TIN TỨC

“Ta về” và … ba câu hỏi trước một cuộc trở lại…

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-04-12 10:18:07
mail facebook google pos stwis
1321 lượt xem

LÊ XUÂN LÂM

Đó là bài thơ của Mạc Phong Tuyền, một tác giả trẻ xứ Thanh.

TA VỀ

Cạn ngày cạo vỏ hồn thơ

Bụi ngôn ngữ lấm trang vô thường đời
 

Hèn sang cũng chỉ

kiếp người

Phân phong đoạt thoán khóc cười lê thê
 

Ngược dòng lội quãng sông mê

Gạo thơm mặc kẻ

cơm khê mặc người
 

Ta về

làm ngọn gió lười

Ngủ trên phiến liếp tháng mười

em che
 

Ta về làm chiếc lá me

Vương vương suối tóc em hoe hoe chiều
 

Ta về làm mảnh trăng xiêu

Ghé đêm

quỳnh nở

thưởng Kiều em ngâm
 

Ta về thương áo tứ thân

Mưa xuân em đảnh lễ lâm thâm phùn
 

Ta về

thương hạt hạt bùn

Gót hồng - guốc mộc (hôn chùn chụt hôn)...
 

—Mạc Phong Tuyền

……

Đọc TA VỀ , cảm nhận tức thì của tôi, là vừa được anh chàng Mạc Phong Tuyền mời dự “Một đại tiệc ngôn ngữ Thơ ”, với đầy ắp những ẩn dụ mê hoặc, những tạo từ dị thường, những biến tấu sáu – tám bất ngờ… Tôi bị cuốn hút theo luận giải của bài thơ về cuộc đời của một con người làm thơ…

1.  TA VỀ?...

Cái đầu đề bài thơ, chữ TA kia, hẳn nhiên là tự xưng, tự chủ - động của chính “nhân vật trữ tình” của Thi phẩm rồi. Nhưng tại sao lại VỀ? Về đâu? Và để làm gì? Là ba câu hỏi treo trước cảm – thức của tôi.

Tôi biết trong tiếng Việt ta, có hai chữ VỀ, đồng âm, nhưng khác nghĩa. Một là động từ, chỉ vận động chuyển dời vị trí, không phải đi tới trước, mà là quay lại sau. Một nữa, là từ chỉ hướng vận động, trở lại nơi chốn trước… Với TA VỀ ở đây, tôi thấy, ẩn trước VỀ có cả ĐI, nên VỀ vừa là động từ chỉ vận động, lại vừa là từ chỉ hướng vận động…

Và, tôi nhận ra TA VỀ là một ẩn dụ “trở lại thời gian đã qua để…”, tức là một ẩn dụ Thời gian, Không gian xuyên suốt bài thơ. Theo càng sâu vào bài thơ, với sáu lần TA VỀ, lập lại, tôi đã đến nơi khởi đâu cuộc hành trình TA BÀ… của TA.

Nhưng TA đây là ai thì vẫn phải dõi theo luận giải hiển ngôn của bài thơ…

2. Tám đơn vị dòng thơ đầu bài thơ, chính là biến thể của ba cặp lục – bát, như tôi đã nói, biến tấu ấy, (Và những biến tấu tiếp theo nữa), đã tạo bất ngờ cho liên tưởng, và nhờ đó, khiến bùng nổ thức – nhận trong tôi!

TA VỀ là cái đầu đề của bài thơ, nhưng ý tứ thì lại gắn liền ngay với khúc đoạn thứ nhất, với tám đơn vị dòng thơ mở đầu này:

 “Cạn ngày cạo vỏ hồn thơ

Bụi ngôn ngữ lấm trang vô thường đời

Hèn sang cũng chỉ

kiếp người

Phân phong đoạt thoán khóc cười lê thê

Ngược dòng lội quãng sông mê

Gạo thơm mặc kẻ

cơm khê mặc người”

Từ đây bắt đầu những Luận giải, mà tôi thấy trước mình hai chủ thể - TA, là một trẻ, một già, chứ không phải chỉ một “duy nhất ta”. Sở dĩ thế, vì ngay mở đầu bài thơ, sừng sững trước mặt tôi là hai chữ “CẠN NGÀY…”.

CẠN có nghĩa là sắp hết, cũng có nghĩa là đến điểm gần hết, nhưng còn chưa hết (một quá trình chưa kết thúc), mà người ta tạm dừng lại, để làm gì đó. Có thể vẫn sẽ đi tới cơ hội; có thể sẽ trở lại làm “kiểm điểm , rút kinh nghiệm” (!), chẳng hạn… Ở bài thơ TA VỀ, đây là điểm dừng đánh giá, chiêm nghiệm và luận giải…

NGÀY là thời gian, là một ẩn dụ thời gian, không phải 24 giờ, hay bắt đầu lúc mặt trời mọc và kết thúc khi mặt trời lặn… Khi bài thơ khởi phát bằng hai chữ CẠN NGÀY, thì tôi đọc thấy ngữ nghĩa thứ nhất, như trong bài thơ MƯA XUÂN của Nguyễn Bính: “Anh ạ! Mùa Xuân đã cạn ngày/ Bao giờ em mới gặp anh đây”. Và nếu ai đọc chắc cũng sẽ tiếp nhận ngữ nghĩa trước tiên của hai tiếng CẠN NGÀY như tôi, như trong MƯA XUÂN của Nguyễn Bính, thì chữ CẠN NGÀY trong bài thơ MƯA XUÂN và CẠN NGÀY trong TA VỀ sẽ là MÙA đi sắp hết… một quảng của một đời đã qua…

Tôi nói thế, là để nói rằng, chủ thể của luận giải suốt dọc bài thơ, trước tiên là một trang THANH NHI, mới ở cái tuổi mà LUẬN NGỮ Khổng Tử gọi là “Tam thập nhi lập”. Và tôi hiểu, luận giải của trang THANH NHI kia chưa phải là Chiêm nghiệm – Đúc kết cho Đời; mà chỉ là những Nhận biết – Đánh giá cho mình.

Xin hãy đọc lại đoạn thơ trên lần nữa! Nhất là hai câu lục – bát biến thể ở giữa đoạn thơ: “Hèn sang cũng chỉ/ kiếp người // Phân phong đoạt thoán khóc cười lê thê”, để có thể thấy đánh giá của một trang THANH NHI, vừa có thể gọi được là khá mẫn tiệp về trí lực, lại vừa có cả tưởng sức “bạt sơn, cử đỉnh”… Hai chữ “cũng chỉ” trong câu thơ cho tôi thấy cái sức trẻ coi thường “hèn sang”, “đoạt thoán” của “kiếp người”… là thế đấy!...

Nhưng thần tình là hai câu thơ đầu, với những là “cạo vỏ’, “bụi ngôn ngữ lấm” được kết cấu thành một cấu trúc sáu – tám, để chuyển tải thông điệp về một CON NGƯỜI đã sống hết mình cho thiên chức của mình! “Hồn thơ” như chất Nhựa sinh - chứa trong cây, (Thông, Cao su… chẳng hạn), vừa đã trưởng thành, mà nguồn ấy, trong giới hạn thời gian ấy (ngày), đã dâng hiến đến tận nguồn (“cạo vỏ”) như một lẽ “vô thường” của đời thường, cho “đời”… Thì đấy, “Cạn ngày” chỉ còn lại là những “Bụi ngôn ngữ” (bụi thơ), “lấm trang vô thường đời” mà thôi!...

Tiếp đến, bài thơ đã mở ra những ý niệm Phật pháp, vốn đã mở ra từ câu thơ đầu. “Ngược dòng lội quãng sông mê” chẳng phải đó là môt chút hồi tưởng là gì?! Và : “Gạo thơm mặc kẻ/ cơm khê mặc người”, thì chẳng phải là một thản nhiên, biết rồi, đi tiếp thôi… là gì?!

3. Và kế tiếp là Năm quảng TA VỀ nữa!...

3.1. Cũng nên thế! Vì đã trải bão giông, sấm rền, gió giật… bao bận rồi! Giờ thì : “Ta về/ làm ngọn gió lười // Ngủ trên phiến liếp tháng mười/ em che”.

“Tháng Mười” ! Lại một ẩn dụ thời gian nữa! “Tháng Mười” đây ngữ nghĩa còn như là một “phiếm định” dân gian. Ca dao: “Bao giờ cho đến tháng Mười // Thổi nồi cơm nếp vừa cười vừa ăn”. Nhất là “tháng mười” trong TA VỀ còn giống như là: “Bao giờ cho đến tháng Mười”, tên một phim truyện nổi tiếng của Đạo diễn Đặng Nhật Minh; mà cùng tôi, bạn đọc có thể đọc lại những câu thơ thật khó quên của nhân vật thầy giáo Khang:

“Bao giờ cho đến tháng Mười

Lúa chín trên cánh đồng giông bão

Ta để lại sau lưng những ngày dài mong đợi

Những mất mát hy sinh chịu đựng khổ đau

Khi trời thu vẫn xanh mãi trên đầu”.

