhưng mạnh mẽ và liên tục, đấy là nhịp điệu sáng tạo của Mai Văn Phấn. Nó được hình thành từ những thôi thúc tinh thần tự thân của một người viết bản lĩnh, luôn ý thức về đường đi và đích đến của mình –  nhịp điệu của sức bền.

 

Vinh, 7/8/2024

L.H.Q

 

(Nguồn bài viết: https://lehoquang1312.blogspot.com/2024/08/nhip-ieu-cua-suc-ben.html)

Bài viết liên quan

Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm