TIN TỨC

Roman Jakobson định nghĩa “Thế nào là thơ?”

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-06-06 07:07:28
mail facebook google pos stwis
2917 lượt xem

LÊ XUÂN LÂM

Roman Jakobson (1986-1982) là nhà Thi pháp học lừng danh người Mỹ, gốc Nga. Chuyện tôi đọc và kể lại dưới đây về định nghĩa THƠ của Roman Jakobson là từ sách THƠ, THI PHÁP VÀ CHÂN DUNG của Đặng Tiến, (Nxb Phụ nữ, 2009) và sách PHÊ BÌNH VĂN HỌC THẾ KỶ XX của Thụy Khuê, (Nxb Hội Nhà văn, 2018). Riêng về Ngữ học, tôi dẫn theo Ferdinand de Saussure (1857-1913), sách GIÁO TRÌNH NGÔN NGỮ HỌC ĐẠI CƯƠNG, (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1973).

Theo Đặng Tiến, Roman Jakobson cho rằng: “Muốn biết thơ là gì, thì phải đối lập với cái không phải là thơ”. Đặng Tiến dẫn tiếp: Roman Jakobson nêu câu hỏi, “Thi tính phát hiện cách nào?”. Và lý giải: “Một từ được cảm nhận như một từ, chứ không phải cái thay thế cho sự vật được gọi tên, hay một bùng vỡ cảm xúc.Rằng là: từ pháp và cú pháp, ý nghĩa, ngoại hình và nội hình của chúng không phải là những chỉ dấu dửng dưng của thực tại, mà chúng có trọng lượng riêng và giá trị nội tại.”

“Tóm lại, thơ là một ngôn ngữ tự lấy mình làm đối tượng”. (Đặng Tiến. Sđd, tr.26).

Nhắc lại ý kiến này của Roman Jakobson: “Khi thi tính, chức năng thi ca chiếm vị thế chủ đạo trong một tác phẩm văn chương, thì ta gọi là thơ”, là để lưu ý rằng, Roman Jakobson đang truy vào “cái nên Thơ”, cũng tức là đang truy vào NỘI DUNG của cái gọi là thơ, nhằm trả lời câu hỏi “Thế nào là Thơ”, để tìm cách định nghĩa Thơ. Như vấn đề mà Roman Jakobson nêu, thì tôi nghĩ, cái mà ông đang truy tìm là THI TÍNH. Nhưng, rốt cuộc, THI TÍNH là cái gì và nó tồn tại như thế nào trong Thơ?

1.

Những trích dẫn ý kiến của Roman Jakobson nêu trên, thật không dễ hiểu. Câu hỏi là tại sao Roman Jakobson lại cho rằng: “Một TỪ (tôi viết hoa) được cảm nhận như một TỪ, chứ không phải cái thay thế cho sự vật được gọi tên, hay một bùng vỡ cảm xúc…”, lại là dấu hiệu để căn dựa vào, nhằm phát hiện ra THI TÍNH?

Khi khẳng định như vậy, có phải chăng là Roman Jakobson muốn nói rằng, Thi pháp là cái khiến THI TÍNH được bộc lộ ra?! Nói dễ hiểu hơn, chất thơ, hay một tác phẩm văn chương chỉ được xác định là Thơ, khi THI TÍNH giữ vai trò chủ đạo. Và, mà để có nó, tức là để có THI TÍNH, thì phương pháp sử dụng TỪ (từ pháp), phương pháp tạo lập câu thơ (cú pháp), phải bằng/ là một cơ chế đặc biệt sáng tạo thế nào đó, để ý nghĩa “ngoại hình” và “nội hình” của chúng (của TỪ định danh Sự vật – Hiện tượng – Quan hệ... trong thực tại), “không phải là chỉ dấu dững dưng”, mà tạo ra một giá trị mới, “có trọng lượng riêng và giá trị nội tại”.

2.

Vậy THI TÍNH là cái gì? Nó xuất hiện ra sao và tồn tại như thế nào trong Thơ?

2.1. Chính Roman Jakobson đã nói: “Thơ là ngôn ngữ trong chức năng thẩm mỹ” (Thụy Khuê. Sđd, tr.239). Cũng chính Roman Jakobson còn nhấn mạnh rằng, khác với văn xuôi, “Thơ là một ngôn ngữ tự lấy mình làm đối tượng”. (Đặng Tiến. Sđd, tr.16). Phổ biến hơn, cũng là nôm na dễ hiểu hơn, người ta thường nói, “Thơ là nghệ thuật ngôn từ”!

Tất cả những cách tiếp cận thơ như trên, rút lại đều cùng hướng đến nhận thức rằng THI TÍNH trước hết là cái nằm ở trong ngôn ngữ Thơ, chứ không phải ngôn ngữ nói chung. Nhưng “Thế nào là ngôn ngữ Thơ?”. Trả lời câu hỏi này, rõ ràng không có cách nào khác hơn, là phải tìm đến tính ĐA NGHĨA HÀM ẨN của TỪ, cũng là của ngôn ngữ nói chung.

2.2. Ferdinand de Saussure cho rằng: “Tín hiệu ngôn ngữ là võ đoán” (F.de Saussure, Sđd, tr.122), tức là không lý do, là không tìm được căn nguyên mối liên hệ giữa vỏ âm thanh (cái biểu hiện) và ý nghĩa (cái được biểu hiện) trong một tín hiệu ngôn ngữ (TỪ), cũng như căn nguyên mối liên hệ với các tín hiệu ngôn ngữ khác (TỪ khác). Riêng tôi thì cho rằng: TÍN HIỆU NGÔN NGỮ RA ĐỜI THEO CƠ CHẾ ĐẠI DIỆN – NHẬN BIẾT. ĐẠI DIỆN cho cái gì, và căn cứ vào cái gì để NHẬN BIẾT cái gì, là những điều tôi sẽ trình bày dưới đây.

2.2.1. Trước tiên, tôi tán đồng luận đề của Ferdinand de Saussure, rằng TỪ là một tín hiệu ngôn ngữ gồm hai mặt âm và ý gắn bó với nhau “như hai mặt của một tờ giấy” (F.de Saussure, Sđd, tr.197). Một mặt là hình thức công cụ chuyển tải, chính là âm thanh (lời nói), hoặc là ký tự (chữ viết); một mặt là nội dung thông điệp, chính là ý nghĩa của TỪ, được ký hiệu của TỪ ấy chuyển tải.

Lời nói, hoặc chữ viết, thì như là cái vỏ hình thức, mang tính ĐẶC TRƯNG DÂN TỘC; còn nghĩa là cái ruột nội dung, thì mang tính PHỔ NIỆM NHÂN LOẠI. Thí dụ người Việt nói “cái bàn ăn”, thì người Anh nói “Dining table”, tiếng nói và chữ viết khác nhau là thế, nhưng ý nghĩa khái niệm về sự vật, cơ bản không có gì khác nhau cả.

2.2.2. Tính ĐẠI DIỆN thể hiện ở cái hình thức vỏ âm thanh, hoặc kiểu ký tự. Đó là tùy vào sở thích, có chất lượng văn hóa của mỗi dân tộc, mà dân tộc đó chọn một loại âm thanh, và/ hoặc một kiểu chữ viết nhất định, để định danh (đặt – gọi tên) cho Sự vật – Hiện tượng – Quan hệ... của thực tại; sao cho, khi âm thanh, hoặc chữ viết đó, được gọi lên bằng lời, hoặc viết ra thành chữ, theo cách của dân tộc đó, thì phần ý nghĩa, được ký hiệu bằng âm thanh, hoặc bằng chữ viết ấy, sẽ được tái hiện trong cảm thức, trong nhận thức ngôn ngữ của người ta, cho người ta NHẬN BIẾT Sự vật – Hiện tượng – Quan hệ... đã được đặt – gọi tên ra, bằng chính âm thanh, hoặc bằng chính chữ viết ấy.

Nhưng tại sao lại chọn âm thanh để làm ký hiệu ngôn ngữ? Đây là vấn đề không thuộc câu chuyện mà tôi đang kể ở đây. Chỉ nói gọn là vì, theo tôi, âm thanh là một loại vật chất dạng sóng, có giải phổ tần tách biệt nhận biết vô cùng rộng lớn và cực kỳ linh hoạt cho năng lực mô tả đủ mọi sắc thái tồn tại của Sự vật – Hiện tượng – Quan hệ... trong tồn tại, nên mới biệt phân, mới định biệt... tồn tại được, tức là mới đặt – gọi tên cho sự tồn tại theo CƠ CHẾ ĐẠI DIỆN – NHẬN BIẾT, để mới NHẬN BIẾT tồn tại được.