Bởi thế, tôi yêu lắm “ngọn gió lười” (như một chút ngơi nghỉ), đã trở về trong tình yêu đích thực, muôn đời vẫn là “mắt bão” ấm êm để : “Ngủ trên phiến liếp tháng mười / em che”.

Tôi tự hỏi, đã có mấy nhà thơ viết được một câu thơ như thế nhỉ?!

3.2. Tiếp đó, lại thêm hai lần TA VỀ nữa:

“Ta về làm chiếc lá me

Vương vương suối tóc em hoe hoe chiều

Ta về làm mảnh trăng xiêu

Ghé đêm

quỳnh nở

thưởng Kiều em ngâm”

... nhưng những tưởng cũng vẫn chỉ êm đềm, lắng đọng trong ấm êm hạnh phúc thôi. Mà không! Xem ra đó chỉ là những “viên mãn” chợt đến, bất thường tạm hưởng mà thôi!

Bằng sáu đơn vị dòng thơ, biến thể giai điệu của hai cặp lục bát, với những chỉ dấu : “lá me”, “vương vương tóc”, “hoe hoe chiều”, “trăng xiên”, “quỳnh nở”, “thưởng Kiều em ngâm”; đặc biệt là “Ghé đêm / quỳnh nở”, câu thơ ngắt dòng, vừa như muốn, vừa như không... khiến tôi nhớ hai câu thơ, cũng lục bát biến thể, và cũng của một nhà thơ trẻ xứ Thanh, anh Trương Xuân Thiên, trong bài thơ HỒNG HOANG :

“Thuở hoa bỏ lại

mùi hương

Ta cầm nước mắt mà thương

hoa quỳnh”

(Rút từ tập thơ “HOMO SAPIENS Người tinh khôn” Nxb Văn Học 2009).

Triết luận ở đây là trong tỉnh có động! “Biến cùng... thì... tắc biến” như Dịch lý phương Đông mà Cao nhân túc trí Việt ai cũng thấu triệt!

3.3. Tôi đọc tiếp nhé!

“Ta về thương áo tứ thân

Mưa xuân em đảnh lễ lâm thâm phùn”

Lại một lục bát chói sáng tài năng trẻ xứ Thanh Mạc Phong Tuyền!

“Áo tứ thân” là một hoán dụ, trùm lên một ẩn dụ về ai, nếu không phải là MẸ của TA? Người vẫn đó, hoặc đã Thiên cổ, thì em vẫn “đảnh lễ” trong Mùa Tảo mộ, trong Hội Thanh minh! Thì EM vẫn cùng TA thăm – viếng tỏ nhớ Cội sinh thành, cảm ơn Đức dưỡng dục...

Tôi bất ngờ và kinh ngạc (nên sẽ còn trở lại) bởi cách cấu trúc “QUÁI ĐẢN”, (chữ dùng của Giáo sư Phan Ngọc), của câu thơ :  “Mưa xuân em đảnh lễ lâm thâm phùn”. Các chữ “đảnh lễ” đã thấy hiếm gặp trong thời buổi “phong bao” hiện nay, lại vẫn được Mạc Phong Tuyền sử dụng trong bài thơ một cách tự nhiên như nhiên. Thế mới bất ngờ, mới thần tình, mới thật quý !

3.4. Và, đây, ba câu thơ kết:

“Ta về

thương hạt hạt bùn

Gót hồng - guốc mộc (hôn chùn chụt hôn)...”

... mà đọc lên tôi vẫn tự hỏi, rằng có mấy nhà thơ viết được thế, với những dòng thơ như thế, trong một bài thơ như thi sỹ họ Mạc kia... không nhỉ?...

“thương hạt hạt bùn” thì đích là tình yêu của Mạc rồi. Đã biết mấy bài thơ Mạc viết về MẸ, về CHỊ, về LÀNG quê, bờ bãi, ruộng đồng, bùn đất canh nông... Cách đây ít lâu, tôi đã có dịp phân tích bài thơ LẠY BÙN chỉ có bốn câu lục bát của Mạc...

“Giọt buồn tẩm ướt chợ trưa

Lưng còng gánh cả thúng mưa mẹ về

Lạy bùn đừng váng chân đê

Làm run gót mẹ tái tê thân bùn...”

Hay như mới đây, ở bài thơ CON CHÓ ĐÁ, có câu thơ : “Bới từ bùn lên những mùa màng” Mạc viết về CHỊ...

Nhưng còn ở đây, là TA VỀ!

Phải! TA VỀ từ nơi ấy TA đã đi! Nơi có Mẹ TA, Chị TA, có “Gót hồng – guốc mộc”... đong đầy (lút) trong yêu thương đồng quê bản quán. Cái ngoặc đơn (...), “hôn chùn chụt hôn” là một đặc tả âm thanh gợi nhớ một “ấu nhi”, với ngập tràn nựng yêu, muốn mong và khích lệ!...

Thế nghĩa là gì nếu không phải TA VỀ để lại bắt đầu một Khởi thủy mới ?!...

4. Vậy là cả ba câu hỏi tại sao lại về, về đâu, và để làm gì treo trước tôi khi mới đọc TA VỀ của Mạc Phong Tuyền, khởi từ hai chữ “Cạn ngày”, với ẩn dụ thông điệp “ngày” như một khúc đoạn cuộc đời THANH NHI đã được tôi nhận thức, như một thức – nhận của riêng tôi là thế đấy!

Một mặt khác nữa, là tôi còn thấy TA VỀ chuyển tải được cả THÔNG ĐIỆP, những Luận giải, về những Chiêm nghiệm... nếu tôi bắt đầu nhìn nhận ẩn dụ “Cạn ngày” với “ngày” là thời gian của cả một đời người, chứ không phải một khúc đoạn đời, thì tôi sẽ thấy những Luận giải kia mang tầm của một triết nhân!...

... Mà thôi, cái mặt khác kia xin một lần nhận diện sau vậy...

Bài viết liên quan

Xem thêm
Những trang văn phảng phất mùi thuốc súng
Bài tham luận của nhà văn Đỗ Viết Nghiệm
Xem thêm
Di cảo thơ Chế Lan Viên: Khi thơ là thuốc, là lời kinh kệ
Chế Lan Viên là người mà sự nghĩ ngợi vận vào thơ như thể thơ cũng là thuốc, thơ chẩn ra được cái bệnh đau của kiếp người, và “Có vào nỗi đau mới có ích cho người”.
Xem thêm
Cảm hứng sinh thái trong thơ Đặng Bá Tiến
 Là một nhà báo, nhà thơ mấy chục năm gắn bó với vùng đất Đắk Lắk, Đặng Bá Tiến đã sáng tác thành công về thiên nhiên, con người và văn hoá Tây Nguyên với nhiều tác phẩm: Lời chân thành với cỏ (Thơ, 2009), Rừng cổ tích (Trường ca, 2012), Hồn cẩm hương (Thơ, 2017), Linh hồn tiếng hú (Thơ, 2020). Anh là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Tây Nguyên đương đại, một nhà thơ “thứ thiệt”[1] có bản sắc riêng, thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo. Nổi bật trong sáng tác của anh là những tác phẩm viết về rừng, về sinh thái văn hoá và nhân văn.      
Xem thêm
Sức bền của ngòi bút
Nguồn: Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 116, ngày 21/3/2024
Xem thêm
Nguyễn Bính ở phương Nam
Nguyễn Bính (1918-1966), tên thật là Nguyễn Trọng Bính (có lúc tên Nguyễn Bính Thuyết), quê ở Nam Định nhưng sống khắp ba miền đất nước. Ông có phong cách một nhà thơ lãng tử, sáng tác về chủ đề tình cảm làng quê và tình yêu, tổ quốc. Thơ tình cảm mộc mạc của ông được rất nhiều người thuộc. Tác phẩm gồm 26 thi tập trong đó có : + 1 kịch thơ : Bóng giai nhân (1942): + 3 truyện thơ : Truyện Tỳ Bà (1942); Trong bóng cờ bay (1957); Tiếng trống đêm xuân (1958): + 1 vở chèo : Người lái đò sông Vỹ (1964) và rất nhiều bài thơ nổi tiếng của ông được nhạc sĩ phổ thành ca khúc : Tiểu đoàn 307 (Nguyễn Hữu Trí phổ nhạc, Quốc Hương ca);  Cô hái mơ (Phạm Duy); Ghen (Trọng Khương), Cô lái đò (Nguyễn Đình Phúc); Chân quê (Minh Quang). Hiện nay, nhiều thành phố có những con đường mang tên ông. Nhà thơ Nguyễn Bính nhận được giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (2000) cùng với Hoài Thanh, Bùi Đức Ái, Nguyễn Quang Sáng, …
Xem thêm
“Đánh thức mình bằng chân lý vô ngôn”
Tôi biết Nguyễn Minh Thuận (nguyên Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Tư pháp Đắk Lắk) làm thơ đã lâu, dễ hơn ba chục năm trước, thỉnh thoảng anh vẫn đọc cho tôi nghe và rải rác anh cho đăng trên facebook Trương Thị Hiền - vợ anh (TS, giảng viên Trường Đại học Tây Nguyên).
Xem thêm
Đọc “Thơ mười năm” của Hoàng Đình Quang
Bài viết của nhà thơ Trần Quang Khánh
Xem thêm
Hoàng hôn chín – chín mọng yêu thương
Về tập thơ in chung của Võ Miên Trường và Triệu Kim Loan
Xem thêm
Thơ Phan Hoàng trong hành trình ngược lối – Tiểu luận của Mai Thị Liên Giang
Tập thơ “Chất vấn thói quen” của Phan Hoàng từng nhận được nhận Giải thưởng Hội Nhà văn TPHCM và Tặng thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012, sau đó tập thơ này được trao Giải thưởng Nghệ thuật Danube năm 2023 của Hungary. Ngoài ra tập trường ca “Bước gió truyền kỳ” của ông cũng được Ủy ban nhân dân TPHCM trao Giải thưởng Văn học Nghệ thuật TPHCM 5 năm lần thứ II. Để hiểu thêm về hành trình sáng tạo thi ca của nhà thơ Phan Hoàng, xin trân trọng giới thiệu bài viết của nhà lý luận phê bình văn học Mai Thị Liên Giang.
Xem thêm
Những giải mã thú vị, khoa học của một người đọc tri âm
Với kiến văn sâu rộng, sự nghiên cứu cẩn trọng mang tính học thuật cao, khai thác nhiều vấn đề tri thức lý luận mới mẻ; Trần Hoài Anh đã đem đến những trang viết tinh tế, khai mở nhiều điều lý thú và bổ ích.
Xem thêm
Hồn xuân trong thơ Hồ Chí Minh
Nhà thơ Trung Quốc Viên Ưng đã nhận định sâu sắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một trí tuệ lớn, một dũng khí lớn, một tâm hồn lớn”.
Xem thêm
“Trung thực và quả cảm” trong sáng tác và phê bình văn học, nghệ thuật
Bài viết của nhà thơ Mai Nam Thắng trên Văn nghệ số 4/2024
Xem thêm
Nguyễn Quang Thiều với ‘Nhật ký người xem đồng hồ’
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa về tập thơ Nhật ký người xem đồng hồ của Nguyễn Quang Thiều
Xem thêm
Nửa lo giá chợ nửa ngây vì trời
Nguồn: Báo Văn nghệ số 4, ra ngày 27/1/2024.
Xem thêm
Dòng kinh yêu thương
Tháng 8 năm 1969, chương trình Thi văn Về Nguồn góp tiếng trên Đài phát thanh Cần Thơ vừa tròn một tuổi. Nhân dịp nầy, cơ sở xuất bản về Nguồn ấn hành đặc san kỷ niệm. Đặc san tập họp sáng tác của bằng hữu khắp nơi, với các thể loại như thơ, truyện, kịch… và phần ghi nhận sinh hoạt văn học nghệ thuật ở miền Tây trong một năm qua. Trong đặc san này, chúng tôi in một sáng tác của nhà thơ Ngũ Lang (Nguyễn Thanh) viết ngày 24/8/1969, gởi về từ Vị Thanh (Chương Thiện), có tựa đề “Đưa em xuôi thuyền trên kinh Xà No” Hơn nửa thế kỷ trôi qua với bao nhiêu biến động, ngay cả tác giả bài thơ chắc cũng không còn nhớ. Xin được chép lại trọn bài thơ của anh đã đăng trong Đặc san kỷ niệm Đệ nhất chu niên Chương trình Thi văn Về Nguồn, phát hành vào tháng 8 năm 1969.
Xem thêm
Minh Anh, người đánh thức thế giới
từng chữ từng chữ/ rơi vào từng dòng từng dòng/ chúng chụp lấy những khoảnh khắc/ đẹp não nùng/ không thể rời khỏi con tim/ cách duy nhất để tự nó đừng nở rộ quá mức/ vượt khỏi ký ức của ta/ là hãy viết xuống (Sự kỳ lạ của nghệ thuật viết).
Xem thêm
Ta sẽ không như cốc trà nguội cuối ngày
Bài viết của Nguyên Bình về tập thơ Vọng thiên hà của Hoa Mai.
Xem thêm
Con người Chí Phèo
Cái chết của Chí phèo như bản cáo trạng về xã hội thực dân nửa phong kiến thối rữa, nhàu nát, là tiếng kêu oan khốc thấu tận trời xanh của những kiếp người “siêu khổ”.
Xem thêm