TIN TỨC

Thầy tôi - Kho báu của tôi

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-11-18 15:34:05
mail facebook google pos stwis
1207 lượt xem

Lê Thị Thanh Vy

PGS Chu Xuân Diên thuộc thế hệ những nhà nghiên cứu tiếp thu lý thuyết thế giới qua con đường tiếng Nga và tiếng Pháp. Thầy đã tham gia dịch những công trình kinh điển về folklore học mà đặc biệt phải kể đến bộ sách 2 tập rất dày dặn là Tuyển tập V. Ia. Propp - giới thiệu gần như đầy đủ trước tác của một tác giả quan trọng hàng đầu của trường phái Hình thức Nga và nghiên cứu folklore...

PGS Chu Xuân Diên và tác giả

 

“Người cao tuổi là một kho báu”

 

Đó là một câu tục ngữ mà tôi đã dùng để gửi lời tri ân sâu sắc đến thầy Chu Xuân Diên - giảng viên hướng dẫn của tôi, khi tôi hoàn thành buổi bảo vệ luận án tiến sĩ của mình với đề tài “Nghiên cứu folklore trong bối cảnh: lý thuyết và ứng dụng (Trên cứ liệu tục ngữ trong văn học Việt Nam)”. Khi ấy, thầy tôi đã 87 tuổi; cũng vì lẽ đó mà tôi hay được thầy cô và các bạn đồng nghiệp gọi đùa là “bế môn đệ tử” - học viên cuối cùng mà thầy hướng dẫn chuyên môn trong sự nghiệp nghiên cứu và giảng dạy kéo dài hơn nửa thế kỷ của mình.

Thật ra tôi đã may mắn được đồng hành cùng thầy từ trước đó hơn 10 năm. Thầy đã giảng dạy cho hệ Cử nhân tài năng khoa Văn học khóa 2005-2009 chúng tôi một chuyên đề về các công trình nghiên cứu văn hóa dân gian hiện đại - đó cũng là lần đầu tiên chúng tôi được biết đến hai nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Huyên và Cao Huy Đỉnh với 2 công trình có tính chất “cắm mốc” của họ là “Hát đối của nam nữ thanh niên ở Việt Nam” và “Người anh hùng làng Dóng”. Khi tôi tốt nghiệp và được giữ lại Khoa Văn học để trở thành cán bộ giảng dạy cho Bộ môn văn hóa dân gian, thầy trưởng khoa khi ấy là PGS.TS Lê Giang đã trao đổi với thầy Chu Xuân Diên về việc hướng dẫn luận văn thạc sĩ cho tôi.

Tôi khi đó vừa tốt nghiệp đại học, hồ hởi và hồn nhiên trình bày với thầy Chu Xuân Diên về khuynh hướng quan tâm đến những hiện tượng văn hóa, văn học dân gian đương đại của mình, mong muốn theo đuổi một đề tài luận văn như thế. Khi ấy, thầy đã từ tốn giải thích cho tôi rằng không nên vội vàng, nên bắt đầu một cách căn cơ hơn, từ những lý thuyết văn hóa dân gian. Thầy dẫn chứng trường hợp GS Nguyễn Đức Dân - một nhà ngữ học uyên bác, thường xuyên xuất hiện trước đại chúng để trả lời về các vấn đề ngôn ngữ đương đại dựa trên những hiểu biết chuyên môn sâu sắc của mình. Trong lần gặp thứ hai, tôi đã trình bày nguyện vọng của mình về việc tìm hiểu và giới thiệu một lý thuyết folklore đương đại và ứng dụng vào nghiên cứu văn học dân gian Việt Nam. Khi ấy, thầy đã giới thiệu với tôi hướng tiếp cận bối cảnh trong nghiên cứu văn hóa dân gian - một khuynh hướng học thuật nổi lên tại Hoa Kỳ vào những năm 1970, tạo thành “bước ngoặt” trong ngành folklore với sự tham gia của các nhà nhân học hàng đầu của Hoa Kỳ lúc bấy giờ. Đây cũng là đề tài mà tôi đã thực hiện luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ - một dấu mốc lớn hành trình học thuật của tôi.

 

Trong bước đầu chập chững đó, tôi đã học được ở thầy hai điều rất quan trọng về hướng dẫn khoa học. Đầu tiên, với nghiên cứu nhân văn, cần cân nhắc đến nguyện vọng, thiên hướng riêng của nhà nghiên cứu để chọn được hướng đề tài phù hợp. Được thực hiện một đề tài có kết nối cá nhân là một trong những tiền đề đầu tiên cho việc duy trì cam kết của nhà nghiên cứu với vấn đề mà mình theo đuổi. Bài học thứ hai là tầm nhìn xa trong việc gợi mở một hướng đi cơ bản, năng sản, nhiều triển vọng. Qua quá trình làm luận văn và luận án với thầy, tôi như được mở ra một chân trời với việc tìm hiểu lịch sử ngành folklore học, các khuynh hướng và phương pháp tiếp cận văn bản folklore, không chỉ giúp tôi hoàn thành luận án mà còn khơi mở và cung cấp cho tôi những công cụ, điểm nhìn để lý giải các hiện tượng văn hóa đương đại mà tôi quan tâm, hình thành nên các bài viết về folklore đương đại Việt Nam của tôi sau này. Với tôi, thầy thật sự là một kho báu.  

  • Một nhà nghiên cứu có tầm nhìn rộng rãi và sự nhạy cảm khoa học

 

Để có thể nhận định về những thành tựu mà PGS Chu Xuân Diên đã cống hiến cho folklore học Việt Nam cần những bài viết công phu từ một nhà nghiên cứu có cùng tầm vóc với thầy - mà tôi nghĩ bài viết của GS Nguyễn Xuân Kính về thầy là một bài viết như thế. Với kinh nghiệm làm nghiên cứu hạn hẹp của mình, tôi chỉ có thể nêu hai cảm nhận lớn nhất của tôi về PGS Chu Xuân Diên qua quá trình được thầy đồng hành, là tầm nhìn rộng rãi và sự nhạy cảm khoa học của một nhà nghiên cứu lớn.

PGS Chu Xuân Diên thuộc thế hệ những nhà nghiên cứu tiếp thu lý thuyết thế giới qua con đường tiếng Nga và tiếng Pháp. Thầy đã tham gia dịch những công trình kinh điển về folklore học mà đặc biệt phải kể đến bộ sách 2 tập rất dày dặn là Tuyển tập V. Ia. Propp - giới thiệu gần như đầy đủ trước tác của một tác giả quan trọng hàng đầu của trường phái Hình thức Nga và nghiên cứu folklore. Bên cạnh đó, tình hình ngành folklore học Âu - Mỹ vẫn được thầy cập nhật thường xuyên qua các tạp chí chuyên ngành, các bộ sách dịch thuật từ những dự án của Viện Nghiên cứu văn hóa. Từ bộ sách Folklore thế giới: Một số công trình nghiên cứu cơ bản và Folklore thế giới: Một số thuật ngữ đương đại (GS Ngô Đức Thịnh và TS Frank Proschan chủ biên) mà thầy đã biết đến “contextual approach” (hướng tiếp cận bối cảnh) và mang đến những gợi ý quý giá cho tôi để theo đuổi.

Đọc sách của các lý thuyết gia thuộc trường phái bối cảnh trong folklore học, tôi thấy nhiều thao tác và phương pháp luận của họ đã từng được thầy đi đầu sử dụng tại Việt Nam từ trước đó - thời điểm mà lý thuyết bối cảnh trong folklore học hoàn toàn chưa được giới thiệu. Điều này thể hiện trong các phương pháp, quy trình sưu tầm mà khoa Ngữ văn - Báo chí (tiền thân của khoa Văn học) đã thực hiện trong các đợt điền dã từ rất sớm. Ghi nhận thông tin của cộng tác viên/ người cung cấp tư liệu folklore là một phương pháp luận rất hiện đại trong bối cảnh Việt Nam, hầu như không thấy trong các bộ sưu tầm văn học dân gian trước đó (điều này còn đặc biệt có ý nghĩa với những đợt điền dã quy mô lớn và kéo dài nhiều năm như các đợt sưu tầm văn học dân gian của cán bộ và sinh viên khoa Văn học). Hiển nhiên đây cũng là một phần của công tác quản lý hoạt động làm việc của sinh viên; nhưng phải nhìn nhận ở khía cạnh điều này đã cung cấp những thông tin rất hữu ích để chúng ta có thể diễn giải tư liệu folklore. Một trường hợp thú vị nữa là trong công trình Văn học dân gian Bạc Liêu, sản phẩm kết tinh từ các đợt thực tập thực tế của sinh viên khoa Văn học sau đó được xuất bản vào năm 2005, riêng câu chuyện Tấm Cám đã có một số lượng dồi dào hiếm thấy, lên đến 14 dị bản với những khác biệt rất thú vị, độc đáo so với những phiên bản quen thuộc nhiều người biết đến. Sau khi tìm hiểu thì tôi được biết điều này nằm trong “ý đồ” của thầy khi đó là trưởng đoàn thực tập: thầy đã yêu cầu các cán bộ hướng dẫn và sinh viên tại mỗi địa bàn cùng đề nghị người dân địa phương thuộc các xã khác nhau của tỉnh Bạc Liêu kể câu chuyện Tấm Cám. Tôi đã sử dụng những tư liệu này, cả văn bản và những thông tin hữu ích về giới tính và độ tuổi của cộng tác viên để phân tích trong bài viết Truyện Tấm Cám ở Nam Bộ của mình. Dĩ nhiên, hiện nay với sự hỗ trợ đắc lực và trực tiếp của các lý thuyết nhân học hiện đại, công tác điền dã và văn bản hóa tác phẩm văn học dân gian đã được chuẩn hóa tại nhiều khoa đào tạo folklore học trên thế giới, thông tin về cộng tác viên cũng đã được ghi nhận ở mức độ sâu sắc và dầy dặn hơn rất nhiều, nhưng tầm nhìn và sự nhạy cảm của một chuyên gia folklore học hàng đầu Việt Nam trong một bối cảnh còn nhiều hạn chế về tư liệu và nguồn thông tin tra cứu như những năm 1990 là một điều xúc động.

Sự nhạy cảm khoa học là rất cần thiết trong nghiên cứu nhân văn - ngành nghiên cứu gắn với những mô hình biểu đạt đa dạng của con người, thiên về định tính và sự diễn giải. Sự nhạy cảm là một phẩm chất phần nào có tính thiên bẩm, nhưng để có thể trở thành một phản xạ và phát huy hiệu quả thì nó đòi hỏi quá trình tích lũy và mài dũa liên tục của người nghiên cứu. Ở phương diện này, có thể nói PGS Chu Xuân Diên là điển hình của một học giả có tri thức “bách khoa” tại Việt Nam. Thầy không bao giờ tự giới hạn mình trong một chuyên môn hẹp: thầy đọc lý thuyết ngôn ngữ học, văn học, văn hóa học, nghiên cứu lịch sử, đọc tiểu thuyết nước ngoài và tiểu thuyết Việt Nam, thầy nghe nhạc cổ điển,...Có thể thấy ngay điều này qua “thư viện gia đình” hàng ngàn cuốn sách thuộc đủ các lĩnh vực của thầy.

Tôi có những kỷ niệm thân thương với thầy, như thầy từng dịch giúp tôi một bài báo tiếng Nga liên quan đến luận án của tôi. Tôi nhớ nỗi xúc động của mình khi cầm trên tay cuốn tập học trò, nhìn những dòng chữ bút bi xanh ngay ngắn và bay bổng của thầy (và cả những chi tiết nhỏ cho thấy sự tinh tế lúc làm việc như khi ghi chép, thầy luôn chỉ ghi một mặt bên phải của quyển tập học trò, mặt bên trái đối xứng dùng để có chỗ chỉnh sửa, ghi chú sau này). Lúc đó tôi quá đỗi bất ngờ; nhưng sau này khi hướng dẫn các bạn sinh viên làm nghiên cứu khoa học và khóa luận, tôi hiểu rằng khi hướng dẫn người học làm một nghiên cứu là đồng nghĩa với việc thầy và trò cùng nhau tìm hiểu; người thầy cũng có những tò mò khoa học khi đồng hành cùng học trò. Tinh thần hiếu tri, niềm vui chân thành của người thầy cao niên trước một điều gì đó “mới” khiến tôi thật sự xúc động.

Từ thầy Chu Xuân Diên và nhiều thầy cô ở khoa Văn học, tôi tin tưởng vào sự trao truyền giá trị, về sự tiếp nối và kết nối thế hệ. Di sản mà các thầy cô để lại không chỉ là một tập hợp dồi dào những giáo trình, công trình nghiên cứu, dịch thuật luôn mời gọi tiếp cận và đối thoại; mà còn là một thái độ sống, sự nghị lực và bản lĩnh văn hóa - trong đó, thầy tôi hiện lên như một đại diện của thế hệ trí thức Việt Nam thời hậu chiến đã vượt qua nhiều rào cản, thiếu thốn, để lặng lẽ và bền bỉ đóng góp.

L.T.T.V

Bài viết liên quan

Xem thêm
Sức quyến rũ của sự chân thành
16 giờ ngày 14.4.2024, Nhà xuất bản Hội Nhà văn tổ chức buổi gặp gỡ giao lưu giữa tác giả - Tiến sĩ Lê Kiên Thành (con trai cố Tổng bí thư Lê Duẩn)
Xem thêm
Sông chảy bên đời – Tuỳ bút của Nguyễn Thị Thu Thủy
Một đời người đã đi qua biết bao dòng sông, bao nhiêu ngã rẽ, khúc cua; mỗi dòng sông đều để lại bao luyến lưu, vương vấn, để lại những kí ức luôn tươi xanh mỗi khi nhớ về. Sông vẫn cứ chảy như thời gian trôi đi mải miết vì vậy “không ai tắm hai lần trên một dòng sông”.
Xem thêm
Rặng Diên Vĩ - Tản văn của Quốc Tuấn
Gió vẫn thổi, mái tóc thơm tuột khỏi giây buộc, quấn quanh đầu như vòng hoa nâu thẫm, vô tình quất bỏng môi người. Mùi hương đó, quen quá. Mùi tóc mẹ, hương quê vị quán. Tựa như làn nước lung linh, hơi thở chị uyển chuyển theo nhịp điệu không gian. Đôi mắt và đôi môi vẫn mỉm cười nhưng đã có chút tiếc nuối. Chính nỗi buồn ẩn chứa trên khuôn dung đã khiến chị trở nên hấp dẫn, pha lẫn sự hồn nhiên, ngây thơ tạo nên một tổng thể đẹp đến khó tin.
Xem thêm
Trần Bảo Định - Thú thưởng ngoạn văn chương qua tác phẩm “Đọc thơ bạn”
Có thể nói Trần Bảo Định là một hiện tượng văn học Việt Nam hiện đại: Chỉ trong vòng khoảng hơn 10 năm trở lại đây, từ khi về hưu anh đã cho ra đời 6 tập thơ, hơn 10 tập tản văn, truyện ngắn và 3 tập tiểu luận phê bình trong khi phải chống chọi với căn bệnh ung thư quái ác...
Xem thêm
Canh cá rô đồng – Tản văn của Châu Duyên
Tôi biết về món canh cá rô đồng đã lâu theo lời kể của cô bạn đang ở thành phố mang tên Bác, toàn những tin nhắn như là: Ê! Trưa nay tớ đang ăn canh cá rô đồng nè.
Xem thêm
Sài Gòn như nhà, như mẹ, như quê… – Tản văn của Triệu Vẽ
Ở Sài Gòn, không có ranh giới trọng khinh giữa dân “Sài Gòn” hay dân “tỉnh lẻ”, dân “phố” hay dân “phèn”. Trong huyết quản sâu xa của người Sài Gòn có ruộng đồng, bờ bãi, con trâu, con gà.
Xem thêm
Ơi mùa hoa ban! – Bút ký của Nguyễn Huy Bang
Chiếc máy bay VJ 299 từ Tân Sơn Nhất (sau 2 giờ 5 phút) bay qua không phận 3 nước.
Xem thêm
Tháng Ba hoa gạo – Tản văn của Bằng Lăng Tím
Đào phai, mai vàng là sự kì diệu của tháng giêng. Chúa của các loài hoa tháng ba chính là hoa gạo. Xuân sắp sửa đi qua, hạ lấp ló ở đầu ngõ. Hoa gạo đẹp theo nét riêng và tùy vào thời tiết. Hôm nào trời quang hoa đỏ thắm, ngời sắc trong khoảng không. Ríu rít đàn chim, lao xao ong bướm. Hoa như đốm lửa thắp sáng cả bình minh. Hôm nào sương dày đặc, nhìn hoa như ánh lửa đêm đông, lập lòe mang đến sự ấm áp lạ thường.
Xem thêm
Nhớ hoa đào - Tùy văn của Nguyễn Linh Khiếu
Mỗi năm khi sắp tết bao giờ mình cũng mua hoa đào. Hà Nội không có hoa đào làm sao gọi là tết. Dù là bích đào bạch đào hay đào phai thì hoa đào bao giờ cũng mang tết đến mỗi ngôi nhà thân thương. 
Xem thêm
Giữa những mùa hoa nở - Bút ký Nguyễn Xuân Thủy
Từ Yên Khương, thuộc huyện Lang Chánh chúng tôi đi theo đường tuần tra biên giới lên Đồn Biên phòng Bát Mọt, thuộc huyện Thường Xuân. Đường tuần tra biên giới chập chùng uốn lượn giữa núi non, len lỏi giữa màu xanh của rừng. Càng lên hướng Cửa khẩu Khẹo càng có cảm giác đang đi về nơi thâm sơn cùng cốc. Cũng đúng, Bát Mọt là tuyến cuối của dải biên giới xứ Thanh, nơi có cột mốc 378 là nơi tiếp giáp biên giới giữa Thanh Hóa và Nghệ An. Những nơi cuối đất cùng trời bao giờ cũng gợi cho người ta sự rưng rưng về những niềm thương nỗi nhớ.
Xem thêm
Lửa Cát Bi, ngọn trao truyền khí chất Hải Phòng
“Ơi Hải Phòng cửa biển quê hương/ Tổ quốc đang ghi những trang lịch sử/ Của Hải Phòng viết trên sóng bão Thái Bình Dương”. Với vị thế địa lý của Hải Phòng, trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, nơi đây luôn là miền đất tiền tiêu quan trọng, cửa ngõ chiến lược. Bởi kẻ thù thường tiến hành xâm lược Hải Phòng đầu tiên, lấy đó làm bàn đạp để đánh chiếm Thăng Long – Hà Nội. Khi thất bại, chúng cũng thường chọn Hải Phòng là một trong những tuyến đường rút chạy cuối cùng. Hải Phòng là địa phương luôn “đi trước về sau”, có vị trí xứng đáng, giữ vai trò quan trọng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc cũng như các cuộc kháng chiến của cách mạng Việt Nam, xứng đáng với danh hiệu “Thành phố Cảng trung dũng, quyết thắng”.
Xem thêm
Mùi Tết vương dấu chân xa – Tản văn của Đặng Tường Vy
Mỗi độ xuân về, người con xa xứ không tránh khỏi rưng rức, chạnh lòng. Nỗi nhớ trong lòng người tha hương rất lạ: sâu lắng, dịu dàng, chôn kín. Như gái đôi mươi thầm thương trộm nhớ một ai đó, âm thầm, mãnh liệt, nồng nàn,  tha thiết.
Xem thêm
Mùi hương thảo - Tản văn Quốc Tuấn
Chị mười tám, hay hai lăm tuổi. Tôi cũng chẳng biết và không cần biết, chỉ cần trong tôi đã bận lòng trước vẻ đẹp thuần khiết của loài cúc lam đồng thảo ấy. Nơi đáy mắt thể hiện những đốm lửa vui, những nét cong, nếp gấp mong manh nơi khóe miệng, bờ môi thể hiện sự phong phú nơi nhiệt tâm.
Xem thêm
Phép màu đã không đến với chị, chị Hồng Oanh ơi!
Chia sẻ của nhà văn Bích Ngân, Chủ tịch Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh
Xem thêm
Vào vườn hương
Thành phố Cần Thơ đất rộng người thưa không chỉ có gạo trắng nước trong để níu chân người và du khách bốn phương. Tây Đô còn là mảnh đất văn hiến với không hiếm những trang anh hùng hào kiệt yêu nước và nghệ sĩ phong lưu tài hoa nhân cách. Kế thừa truyền thống văn chương của Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa, Huỳnh Mẫn Đạt … và các bậc văn nghệ sĩ đàn anh: Kiều Thanh Quế, Lưu Hữu Phước, Hoài Sơn, Mai Văn Bộ, Trần Kiết Tường, …đã có không ít thế hệ đàn em kế thừa xứng đáng trên lĩnh vực văn học nghệ thuật.
Xem thêm
Suy ngẫm về “chữ” của “một thời vang bóng”_ Tản mạn của Quốc Tuấn
Người xưa, dẫu không biết chữ nhưng khi thấy một mẫu giấy có vết mực sẽ lượm lên, mang về cất giữ. Điều đó thể hiện sự “sùng chữ” (trân trọng giá trị của văn chương, chữ nghĩa) của ông cha. Những người không biết chữ đã biết đối xử với con chữ bằng tấm lòng trân quý như thế, thì dễ hiểu các trí giả đời trước họ sống với chữ nghĩa sâu sắc đến độ nào.
Xem thêm
Má tôi
Bài đăng báo Người Lao động Xuân Giáp Thìn 2024
Xem thêm
Xuân yêu thương - Tết sum vầy
Phút giao thừa, nhìn ngắm dòng người “tống cựu”, “nghinh tân”, cảm nhận trong mắt mỗi người lấp lánh ánh nhìn hạnh phúc, nhất là khi trên bầu trời đêm pháo hoa rực rỡ...
Xem thêm
Ngày cuối năm... - Tản văn Lê Thiếu Nhơn
Kẻ tha phương dù mải mê danh lợi cũng bất giác bần thần trước mênh mông tiếng gọi quê nhà ngày Tết. Tháng Chạp bao giờ cũng vội vàng trong mắt kẻ tha phương. Tháng Chạp bao giờ cũng hấp tấp trong lòng kẻ tha phương. Vì vậy, càng nhiều tuổi, tôi càng thấy sốt ruột khi thời gian nhích dần vào khoảnh khắc tất niên mà mình chưa kịp trở về ngôi nhà thơ ấu.
Xem thêm