2.2.3. Trở lại vấn đề đang nói ở đây, rằng CƠ CHẾ ĐẠI DIỆN – NHẬN BIẾT, tức là Đại diện để Nhận biết cái Đại diện đó, cho thấy TÍN HIỆU NGÔN NGỮ (TỪ) chỉ như là một dấu hiệu âm thanh, mà không phải là toàn bộ âm thanh có thể phải có, cũng không cần phải gồm toàn bộ âm thanh như thế, vì chỉ cần một chỉ dấu biệt phân - định là đủ.

Vì thế, nên không phải tín hiệu ngôn ngữ cụ thể ấy (TỪ) là toàn bộ ý nghĩa, tức là nội dung, của chính nó. TÍN HIỆU NGÔN NGỮ MANG TÍNH ĐẠI DIỆN – NHẬN BIẾT, nên chỉ khi được sử dụng, tức là khi tham gia vào hoạt động ngôn ngữ, vào hoàn cảnh ngôn ngữ (ngữ cảnh) nào đó, thì một nét ý nghĩa cụ thể nào đó, gồm chứa trong tín hiệu ngôn ngữ đó (trong TỪ ấy), sẽ được thể hiện ra.

CƠ CHẾ ĐẠI DIỆN – NHẬN BIẾT trong thành tạo Từ, tức tín hiệu ngôn ngữ, đã lý giải vì sao tên gọi Sự vật – Hiện tượng – Quan hệ... trong tồn tại, không đồng nhất một – một với chính Sự vật – Hiện tượng – Quan hệ... được tín hiệu ngôn ngữ (TỪ) ấy định danh. Vì vậy, nghĩa của TỪ, luôn là một khối HÀM ẨN, do vỏ âm thanh, hoặc ký tự (chữ viết), được cộng đồng ngôn ngữ lấy làm đại diện, để khi nói hoặc viết sẽ đượcgợi ra, sẽ phát tác ra, một cách phù hợp với hoàn cảnh, mà TỪ đó xuất hiện.

HÀM ẨN nghĩa, do vậy, chính là đối tượng của Thơ; chính là cơ sở để Roman Jakobson khẳng định “Thơ là ngôn ngữ tự lấy mình làm đối tượng”; HÀM ẨN nghĩa đó cũng chính là THI TÍNH.

2.2.4. Như vậy là nếu TỪ không được thành tạo theo CƠ CHẾ ĐẠI DIỆN – NHẬN BIẾT, để một cách khách quan, một cách mặc nhiên, TỪ luôn là một ĐA NGHĨA HÀM ẨN, thì Thơ sẽ không có đối tượng khai thác, không tìm được công cụ để phản ánh, nghĩa là sẽ không có ngôn ngữ thơ, tức là sẽ không có Thơ, như một nghệ thuật phản ánh.

Ngôn ngữ Thơ, do vậy là ngôn ngữ HÀM ẨN, ngôn ngữ ẨN DỤ, nói khái quát, thì đó là ngôn ngữ HÌNH TƯỢNG (hình tượng của ngôn ngữ).

Mặt khác, như trên tôi đã nói đến hoàn cảnh ngôn ngữ (ngữ cảnh), tức là nói đến tín hiệu ngôn ngữ (TỪ) khi và trong hoạt động ngôn ngữ của nó, là tôi muốn nói rằng, chỉ trong hoạt động ngôn ngữ, như trong nói năng giao tiếp, ở đây là trong tác phẩm thơ, thì những tín hiệu ngôn ngữ ấy mới trở thành những ẨN DỤ, ẨN NGỮ, những HÌNH TƯỢNG NGÔN NGỮ; cũng chính là tôi muốn nói rằng, khi và chỉ khi tham gia làm nên các cấu trúc, như câu thơ, bài thơ, thì các tín hiệu ngôn ngữ đó, trong cấu trúc ấy, mới trở thành ẨN DỤ, ẨN NGỮ, thành HÌNH TƯỢNG NGÔN NGỮ THƠ.

Hay nói khác đi, thì chính là các cấu trúc kia, bằng sức mạnh tổ chức (cú pháp) “quái đản” (chữ dùng của GS Phan Ngọc) của nó, đã khiến ý nghĩa tàng ẩn trong các tínhiệu ngôn ngữ phát tác ra. “Vật chất chỉ bộc lộ thuộc tính khi vận động”, là vậy. Rằng chỉ có cách tổ chức ngôn ngữ “quái đản” của thơ, tức là cách chọn lựa và kết hợp các tín hiệu ngôn ngữ (TỪ) thành câu thơ, bài thơ, một cách khác biệt, đặc trưng, chỉ thơ mới có được, thì mới làm xuất tác ra ẨN DỤ, ẨN NGỮ, ra HÌNH TƯỢNG THƠ, do thơ và vì thơ mà thôi.

3.

Đến đây đã có thể hiểu vì sao Đặng Tiến đã cho biết là ông dễ dàng đồng thuận với Roman Jakobson, rằng: “Về lý thuyết, ngôn ngữ nói chung và văn xuôi nói riêng nhằm phục vụ cho một đối tượng trong đời sống hàng ngày. Thơ trái lại, là một ngôn ngữ tự lấy mình làm đối tượng”.

3.1. “Thơ là một ngôn ngữ...” thì đúng rồi, ngôn ngữ nào thơ ấy, nhưng chỉ đúng một nửa! Chỉ chừng nào “một ngôn ngữ tự lấy mình làm đối tượng” thì mới làm ra Thơ, chính thật Thơ. Thí dụ người Việt, dùng chữ Hán để làm thơ, nhưng vẫn không phải là thơ của người Hán. Vẫn là thơ Việt, vì nó mang theo chữ Hán cái hồn cốt của người Việt. Có thể nêu vô khối những thí dụ cho vấn đề nêu đây bằng dẫn chứng Thơ chữ Hán củacác cụ ta xưa. Cả như vậy, thì ĐỊNH NGHĨA: “Thơ là một ngôn ngữ tự lấy mình làm đối tượng”, như Roman Jakobson định nghĩa, vẫn chẳng dễ hiểu chút nào!

Hiểu sao cho phải khi ai cũng biết, như văn xuôi, Thơ cũng dùng ngôn ngữ để phản ánh hiện thực, tức là hiện thực và nhận thức hiện thực, đều là đối tượng của tư duy, mà Thơ hay văn xuôi, đều lấy ngôn ngữ làm công cụ để phản ánh. Theo Đặng Tiến, có lúc Roman Jakobson còn ĐỊNH NGHĨA thơ cực đoan hơn. Rằng: “Thơ là một ngôn ngữ tự lấy mình làm cứu cánh”. (Đặng Tiến, Sđd, tr.12). Định nghĩa như thế, rõ ràng là đã “gây khó” cho không chỉ người cần được chỉ dẫn “tiêu dùng” Thơ, mà còn chẳng dễ giúp đỡ hướng nghiệp cho người “sản xuất” Thơ. Để phân biệt Thơ với văn xuôi, người xưa, như tại HÁN VIỆT TỰ ĐIỂN của Thiều Chiểu “định nghĩa”: “Văn có vần gọi là thơ” thật đơn giản. Nhưng ngày nay, không ai còn có thể định nghĩa giản đơn như vậy. Vì đã có loại thơ không vần mà lại rất Thơ!

3.2. ĐỊNH NGHĨA: “Thơ là một ngôn ngữ tự lấy mình làm đối tượng”, hẳn là Roman Jakobson muốn đặt thơ làm cơ sở cho Thi pháp học – một bộ môn nghiên cứu về Thơ như một SIÊU ngôn ngữ, không đơn giản nhằm phục vụ “người tiêu dùng Thơ”, cho kẻ thích Thơ, yêu thơ, lấy đó làm căn cứ, để nhận diện Thơ, hiểu thơ, rồi càng yêu Thơ hơn. Với “người tiêu dùng Thơ”, đọc và thưởng thức Thơ, thì chỉ cần dựa vào trực cảm bản thân, dựa vào cảm thức ngôn ngữ của chính mình, là đủ để nhận biết cái gì là thơ, cái gì không phải thơ... thế thôi.

3.3. Có thể truy nguyên ĐỊNH NGHĨA của Roman Jakobson: “Thơ là một ngôn ngữ tự lấy mình làm đối tượng” không? Được! Và tôi hiểu như sau:

Một là, khi nói: “Thơ là một ngôn ngữ tự lấy mình làm đối tượng”, như Đặng Tiến cũng đã có nhận xét, rằng không có nghĩa là Roman Jakobson nói đối tượng của Thơ không phải là cuộc sống con người, mà trái lại, Thơ trước sau vẫn là một loại công cụ phản ánh; mà rằng cuộc sống con người đã mặc nhiên được cái phản ánh là ngôn ngữ phản ánh trong tín hiệu ngôn ngữ ngay từ khi nó ra đời rồi. Nói cách khác, trong CÁI PHẢN ÁNH là ngôn ngữ, đã chứa đựng CÁI ĐƯỢC PHẢN ÁNH, là tồn tại, chính là nội dung, là ngữ nghĩa của tín hiệu ngôn ngữ đó rồi.

Hai là, vấn đề ĐẠI DIỆN – NHẬN BIẾT như là CƠ CHẾ RA ĐỜI của tín hiệu ngôn ngữ, chính là để nói rằng, nghĩa của tín hiệu ngôn ngữ (TỪ) không bao giờ cũng là quan hệ 1/1 với chính bản thân tín hiệu ngôn ngữ đó, kể cả trường hợp đồng âm. (Thí dụ BÀN là cái bàn với BÀN là bàn bạc, luận đàm...). Rằng BIỂU VẬT chỉ là một nét, một tiêu chí để nhận biết TỪ đó với TỪ khác; trong khi BIỂU NIỆM, gọi ra hay chứa đựng trong tín hiệu ngôn ngữ, về BIỂU VẬT, tên gọi Sự vật – Hiện tượng – Quan hệ... trong tồn tại..., thì rộng lớn hơn, đa dạng hơn, nên đa nghĩa hơn. Nói lấy “ngôn ngữ làm đối tượng” chính là nói lấy cái BIỂU NIỆM của tín hiệu ngôn ngữ, trong tín hiệu ngôn ngữ, làm đối tượng.

Ba là, như khi giới thiệu về Roman Jakobson, tại các trang 238-239-240, sách PHÊ BÌNH VĂN HỌC THẾ KỶ XX, Thụy Khuê đã dẫn một quan điểm “bạo liệt” của Roman Jakobson: “Hành động Thơ là hành động cưỡng bức ngôn ngữ”, để tiếp đó bà giới thiệu những quan điểm của Roman Jakobson về “CHỨC NĂNG CỦA THI CA”. Rằng: “Chức năng của nghệ thuật là làm nổi bật thông điệp từ người nói (hay người viết) đến người nghe (hay người đọc). VẬY CHỦ ĐỀ CHÍNH CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU THƠ LÀ SỰ NGHIÊN CỨU NGÔN NGỮ TRONG CHỨC NĂNG LÀM NỔI BẬT THÔNG ĐIỆP (tôi viết hoa). Chức năng này quan trọng hơn cả, nó giúp chúng ta hiểu rõ và phân biệt ngôn ngữ Thơ và ngôn ngữ hàng ngày”. Và tôi còn cho rằng, không chỉ người nghiên cứu, mà ở cấp độ người thưởng thức Thơ, cũng cần đọc cho ra cái “CHỨC NĂNG LÀM NỔI BẬT THÔNG ĐIỆP”, mà không phải chỉ là chức năng chuyển tải THÔNG TIN, thì mới thưởng thức được Thơ như một loại hình nghệ thuật ngôn từ.

Bốn là, Roman Jakobson còn nêu quan điểm đúng đắn rằng: “Nếu nghệ thuật hội họa là sự tạo hình bằng chất liệu thị giác có giá trị tự tại, nếu âm nhạc là sự tạo âm bằng chất liệu âm thanh có giá trị tự tại, và vũ điệu là sự tạo hình bằng chất liệu cử chỉ có giá trị tự tại, thì thơ là sự tạo thể bằng chữ có giá trị tự tại, tự chủ, (…) Thơ là ngôn ngữ trong chức năng thẩm mỹ”.

Theo Roman Jakobson: “Ngôn ngữ thơ có một thủ pháp cơ bản là sự kết nối hai yếu tố. Về mặt ngữ nghĩa, thủ pháp này xuất hiện dưới các dạng: song song, so sánh (trường hợp đặc biệt của song song), hóa thân (song song chiếu trên thời gian) và ẩn dụ (song song rút gọn thành một điểm). Về mặt hòa âm, thủ pháp chồng đè xuất hiện dưới các dạng: Vần, ép vận hay hiệp vần và láy điệp âm.

