TIN TỨC

“Ta về” và … ba câu hỏi trước một cuộc trở lại…

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-04-12 10:17:10
mail facebook google pos stwis
2108 lượt xem

LÊ XUÂN LÂM

Đó là bài thơ của Mạc Phong Tuyền, một tác giả trẻ xứ Thanh.

TA VỀ

Cạn ngày cạo vỏ hồn thơ

Bụi ngôn ngữ lấm trang vô thường đời
 

Hèn sang cũng chỉ

kiếp người

Phân phong đoạt thoán khóc cười lê thê
 

Ngược dòng lội quãng sông mê

Gạo thơm mặc kẻ

cơm khê mặc người
 

Ta về

làm ngọn gió lười

Ngủ trên phiến liếp tháng mười

em che
 

Ta về làm chiếc lá me

Vương vương suối tóc em hoe hoe chiều
 

Ta về làm mảnh trăng xiêu

Ghé đêm

quỳnh nở

thưởng Kiều em ngâm
 

Ta về thương áo tứ thân

Mưa xuân em đảnh lễ lâm thâm phùn
 

Ta về

thương hạt hạt bùn

Gót hồng - guốc mộc (hôn chùn chụt hôn)...
 

—Mạc Phong Tuyền

……

Đọc TA VỀ , cảm nhận tức thì của tôi, là vừa được anh chàng Mạc Phong Tuyền mời dự “Một đại tiệc ngôn ngữ Thơ ”, với đầy ắp những ẩn dụ mê hoặc, những tạo từ dị thường, những biến tấu sáu – tám bất ngờ… Tôi bị cuốn hút theo luận giải của bài thơ về cuộc đời của một con người làm thơ…

1.  TA VỀ?...

Cái đầu đề bài thơ, chữ TA kia, hẳn nhiên là tự xưng, tự chủ - động của chính “nhân vật trữ tình” của Thi phẩm rồi. Nhưng tại sao lại VỀ? Về đâu? Và để làm gì? Là ba câu hỏi treo trước cảm – thức của tôi.

Tôi biết trong tiếng Việt ta, có hai chữ VỀ, đồng âm, nhưng khác nghĩa. Một là động từ, chỉ vận động chuyển dời vị trí, không phải đi tới trước, mà là quay lại sau. Một nữa, là từ chỉ hướng vận động, trở lại nơi chốn trước… Với TA VỀ ở đây, tôi thấy, ẩn trước VỀ có cả ĐI, nên VỀ vừa là động từ chỉ vận động, lại vừa là từ chỉ hướng vận động…

Và, tôi nhận ra TA VỀ là một ẩn dụ “trở lại thời gian đã qua để…”, tức là một ẩn dụ Thời gian, Không gian xuyên suốt bài thơ. Theo càng sâu vào bài thơ, với sáu lần TA VỀ, lập lại, tôi đã đến nơi khởi đâu cuộc hành trình TA BÀ… của TA.

Nhưng TA đây là ai thì vẫn phải dõi theo luận giải hiển ngôn của bài thơ…

2. Tám đơn vị dòng thơ đầu bài thơ, chính là biến thể của ba cặp lục – bát, như tôi đã nói, biến tấu ấy, (Và những biến tấu tiếp theo nữa), đã tạo bất ngờ cho liên tưởng, và nhờ đó, khiến bùng nổ thức – nhận trong tôi!

TA VỀ là cái đầu đề của bài thơ, nhưng ý tứ thì lại gắn liền ngay với khúc đoạn thứ nhất, với tám đơn vị dòng thơ mở đầu này:

 “Cạn ngày cạo vỏ hồn thơ

Bụi ngôn ngữ lấm trang vô thường đời

Hèn sang cũng chỉ

kiếp người

Phân phong đoạt thoán khóc cười lê thê

Ngược dòng lội quãng sông mê

Gạo thơm mặc kẻ

cơm khê mặc người”

Từ đây bắt đầu những Luận giải, mà tôi thấy trước mình hai chủ thể - TA, là một trẻ, một già, chứ không phải chỉ một “duy nhất ta”. Sở dĩ thế, vì ngay mở đầu bài thơ, sừng sững trước mặt tôi là hai chữ “CẠN NGÀY…”.

CẠN có nghĩa là sắp hết, cũng có nghĩa là đến điểm gần hết, nhưng còn chưa hết (một quá trình chưa kết thúc), mà người ta tạm dừng lại, để làm gì đó. Có thể vẫn sẽ đi tới cơ hội; có thể sẽ trở lại làm “kiểm điểm , rút kinh nghiệm” (!), chẳng hạn… Ở bài thơ TA VỀ, đây là điểm dừng đánh giá, chiêm nghiệm và luận giải…

NGÀY là thời gian, là một ẩn dụ thời gian, không phải 24 giờ, hay bắt đầu lúc mặt trời mọc và kết thúc khi mặt trời lặn… Khi bài thơ khởi phát bằng hai chữ CẠN NGÀY, thì tôi đọc thấy ngữ nghĩa thứ nhất, như trong bài thơ MƯA XUÂN của Nguyễn Bính: “Anh ạ! Mùa Xuân đã cạn ngày/ Bao giờ em mới gặp anh đây”. Và nếu ai đọc chắc cũng sẽ tiếp nhận ngữ nghĩa trước tiên của hai tiếng CẠN NGÀY như tôi, như trong MƯA XUÂN của Nguyễn Bính, thì chữ CẠN NGÀY trong bài thơ MƯA XUÂN và CẠN NGÀY trong TA VỀ sẽ là MÙA đi sắp hết… một quảng của một đời đã qua…

Tôi nói thế, là để nói rằng, chủ thể của luận giải suốt dọc bài thơ, trước tiên là một trang THANH NHI, mới ở cái tuổi mà LUẬN NGỮ Khổng Tử gọi là “Tam thập nhi lập”. Và tôi hiểu, luận giải của trang THANH NHI kia chưa phải là Chiêm nghiệm – Đúc kết cho Đời; mà chỉ là những Nhận biết – Đánh giá cho mình.

Xin hãy đọc lại đoạn thơ trên lần nữa! Nhất là hai câu lục – bát biến thể ở giữa đoạn thơ: “Hèn sang cũng chỉ/ kiếp người // Phân phong đoạt thoán khóc cười lê thê”, để có thể thấy đánh giá của một trang THANH NHI, vừa có thể gọi được là khá mẫn tiệp về trí lực, lại vừa có cả tưởng sức “bạt sơn, cử đỉnh”… Hai chữ “cũng chỉ” trong câu thơ cho tôi thấy cái sức trẻ coi thường “hèn sang”, “đoạt thoán” của “kiếp người”… là thế đấy!...

Nhưng thần tình là hai câu thơ đầu, với những là “cạo vỏ’, “bụi ngôn ngữ lấm” được kết cấu thành một cấu trúc sáu – tám, để chuyển tải thông điệp về một CON NGƯỜI đã sống hết mình cho thiên chức của mình! “Hồn thơ” như chất Nhựa sinh - chứa trong cây, (Thông, Cao su… chẳng hạn), vừa đã trưởng thành, mà nguồn ấy, trong giới hạn thời gian ấy (ngày), đã dâng hiến đến tận nguồn (“cạo vỏ”) như một lẽ “vô thường” của đời thường, cho “đời”… Thì đấy, “Cạn ngày” chỉ còn lại là những “Bụi ngôn ngữ” (bụi thơ), “lấm trang vô thường đời” mà thôi!...

Tiếp đến, bài thơ đã mở ra những ý niệm Phật pháp, vốn đã mở ra từ câu thơ đầu. “Ngược dòng lội quãng sông mê” chẳng phải đó là môt chút hồi tưởng là gì?! Và : “Gạo thơm mặc kẻ/ cơm khê mặc người”, thì chẳng phải là một thản nhiên, biết rồi, đi tiếp thôi… là gì?!

3. Và kế tiếp là Năm quảng TA VỀ nữa!...

3.1. Cũng nên thế! Vì đã trải bão giông, sấm rền, gió giật… bao bận rồi! Giờ thì : “Ta về/ làm ngọn gió lười // Ngủ trên phiến liếp tháng mười/ em che”.

“Tháng Mười” ! Lại một ẩn dụ thời gian nữa! “Tháng Mười” đây ngữ nghĩa còn như là một “phiếm định” dân gian. Ca dao: “Bao giờ cho đến tháng Mười // Thổi nồi cơm nếp vừa cười vừa ăn”. Nhất là “tháng mười” trong TA VỀ còn giống như là: “Bao giờ cho đến tháng Mười”, tên một phim truyện nổi tiếng của Đạo diễn Đặng Nhật Minh; mà cùng tôi, bạn đọc có thể đọc lại những câu thơ thật khó quên của nhân vật thầy giáo Khang:

“Bao giờ cho đến tháng Mười

Lúa chín trên cánh đồng giông bão

Ta để lại sau lưng những ngày dài mong đợi

Những mất mát hy sinh chịu đựng khổ đau

Khi trời thu vẫn xanh mãi trên đầu”.

Bởi thế, tôi yêu lắm “ngọn gió lười” (như một chút ngơi nghỉ), đã trở về trong tình yêu đích thực, muôn đời vẫn là “mắt bão” ấm êm để : “Ngủ trên phiến liếp tháng mười / em che”.

Tôi tự hỏi, đã có mấy nhà thơ viết được một câu thơ như thế nhỉ?!

3.2. Tiếp đó, lại thêm hai lần TA VỀ nữa:

“Ta về làm chiếc lá me

Vương vương suối tóc em hoe hoe chiều

Ta về làm mảnh trăng xiêu

Ghé đêm

quỳnh nở

thưởng Kiều em ngâm”

... nhưng những tưởng cũng vẫn chỉ êm đềm, lắng đọng trong ấm êm hạnh phúc thôi. Mà không! Xem ra đó chỉ là những “viên mãn” chợt đến, bất thường tạm hưởng mà thôi!

Bằng sáu đơn vị dòng thơ, biến thể giai điệu của hai cặp lục bát, với những chỉ dấu : “lá me”, “vương vương tóc”, “hoe hoe chiều”, “trăng xiên”, “quỳnh nở”, “thưởng Kiều em ngâm”; đặc biệt là “Ghé đêm / quỳnh nở”, câu thơ ngắt dòng, vừa như muốn, vừa như không... khiến tôi nhớ hai câu thơ, cũng lục bát biến thể, và cũng của một nhà thơ trẻ xứ Thanh, anh Trương Xuân Thiên, trong bài thơ HỒNG HOANG :

“Thuở hoa bỏ lại

mùi hương

Ta cầm nước mắt mà thương

hoa quỳnh”

(Rút từ tập thơ “HOMO SAPIENS Người tinh khôn” Nxb Văn Học 2009).

Triết luận ở đây là trong tỉnh có động! “Biến cùng... thì... tắc biến” như Dịch lý phương Đông mà Cao nhân túc trí Việt ai cũng thấu triệt!

3.3. Tôi đọc tiếp nhé!

“Ta về thương áo tứ thân

Mưa xuân em đảnh lễ lâm thâm phùn”

Lại một lục bát chói sáng tài năng trẻ xứ Thanh Mạc Phong Tuyền!

“Áo tứ thân” là một hoán dụ, trùm lên một ẩn dụ về ai, nếu không phải là MẸ của TA? Người vẫn đó, hoặc đã Thiên cổ, thì em vẫn “đảnh lễ” trong Mùa Tảo mộ, trong Hội Thanh minh! Thì EM vẫn cùng TA thăm – viếng tỏ nhớ Cội sinh thành, cảm ơn Đức dưỡng dục...

Tôi bất ngờ và kinh ngạc (nên sẽ còn trở lại) bởi cách cấu trúc “QUÁI ĐẢN”, (chữ dùng của Giáo sư Phan Ngọc), của câu thơ :  “Mưa xuân em đảnh lễ lâm thâm phùn”. Các chữ “đảnh lễ” đã thấy hiếm gặp trong thời buổi “phong bao” hiện nay, lại vẫn được Mạc Phong Tuyền sử dụng trong bài thơ một cách tự nhiên như nhiên. Thế mới bất ngờ, mới thần tình, mới thật quý !

3.4. Và, đây, ba câu thơ kết:

“Ta về

thương hạt hạt bùn

Gót hồng - guốc mộc (hôn chùn chụt hôn)...”

... mà đọc lên tôi vẫn tự hỏi, rằng có mấy nhà thơ viết được thế, với những dòng thơ như thế, trong một bài thơ như thi sỹ họ Mạc kia... không nhỉ?...

“thương hạt hạt bùn” thì đích là tình yêu của Mạc rồi. Đã biết mấy bài thơ Mạc viết về MẸ, về CHỊ, về LÀNG quê, bờ bãi, ruộng đồng, bùn đất canh nông... Cách đây ít lâu, tôi đã có dịp phân tích bài thơ LẠY BÙN chỉ có bốn câu lục bát của Mạc...

“Giọt buồn tẩm ướt chợ trưa

Lưng còng gánh cả thúng mưa mẹ về

Lạy bùn đừng váng chân đê

Làm run gót mẹ tái tê thân bùn...”

Hay như mới đây, ở bài thơ CON CHÓ ĐÁ, có câu thơ : “Bới từ bùn lên những mùa màng” Mạc viết về CHỊ...

Nhưng còn ở đây, là TA VỀ!

Phải! TA VỀ từ nơi ấy TA đã đi! Nơi có Mẹ TA, Chị TA, có “Gót hồng – guốc mộc”... đong đầy (lút) trong yêu thương đồng quê bản quán. Cái ngoặc đơn (...), “hôn chùn chụt hôn” là một đặc tả âm thanh gợi nhớ một “ấu nhi”, với ngập tràn nựng yêu, muốn mong và khích lệ!...

Thế nghĩa là gì nếu không phải TA VỀ để lại bắt đầu một Khởi thủy mới ?!...

4. Vậy là cả ba câu hỏi tại sao lại về, về đâu, và để làm gì treo trước tôi khi mới đọc TA VỀ của Mạc Phong Tuyền, khởi từ hai chữ “Cạn ngày”, với ẩn dụ thông điệp “ngày” như một khúc đoạn cuộc đời THANH NHI đã được tôi nhận thức, như một thức – nhận của riêng tôi là thế đấy!

Một mặt khác nữa, là tôi còn thấy TA VỀ chuyển tải được cả THÔNG ĐIỆP, những Luận giải, về những Chiêm nghiệm... nếu tôi bắt đầu nhìn nhận ẩn dụ “Cạn ngày” với “ngày” là thời gian của cả một đời người, chứ không phải một khúc đoạn đời, thì tôi sẽ thấy những Luận giải kia mang tầm của một triết nhân!...

... Mà thôi, cái mặt khác kia xin một lần nhận diện sau vậy...

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm