TIN TỨC

Thăm thẳm nỗi niềm trong ‘Ngõ gió’ của Lưu Hồng Vân

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
1495 lượt xem

  Nguyễn Văn Hòa

Thâm trầm và lặng lẽ, Lưu Hồng Vân miệt mài với những con chữ đượm tình, sau một Rượu xưa đầy khắc khoải; Tập tàng vời vợi nhớ thương thì lại đến một Ngõ gió hoang hoải những chiêm nghiệm về tình yêu và cuộc đời.

Ngõ gió đã tạo được những nét riêng nhất định cả về nội dung lẫn hình thức biểu hiện. Đây là bước chuyển rất đáng được ghi nhận của một người làm thơ cần mẫn, hăng say như Lưu Hồng Vân.

119 bài thơ trong Ngõ gió, Lưu Hồng Vân đã thể hiện được thi pháp riêng của cái tôi tự biểu hiện, tự soi tỏ; để từ đó nhìn ra - nghiệm suy mọi thứ đang hiện hữu quanh mình, ở thời đại mình đang sống với sự đồng hiện và đan cài giữa hiện tại -  khứ - tương lai.

Dòng người trôi cuồn cuộn/ Muốn thành danh phải dơ hơn một tý/ Người khóc thuê/ Người lệch chuẩn/ Trên đường về cổ vũ hào hoa// Đường lối nhân sinh có lẽ rất xa hoa/ Mắt em cong mi dài lóng lánh/ Trước ly rượu nâu anh cười sang chảnh/ Trong lòng buồn hoang hoác thâm sâu... (Hoang mang).

Thơ Lưu Hồng Vân là thơ của cảm xúc rất đỗi chân thành, từng câu chữ cứ hiển hiện một cách tự nhiên qua lăng kính của một người luôn nhìn cuộc sống một cách trầm tĩnh và đa chiều. Có lẽ chính những chiêm nghiệm cuộc đời của một con người từng đi qua hết mọi cung bậc cảm xúc, yêu thương rồi xa cách để tĩnh lặng,  tự chất vấn chính mình. Mơ hồ những vết chân chim/ Bảng bay son phấn đi tìm phấn son/ Đường nhân gian đã quá mòn/ Đá phơi sương gió có còn biết đau (Đá đau).

Thâm trầm là thế, song cũng có lúc người thơ vẫn không khỏi thảng thốt trước những dự cảm riêng mình về thời gian, về những ký ức sống động của tuổi trẻ: Em vừa cắt tỉa lời ru/ Xa xưa bím tóc còn chưa gọi thề/ Ta vừa đứt đoạn đam mê/ Tóc xanh đã ngả bên lề trắng phau (Tóc xanh); hay Đường heo hút gió phong tình/ Họa mi khắc họa trắng tinh chớm mùa/ Dã quỳ vàng dã khúc cua/ Em trong leo lẻo tiếng xưa còn thề/ Ta bong tróc với đam mê/ Vàng son hắt hủi bước về lạnh sâu (Đường cuối thu); Nắng cứ gắt, mưa cứ rơi/ Tình si trói buộc khắp nơi một mình/ Trái ngọt nhiều trái ngọt xinh/ Hoa chưa nở đã thấy mình tàn phai/ Dòng trôi heo hút đường dài/ Thời gian rất ngắn cũng thoai thoải buồn (Si).

Với tâm hồn đa mang, đa cảm của người thi sĩ thì dù một biến chuyển nhỏ của tự nhiên hay lòng người cũng khiến Lưu Hồng Vân không khỏi suy tư: “Thu vàng hạ đỏ xuân xanh/ Dụi ngang mày xám cho thành mùa đông/ Người hay nói có thành không/ Xoa tay hoang vắng vẫn trông miệng cười/ Dung dăng bỏ chín thành mười/ Mắc mang duyên phận ngoài tươi trong tàn (Thu tàn). Cũng có lúc khi nhìn thấu được những nhiễu nhương, bất trắc và cả sự hoang mang dâng lên từng câu chữ: Kẻ loạn ngôn thành kẻ tinh hoa/ Nói mãi/ Hát mãi/ Câu hát sau không như câu hát trước/ Bấy nhiêu năm/ Nói xong/ Rồi chẳng biết đã nói gì/ Bị vặt lông/ Bị hiến tế/ Bầy cừu vẫn im lặng/ Đi… (Bầy cừu); Ngọn gió hôm nay rực rỡ đèn mầu/ Ôi thứ đèn ăn son ăn phấn/ Như con thú bắt ánh sáng giữa rừng sâu/ Hay như thiêu thân lao vào để chết/ Ngày hôm nay người ta quên hết/ Muốn đi nhanh hơn phải biết xếp hàng/ …Chưa kịp buồn đã thấy hoang mang (Hoang mang).

Là người con đất Bắc nên những kỷ niệm ấu thơ, những vụng dại buổi đầu lẫn những chông chênh, hẫng hụt với đời đều gắn liền với vùng đất ấy. Bởi vậy nên rất dễ bắt gặp những câu thơ với thanh âm và hình ảnh mang đậm dấu ấn thâm trầm, nét đặc trưng xứ sở: “Em có về Nghĩa Lộ không em...”/ Ruộng bậc thang đang mùa lúa chín/ Suối vắt trong mây trời bịn rịn/ Đá ngâm mình chiêm nghiệm những phù sa// Nắng đồi chè loang loáng trôi qua/ Vết trăng tròn lấp sau áo trắng/ Gốc chè mốc hoang chiều thầm lặng/ Bỗng rạng ngời tím ngắt hoa sim (Về Nghĩa Lộ). Hay Tư Đình nắng xuống Lâm Du/ Làm sao nhạt bớt mùa thu đang tàn (Bờ vai); Sáng đầu đông trong veo Tây Yên Tử/ Thiếu nữ người Dao khua chổi quét lá thông/ Người phiêu lưu bắc lên bao bậc đá/ Đá đã mòn trơ sao em vẫn nói không// Ở phía trên An Kỳ Sinh bất tử/ Người dựng tượng hơn hai trăm tấn/ Trên đỉnh non thiêng chùa xây mới/ Sắc nét bên ngoài nhạt bên trong (Yên Tử).

Tình yêu trong thơ Lưu Hồng Vân rất khó nắm bắt, tựa như một hồ sâu hun hút, mặt nước tịnh yên nhưng dưới thẳm sâu sóng gợn khôn cùng. Đó là tình yêu của người đàn ông thật sự trưởng thành và mang những vết đau không phai dấu. Bởi vậy nên người đàn ông ấy lặng lẽ cất niềm thương vào đáy mắt, cất nỗi buồn vào tận đáy tim và giữ sự trầm tĩnh đến vô cùng để đi qua năm tháng. Thôi đừng trích dẫn ngày mưa/ Hàng cây giơ ngón như vừa tắt thu/ Sắc thanh thanh sắc phiêu du/ Đồng vong trống trải xóm tu chật rồi/ Thôi đừng trích dẫn xa xôi/ Tóc xanh bướm trắng đã vừa vội bay/ Nhân gian canh bạc tất tay/ Ái nhân chai sạn mỗi ngày một xa (Thôi đừng); Gió mùa cắt đứt cơn mê/ Yêu thương roi quất nhớ về sẹo non// Tự thiêu ngày tháng mất còn/ Tìm đâu giày đỏ chân son mà tìm// Ta về gói ghém lặng im/ Nhớ thương buộc lại cánh chim lạc mùa (Gió mùa).

Cũng bởi vì thế mà xuyên suốt tập thơ là nỗi niềm hoang hoải, là một tình yêu không thể nắm bắt, dẫu không bi lụy nhưng cũng chưa bao giờ trọn vẹn. Mưa nhà ai đổ mãi trăm nơi/ Ngọn vu quy tìm nơi gõ cửa/ Cánh gập rồi gió còn lạc lối/ Mịt mùng đêm gieo giắc hôm trưa/ Ta tìm nhau đến vô hạn định/ Chút tình yêu biết mấy cho vừa (Hạn định). Để rồi nơi “ngõ gió”: Người theo ngõ Thông Phong về với gió/ Để trên trời ríu rít những dây/ Mỏi cánh chim tìm hoài không có/ Ngày cuối năm mưa bụi cứ bay// Ta lang thang trên ngày gian khó/ Biết tìm ai trong đám đông người/ Đành đậu neo niềm tin ảo cũ/ Nhấp tâm tình trong cốc chè tươi// Ngõ một mình qua tuổi năm mươi/ Ngày tháng rộng nay càng hạn hẹp/ Gió đi qua hun hút biết cười (Ngõ gió).

Với Ngõ gió, có lúc Lưu Hồng Vân như đang độc thoại với chính mình. Sấp ngửa đời người với bao nhiêu được mất, với bao nhiêu chiêm nghiệm về thế thái nhân tình, những điều đã và đang xảy ra đầy nhức nhối.

Buồn quá đất ơi/ Thầy địa lý sợ rằng đất biết nói/ Người với người sợ đất biết chia/ Ngày hôm qua, ngày hôm kia/ Đất trào máu// Đất có trước/ Người sinh ra sau/ Người bạc trước đất bạc sau// Đất và người không cho riêng ai hết/ Đất biết đau/ Người ta nói “trái đất ba phần tư nước mắt/ Là biển sâu/ Hay do đất khóc... (Đất).

Trên đường đời tấp nập với bao nhiêu điều tốt - xấu; bình yên - bất trắc... xảy ra; để rồi Lưu Hồng Vân nhận ra rằng: Ông trời gieo những sinh linh/ Vòng quay thì ngắn sợi tình thì dai/ Nhân sinh hít một hơi dài/ Cùng nhau ngụp lặng đến phai bạc đầu… (Gieo). Dẫu ở góc nhìn nào, với cung bậc cảm xúc nào thì Lưu Hồng Vân cũng chạm vào tận cùng những trở trăn nhân thế. Ngai ngái chiều nắng vàng tịnh độ/ Chuông từ tâm thăm thẳm rất sâu/ Lời yêu đương mặc nhiên bến đỗ/ Sương khói đem đi thả giữa cầu/ Dòng sông nào bồi đắp đã lâu/ Ngày tháng năm hồn nhiên rơi vãi/ Giữa đục trong phù sa mê mải/ Đãi cát tìm ta lại thấy mắt nhau (Mắt nhau). Và với Ngõ gió, khi đọc đến trang cuối cùng, gấp sách lại rồi mà lòng vẫn hoang hoải gió và thăm thẳm những nỗi niềm trắc ẩn!

Bài viết liên quan

Xem thêm
Người trẻ thử sức với phê bình
Được biết “Những phức cảm phận người” (NXB Hội Nhà văn, 2023) là tập phê bình văn học (PBVH) đầu tay của cây bút Lê Hương, nên tôi đọc với một tâm thế trân trọng và chờ đợi.
Xem thêm
Người chiến sĩ Điện Biên Nguyễn Thiện Thuật - Mùa hoa ban đẹp mãi
Đối với mỗi người Việt Nam chúng ta hôm nay, cái tên Điện Biên Phủ đã như một dấu mốc luôn hiện lên sừng sững mỗi khi nhắc đến. Ai cũng rưng rưng xúc động bởi máu xương của cha anh, của nhân dân đã đổ xuống để làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là không thể đo đếm hết được.
Xem thêm
Những trang văn phảng phất mùi thuốc súng
Bài tham luận của nhà văn Đỗ Viết Nghiệm
Xem thêm
Di cảo thơ Chế Lan Viên: Khi thơ là thuốc, là lời kinh kệ
Chế Lan Viên là người mà sự nghĩ ngợi vận vào thơ như thể thơ cũng là thuốc, thơ chẩn ra được cái bệnh đau của kiếp người, và “Có vào nỗi đau mới có ích cho người”.
Xem thêm
Cảm hứng sinh thái trong thơ Đặng Bá Tiến
 Là một nhà báo, nhà thơ mấy chục năm gắn bó với vùng đất Đắk Lắk, Đặng Bá Tiến đã sáng tác thành công về thiên nhiên, con người và văn hoá Tây Nguyên với nhiều tác phẩm: Lời chân thành với cỏ (Thơ, 2009), Rừng cổ tích (Trường ca, 2012), Hồn cẩm hương (Thơ, 2017), Linh hồn tiếng hú (Thơ, 2020). Anh là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Tây Nguyên đương đại, một nhà thơ “thứ thiệt”[1] có bản sắc riêng, thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo. Nổi bật trong sáng tác của anh là những tác phẩm viết về rừng, về sinh thái văn hoá và nhân văn.      
Xem thêm
Sức bền của ngòi bút
Nguồn: Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 116, ngày 21/3/2024
Xem thêm
Nguyễn Bính ở phương Nam
Nguyễn Bính (1918-1966), tên thật là Nguyễn Trọng Bính (có lúc tên Nguyễn Bính Thuyết), quê ở Nam Định nhưng sống khắp ba miền đất nước. Ông có phong cách một nhà thơ lãng tử, sáng tác về chủ đề tình cảm làng quê và tình yêu, tổ quốc. Thơ tình cảm mộc mạc của ông được rất nhiều người thuộc. Tác phẩm gồm 26 thi tập trong đó có : + 1 kịch thơ : Bóng giai nhân (1942): + 3 truyện thơ : Truyện Tỳ Bà (1942); Trong bóng cờ bay (1957); Tiếng trống đêm xuân (1958): + 1 vở chèo : Người lái đò sông Vỹ (1964) và rất nhiều bài thơ nổi tiếng của ông được nhạc sĩ phổ thành ca khúc : Tiểu đoàn 307 (Nguyễn Hữu Trí phổ nhạc, Quốc Hương ca);  Cô hái mơ (Phạm Duy); Ghen (Trọng Khương), Cô lái đò (Nguyễn Đình Phúc); Chân quê (Minh Quang). Hiện nay, nhiều thành phố có những con đường mang tên ông. Nhà thơ Nguyễn Bính nhận được giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (2000) cùng với Hoài Thanh, Bùi Đức Ái, Nguyễn Quang Sáng, …
Xem thêm
“Đánh thức mình bằng chân lý vô ngôn”
Tôi biết Nguyễn Minh Thuận (nguyên Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Tư pháp Đắk Lắk) làm thơ đã lâu, dễ hơn ba chục năm trước, thỉnh thoảng anh vẫn đọc cho tôi nghe và rải rác anh cho đăng trên facebook Trương Thị Hiền - vợ anh (TS, giảng viên Trường Đại học Tây Nguyên).
Xem thêm
Đọc “Thơ mười năm” của Hoàng Đình Quang
Bài viết của nhà thơ Trần Quang Khánh
Xem thêm
Hoàng hôn chín – chín mọng yêu thương
Về tập thơ in chung của Võ Miên Trường và Triệu Kim Loan
Xem thêm
Thơ Phan Hoàng trong hành trình ngược lối – Tiểu luận của Mai Thị Liên Giang
Tập thơ “Chất vấn thói quen” của Phan Hoàng từng nhận được nhận Giải thưởng Hội Nhà văn TPHCM và Tặng thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012, sau đó tập thơ này được trao Giải thưởng Nghệ thuật Danube năm 2023 của Hungary. Ngoài ra tập trường ca “Bước gió truyền kỳ” của ông cũng được Ủy ban nhân dân TPHCM trao Giải thưởng Văn học Nghệ thuật TPHCM 5 năm lần thứ II. Để hiểu thêm về hành trình sáng tạo thi ca của nhà thơ Phan Hoàng, xin trân trọng giới thiệu bài viết của nhà lý luận phê bình văn học Mai Thị Liên Giang.
Xem thêm
Những giải mã thú vị, khoa học của một người đọc tri âm
Với kiến văn sâu rộng, sự nghiên cứu cẩn trọng mang tính học thuật cao, khai thác nhiều vấn đề tri thức lý luận mới mẻ; Trần Hoài Anh đã đem đến những trang viết tinh tế, khai mở nhiều điều lý thú và bổ ích.
Xem thêm
Hồn xuân trong thơ Hồ Chí Minh
Nhà thơ Trung Quốc Viên Ưng đã nhận định sâu sắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một trí tuệ lớn, một dũng khí lớn, một tâm hồn lớn”.
Xem thêm
“Trung thực và quả cảm” trong sáng tác và phê bình văn học, nghệ thuật
Bài viết của nhà thơ Mai Nam Thắng trên Văn nghệ số 4/2024
Xem thêm
Nguyễn Quang Thiều với ‘Nhật ký người xem đồng hồ’
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa về tập thơ Nhật ký người xem đồng hồ của Nguyễn Quang Thiều
Xem thêm
Nửa lo giá chợ nửa ngây vì trời
Nguồn: Báo Văn nghệ số 4, ra ngày 27/1/2024.
Xem thêm
Dòng kinh yêu thương
Tháng 8 năm 1969, chương trình Thi văn Về Nguồn góp tiếng trên Đài phát thanh Cần Thơ vừa tròn một tuổi. Nhân dịp nầy, cơ sở xuất bản về Nguồn ấn hành đặc san kỷ niệm. Đặc san tập họp sáng tác của bằng hữu khắp nơi, với các thể loại như thơ, truyện, kịch… và phần ghi nhận sinh hoạt văn học nghệ thuật ở miền Tây trong một năm qua. Trong đặc san này, chúng tôi in một sáng tác của nhà thơ Ngũ Lang (Nguyễn Thanh) viết ngày 24/8/1969, gởi về từ Vị Thanh (Chương Thiện), có tựa đề “Đưa em xuôi thuyền trên kinh Xà No” Hơn nửa thế kỷ trôi qua với bao nhiêu biến động, ngay cả tác giả bài thơ chắc cũng không còn nhớ. Xin được chép lại trọn bài thơ của anh đã đăng trong Đặc san kỷ niệm Đệ nhất chu niên Chương trình Thi văn Về Nguồn, phát hành vào tháng 8 năm 1969.
Xem thêm