Năm là, vấn đề “Chức năng làm nổi bật thông điệp” của nghệ thuật Thơ, là để lấy THÔNG ĐIỆP làm CÔNG CỤ, làm CÁI PHẢN ÁNH TƯ TƯỞNG của Thơ. Đây là cách Thơ hướng đến ngôn ngữ như một đối tượng nhằm thiết lập THÔNG ĐIỆP. Đây là công việc giải mã ký hiệu ngôn ngữ (TỪ), giải mã Cấu trúc – Chức năng (Tổ hợp TỪ, Câu Thơ, Bài Thơ) của Tác phẩm Thơ; nhằm tìm ra Ẩn dụ, Ẩn ngữ, tìm ra HÌNH TƯỢNG Thơ, tức là tìm ra những CÔNG CỤ xây dựng và chuyển tải THÔNG ĐIỆP TƯ TƯỞNG của tác phẩm Thơ, của Thơ, của Nhà Thơ.

4.

Tóm lại, khi ĐỊNH NGHĨA: “Thơ là một ngôn ngữ tự lấy mình làm đối tượng”, mục tiêu của Roman Jakobson, là nhằm đưa ra một định nghĩa về Thơ, đủ cả tính phổ quát về ý nghĩa và tính phổ dụng về công năng. Cái mà ông gọi là THI TÍNH, là “khi thi tính, chức năng thi ca chiếm vị thế chủ đạo trong một tác phẩm văn chương thì ta gọi là thơ.” Ông đã định nghĩaTHI TÍNH bằng cách mô tả tồn tại của nó, đúng hơn là Đặng Tiến và Thụy Khuê đã dịch dẫn Roman Jakobson mô tả cách phát hiện THI TÍNH trong Thơ để xác định Thơ.

4.1. Đó chính là những khía cạnh, của những nội dung đã kể đến ở các mục trên. THI TÍNH CHÍNH LÀ HÀM ẨN NGỮ NGHĨA, do tín hiệu ngôn ngữ đó, và trong tín hiệu ngôn ngữ đó, được “bùng vỡ” ra, bị phát tác ra... dưới tác động của THI PHÁP.

4.2. Nếu không thế thì làm sao ĐỊNH NGHĨA: “Thơ là một ngôn ngữ tự lấy mình làm đối tượng”, để phân biệt cái là Thơ với cái không phải là Thơ như Roman Jakobson đã định nghĩa. “Thơ là một ngôn ngữ...” thì hẳn nhiên rồi. Vì ngôn ngữ nào, Thơ ấy. Ngôn ngữ là công cụ, là cái phản ánh kia mà.

4.3. Như vậy có thể nói rằng ĐỊNH NGHĨA: “Thơ là một ngôn ngữ tự lấy mình làm đối tượng” của Roman Jakobson đã giúp người đọc hiểu “Thế nào là thơ?” hơn là nhận diện “Thơ là gì?”, nhất là Thơ của người Việt Nam, bằng tiếng Việt. Mỗi một nền thi ca của mỗi một dân tộc, cần có một định nghĩa Thơ của nó, cho riêng nó, chính vì “Thơ là một ngôn ngữ tự lấy mình làm đối tượng”. Và, bởi Thơ không chỉ là TỪ, là tín hiệu ngôn ngữ, mà đi cùng TỪ, cùng tín hiệu ngôn ngữ là Tâm lý, Văn hóa, là Hồn cốt của Dân tộc sử dụng tín hiệu ngôn ngữ ấy. THI TÍNH, hay CHẤT THƠ ở trong ngôn ngữ thì như nhau, nhưng cách thức làm cho THI TÍNH, làm cho CHẤT THƠ hiện hình thành ngôn ngữ Thơ, trở thành THÔNG ĐIỆP của bài Thơ, thành Phong cách của nhà Thơ..., thì mỗi dân tộc, mỗi một ngôn ngữ lại rất khác nhau.

Thơ Việt Nam, do vậy cần một ĐỊNH NGHĨA để dễ nhận diện Thơ, để “sản xuất và tiêu dùng” Thơ hiệu quả hơn.

Nguồn Văn nghệ số 23/2022

Bài viết liên quan

Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm