TIN TỨC

Thăm thẳm nỗi niềm trong ‘Ngõ gió’ của Lưu Hồng Vân

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-09-29 00:58:31
mail facebook google pos stwis
2298 lượt xem

  Nguyễn Văn Hòa

Thâm trầm và lặng lẽ, Lưu Hồng Vân miệt mài với những con chữ đượm tình, sau một Rượu xưa đầy khắc khoải; Tập tàng vời vợi nhớ thương thì lại đến một Ngõ gió hoang hoải những chiêm nghiệm về tình yêu và cuộc đời.

Ngõ gió đã tạo được những nét riêng nhất định cả về nội dung lẫn hình thức biểu hiện. Đây là bước chuyển rất đáng được ghi nhận của một người làm thơ cần mẫn, hăng say như Lưu Hồng Vân.

119 bài thơ trong Ngõ gió, Lưu Hồng Vân đã thể hiện được thi pháp riêng của cái tôi tự biểu hiện, tự soi tỏ; để từ đó nhìn ra - nghiệm suy mọi thứ đang hiện hữu quanh mình, ở thời đại mình đang sống với sự đồng hiện và đan cài giữa hiện tại -  khứ - tương lai.

Dòng người trôi cuồn cuộn/ Muốn thành danh phải dơ hơn một tý/ Người khóc thuê/ Người lệch chuẩn/ Trên đường về cổ vũ hào hoa// Đường lối nhân sinh có lẽ rất xa hoa/ Mắt em cong mi dài lóng lánh/ Trước ly rượu nâu anh cười sang chảnh/ Trong lòng buồn hoang hoác thâm sâu... (Hoang mang).

Thơ Lưu Hồng Vân là thơ của cảm xúc rất đỗi chân thành, từng câu chữ cứ hiển hiện một cách tự nhiên qua lăng kính của một người luôn nhìn cuộc sống một cách trầm tĩnh và đa chiều. Có lẽ chính những chiêm nghiệm cuộc đời của một con người từng đi qua hết mọi cung bậc cảm xúc, yêu thương rồi xa cách để tĩnh lặng,  tự chất vấn chính mình. Mơ hồ những vết chân chim/ Bảng bay son phấn đi tìm phấn son/ Đường nhân gian đã quá mòn/ Đá phơi sương gió có còn biết đau (Đá đau).

Thâm trầm là thế, song cũng có lúc người thơ vẫn không khỏi thảng thốt trước những dự cảm riêng mình về thời gian, về những ký ức sống động của tuổi trẻ: Em vừa cắt tỉa lời ru/ Xa xưa bím tóc còn chưa gọi thề/ Ta vừa đứt đoạn đam mê/ Tóc xanh đã ngả bên lề trắng phau (Tóc xanh); hay Đường heo hút gió phong tình/ Họa mi khắc họa trắng tinh chớm mùa/ Dã quỳ vàng dã khúc cua/ Em trong leo lẻo tiếng xưa còn thề/ Ta bong tróc với đam mê/ Vàng son hắt hủi bước về lạnh sâu (Đường cuối thu); Nắng cứ gắt, mưa cứ rơi/ Tình si trói buộc khắp nơi một mình/ Trái ngọt nhiều trái ngọt xinh/ Hoa chưa nở đã thấy mình tàn phai/ Dòng trôi heo hút đường dài/ Thời gian rất ngắn cũng thoai thoải buồn (Si).

Với tâm hồn đa mang, đa cảm của người thi sĩ thì dù một biến chuyển nhỏ của tự nhiên hay lòng người cũng khiến Lưu Hồng Vân không khỏi suy tư: “Thu vàng hạ đỏ xuân xanh/ Dụi ngang mày xám cho thành mùa đông/ Người hay nói có thành không/ Xoa tay hoang vắng vẫn trông miệng cười/ Dung dăng bỏ chín thành mười/ Mắc mang duyên phận ngoài tươi trong tàn (Thu tàn). Cũng có lúc khi nhìn thấu được những nhiễu nhương, bất trắc và cả sự hoang mang dâng lên từng câu chữ: Kẻ loạn ngôn thành kẻ tinh hoa/ Nói mãi/ Hát mãi/ Câu hát sau không như câu hát trước/ Bấy nhiêu năm/ Nói xong/ Rồi chẳng biết đã nói gì/ Bị vặt lông/ Bị hiến tế/ Bầy cừu vẫn im lặng/ Đi… (Bầy cừu); Ngọn gió hôm nay rực rỡ đèn mầu/ Ôi thứ đèn ăn son ăn phấn/ Như con thú bắt ánh sáng giữa rừng sâu/ Hay như thiêu thân lao vào để chết/ Ngày hôm nay người ta quên hết/ Muốn đi nhanh hơn phải biết xếp hàng/ …Chưa kịp buồn đã thấy hoang mang (Hoang mang).

Là người con đất Bắc nên những kỷ niệm ấu thơ, những vụng dại buổi đầu lẫn những chông chênh, hẫng hụt với đời đều gắn liền với vùng đất ấy. Bởi vậy nên rất dễ bắt gặp những câu thơ với thanh âm và hình ảnh mang đậm dấu ấn thâm trầm, nét đặc trưng xứ sở: “Em có về Nghĩa Lộ không em...”/ Ruộng bậc thang đang mùa lúa chín/ Suối vắt trong mây trời bịn rịn/ Đá ngâm mình chiêm nghiệm những phù sa// Nắng đồi chè loang loáng trôi qua/ Vết trăng tròn lấp sau áo trắng/ Gốc chè mốc hoang chiều thầm lặng/ Bỗng rạng ngời tím ngắt hoa sim (Về Nghĩa Lộ). Hay Tư Đình nắng xuống Lâm Du/ Làm sao nhạt bớt mùa thu đang tàn (Bờ vai); Sáng đầu đông trong veo Tây Yên Tử/ Thiếu nữ người Dao khua chổi quét lá thông/ Người phiêu lưu bắc lên bao bậc đá/ Đá đã mòn trơ sao em vẫn nói không// Ở phía trên An Kỳ Sinh bất tử/ Người dựng tượng hơn hai trăm tấn/ Trên đỉnh non thiêng chùa xây mới/ Sắc nét bên ngoài nhạt bên trong (Yên Tử).

Tình yêu trong thơ Lưu Hồng Vân rất khó nắm bắt, tựa như một hồ sâu hun hút, mặt nước tịnh yên nhưng dưới thẳm sâu sóng gợn khôn cùng. Đó là tình yêu của người đàn ông thật sự trưởng thành và mang những vết đau không phai dấu. Bởi vậy nên người đàn ông ấy lặng lẽ cất niềm thương vào đáy mắt, cất nỗi buồn vào tận đáy tim và giữ sự trầm tĩnh đến vô cùng để đi qua năm tháng. Thôi đừng trích dẫn ngày mưa/ Hàng cây giơ ngón như vừa tắt thu/ Sắc thanh thanh sắc phiêu du/ Đồng vong trống trải xóm tu chật rồi/ Thôi đừng trích dẫn xa xôi/ Tóc xanh bướm trắng đã vừa vội bay/ Nhân gian canh bạc tất tay/ Ái nhân chai sạn mỗi ngày một xa (Thôi đừng); Gió mùa cắt đứt cơn mê/ Yêu thương roi quất nhớ về sẹo non// Tự thiêu ngày tháng mất còn/ Tìm đâu giày đỏ chân son mà tìm// Ta về gói ghém lặng im/ Nhớ thương buộc lại cánh chim lạc mùa (Gió mùa).

Cũng bởi vì thế mà xuyên suốt tập thơ là nỗi niềm hoang hoải, là một tình yêu không thể nắm bắt, dẫu không bi lụy nhưng cũng chưa bao giờ trọn vẹn. Mưa nhà ai đổ mãi trăm nơi/ Ngọn vu quy tìm nơi gõ cửa/ Cánh gập rồi gió còn lạc lối/ Mịt mùng đêm gieo giắc hôm trưa/ Ta tìm nhau đến vô hạn định/ Chút tình yêu biết mấy cho vừa (Hạn định). Để rồi nơi “ngõ gió”: Người theo ngõ Thông Phong về với gió/ Để trên trời ríu rít những dây/ Mỏi cánh chim tìm hoài không có/ Ngày cuối năm mưa bụi cứ bay// Ta lang thang trên ngày gian khó/ Biết tìm ai trong đám đông người/ Đành đậu neo niềm tin ảo cũ/ Nhấp tâm tình trong cốc chè tươi// Ngõ một mình qua tuổi năm mươi/ Ngày tháng rộng nay càng hạn hẹp/ Gió đi qua hun hút biết cười (Ngõ gió).

Với Ngõ gió, có lúc Lưu Hồng Vân như đang độc thoại với chính mình. Sấp ngửa đời người với bao nhiêu được mất, với bao nhiêu chiêm nghiệm về thế thái nhân tình, những điều đã và đang xảy ra đầy nhức nhối.

Buồn quá đất ơi/ Thầy địa lý sợ rằng đất biết nói/ Người với người sợ đất biết chia/ Ngày hôm qua, ngày hôm kia/ Đất trào máu// Đất có trước/ Người sinh ra sau/ Người bạc trước đất bạc sau// Đất và người không cho riêng ai hết/ Đất biết đau/ Người ta nói “trái đất ba phần tư nước mắt/ Là biển sâu/ Hay do đất khóc... (Đất).

Trên đường đời tấp nập với bao nhiêu điều tốt - xấu; bình yên - bất trắc... xảy ra; để rồi Lưu Hồng Vân nhận ra rằng: Ông trời gieo những sinh linh/ Vòng quay thì ngắn sợi tình thì dai/ Nhân sinh hít một hơi dài/ Cùng nhau ngụp lặng đến phai bạc đầu… (Gieo). Dẫu ở góc nhìn nào, với cung bậc cảm xúc nào thì Lưu Hồng Vân cũng chạm vào tận cùng những trở trăn nhân thế. Ngai ngái chiều nắng vàng tịnh độ/ Chuông từ tâm thăm thẳm rất sâu/ Lời yêu đương mặc nhiên bến đỗ/ Sương khói đem đi thả giữa cầu/ Dòng sông nào bồi đắp đã lâu/ Ngày tháng năm hồn nhiên rơi vãi/ Giữa đục trong phù sa mê mải/ Đãi cát tìm ta lại thấy mắt nhau (Mắt nhau). Và với Ngõ gió, khi đọc đến trang cuối cùng, gấp sách lại rồi mà lòng vẫn hoang hoải gió và thăm thẳm những nỗi niềm trắc ẩn!

Bài viết liên quan

Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm