TIN TỨC

Thơ Nguyễn Thanh Hải – Chất đồng bằng và những liên tưởng lạ

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
1539 lượt xem

 Vương Huy

Có thể nói thơ Nguyễn Thanh Hải thấm đẫm chất vị đồng bằng và đầy rẫy những liên tưởng lạ. Hình ảnh miền quê luôn trở đi trở về trong thơ anh – những hình ảnh thân thuộc mà khi sống, con người không để ý. Nhà thơ là người gọi sống dậy những hình ảnh, những mảnh hồn quê lẩn khuất. Quê hương như một đề tài của anh. Bên cạnh đó là những cụm từ, những liên tưởng lạ làm mới sự vật vốn dĩ rất quen thuộc. Do đó thơ anh có được một thủ pháp hiện đại khi viết về những đề tài truyền thống.

 

Nhà thơ Nguyễn Thanh Hải 

 

Chất đồng bằng

Dòng sông quê hương luôn chảy trong thơ anh, đem lại màu xanh sóng lúa, với rau nhút dân dã đầy vị miệt vườn quê kiểng. Anh viết:

“hãy bình yên như dòng sông chảy qua non nước nầy

không có biển nhưng màu xanh vẫn biết nói lời sóng lúa

có gì làm chiếc kiềng nữa đâu mà em lần lựa

còn gì quê hương hơn khi về cùng rau nhút làng ao“

Đó là cội mai cũ nở trong chiều vàng gợi nhớ một thời xa lắc, quê hương vẫn còn đây nhưng tất cả đã trở thành hoài niệm:

“gặp cội mai cũ một chùm tứ quý

chợt nhận ra cuộc đời mình đã đi quá xa

mẹ và quê hương chòm xóm đã già

chỉ có hoài niệm là dường như cứ trẻ“

Chén rượu cuộc đời men nồng làm anh cay mắt. Một nỗi buồn cứ dâng lên mỗi chiều và lòng hoài thương về một màu hoa bí:

“dòng sông nào đã trôi đến buồn vui thăm thẳm cõi bờ

lại ở đây không biết buồn hay vui chiều cứ rượu

không lẽ cầm nỗi buồn mình mà đo ra bao nhiêu sào mẫu

lòng thương sao bông bí cứ vàng“

Cái làm nên hồn cốt, phong vị một vùng đất là tôn giáo bản địa. Phật giáo đã thấm nhuần trong hồn người miền Tây. Chính vì thế, nơi đây cuộc sống thanh bình, ít có những thiên tai hay biến động lớn như ở miền ngoài. Phật giáo đã hóa giải hồn người hồn đất:

“không gì vui bằng nghe con đọc vài câu Phật

mẹ nói đọc kinh để biết trả nỗi buồn cho đất

nhưng không phải dễ dàng như bứng cây ngâu từ ngoài vườn lên chậu

con còn đời nên chưa thuộc nổi một câu kinh“

Người miền Tây thường hay uống trà. Chén trà hoài hương như một định mệnh xa xứ đối với anh. Ngồi với bình trà khuya nghe sương rụng:

“giữa phương trời tìm đâu ra tiếng dế

Thì ngó bóng mình bay về núi ngự

Trà cuối năm pha bình viễn xứ

Khoắt khuya trời châm cạn mấy tầng sương“

Mùi khói đốt đồng vương vấn trong anh như một nỗi buồn cố thổ. Ai từng sống ở miền Tây đều như cảm thấy mùi khói ấm nồng quyện vào hơi thở của mình, nên đi xa rất nhớ. Mùi khói đốt đồng trong chiều quê xa lắc:

“ai nhóm đồng mà tôi mờ trong khói

về đây làm kẻ lạc đường

cảm ơn bát bát đã cho mình ấm lại mùi sương

và chút gió rùng mình tháng tám“

Chính hồn sông dáng núi làm nên quê hương, còn trên quê hương đó là lòng người đơn giản chất phác thật thà như tình quê Nam Bộ. Anh viết:

“điều gì khiến hồn sông sâu thẳm

điều gì đã làm nên dáng núi khô khan

đã biết trước lòng người còn nông cạn

sao ngày nầy tháng nầy năm nầy không thiết kế để cần nhau“

Tiếng chuông chùa như thức tỉnh hồn nhân sự, đánh tan những tị hiềm hận thù trong lòng người. Tiếng chuông gột rửa hồn người thanh sạch:

“sau sự ra đi của ngôi chùa già

tiếng chuông lại buồn hơn tiếng chuông chùa trước

đằng sau cây cơm nguội

tôi thấy có giọt sương mù vừa quy y“

Người con vùng đất Vĩnh Hựu đi đâu cũng thấy quê quán trong hồn mình. Cá tính của một vùng quê hằn sâu trong anh. Gò Công là một vùng đất nhiều nhân tài và biển vẫn ru ngàn năm trên đất quê:

“cánh đồng hay cánh võng nghĩ gì

cánh võng đưa nôi cánh đồng ru đàn cò con nằm ngủ

đi đâu về đâu vẫn là mình Vĩnh Hựu

chỉ cần nhắm mắt lại thôi là về tới cội nguồn“

Mùa hoa gợi nhớ, màu hoa gợi nhớ, nhìn hoa mà nhớ người. Anh viết trong màu hoa dung dị:

“tôi đứng bên mùa tỉ muội hoa vàng

thấy thời gian cô đơn trên cỏ

thấy ngọn chướng trở về sau những ngày bạt gió

mây bay ngang trời sao không thấy mẹ tôi hái bông bà tôi hái bông”

Hoa mướp dân dã vẫn nở bên khu vườn thơ ấu. Màu hoa quê hương như gợi nhớ một điều gì xa vắng:

“giấc trưa nào giàn mướp rủ rê tôi

trổ một màu vàng xa vắng

nỗi nhớ đi đâu mà bông keo tròn vừa vặn

bờ ao gầy mưa nắng đã bao phiên“

 

Cách liên tưởng lạ 

Trong thơ Thanh Hải đầy những liên tưởng lạ. Không ai viết như anh. Điều này cho thấy anh có tìm tòi về thủ pháp thể hiện, cách dùng chữ thoát sáo mòn. Chính vì thế đã làm cho thơ anh có chất hiện đại dù anh viết về quê hương xưa cũ. Ở đây ta thấy anh biết kết hợp giữa truyền thống và hiện đại trong tác phẩm để cung hiến cho độc giả một tiếng đờn âm ba dằng dặc. Ví dụ những từ gợi liên tưởng lạ như sau: chiếc lá về hưu, giọt mắt, một nắm mưa trời, nhổ hết nỗi chiều, nằm ru giấc võng, thơm quyết liệt, bảo mật tháng tư, hoàng hôn viễn thị, …

Tóm lại, thơ Thanh Hải là một tiếng thơ đồng bằng có nhiều tìm tòi phát hiện, hồn thơ anh nhuần nhị trong hồn quê. Tuy nhiên, một điều ta nhận thấy : thơ Thanh Hải còn nhiều tản mạn, chưa dứt điểm trong cấu tứ, thiếu hình tượng chủ đạo. Nếu anh dồn tâm sức vào từng bài thơ một thì sẽ tạo ra các tác phẩm hay, không nên dàn trải miên man như thế. Thơ anh là một tiếng thơ có tầm trong khu vực. Chúc anh gặt nhiều thành công trên bước đường sáng tạo.

V.H

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Mấy điều bất thường xung quanh bài thơ “Màu thời gian” của Đoàn Phú Tứ
Không phải vì tác giả là người viết kịch, có duy nhất một bài thơ được chọn vào sách “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh và Hoài Chân, mà bài thơ này có tính bất thường. Trong sách của Hoài Thanh và Hoài Chân có những tác giả sau chỉ có một bài : Thúc Tề, Đoàn Phú Tứ, Vân Đài, Phan Khắc Khoan, Thâm Tâm, Phan Thanh Phước, Hằng Phương, Mộng Huyền. Có hai tác giả được nói đến mà không trích bài nào trọn vẹn là T.T.KH, và Trần Huyền Trân. Vậy thì bài thơ của Đoàn Phú Tứ bất thường ở chỗ nào?
Xem thêm
Tiểu thuyết “Trưng Nữ Vương” – Bản tráng ca về những Nữ Vương đầu tiên của đất Việt
Bà Trưng quê ở Châu Phong,Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên.Chị em nặng một lời nguyền,Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân…(Đại Nam quốc sử diễn ca)
Xem thêm
Về nương bậu cửa kiếm tìm an yên
Bài viết cho cuộc ra mắt tập thơ “Lục bát chân mây” của Võ Miên Trường
Xem thêm
Nguyễn Minh Tâm với ‘Ấm lạnh pháp đình’
Bài viết của nhà văn Nguyễn Văn Hòa
Xem thêm
Bồi hồi, thổn thức, bâng khuâng…
Bài viết cảm nhận của nhà thơ Hoa Ngọc Dung
Xem thêm
Bàn về tính lý luận trong các bài giảng của thầy và bài viết của trò hiện nay
Lý luận văn học Lý luận văn học (LLVH) là bộ môn nghiên cứu văn học ở bình diện lý thuyết khái quát nhằm tìm ra những quy luật chung nhất về văn học. Trong đó bao gồm sự nghiên cứu bản chất của sáng tác văn học, chức năng xã hội-thẩm mỹ của văn học, đồng thời xác định phương pháp lý luận và phân tích văn học. Lý luận văn học tồn tại như một môn học độc lập ở một số trường đại học; nó cũng là một phân môn cho sinh viên và học sinh THPT thế hệ trước. Cho dù độc lập hay là phân môn của môn Ngữ văn thì vai trò của LLVH là vô cùng lớn.
Xem thêm
“Lời của gió” - Lời của nước mắt, nụ cười
Tôi may mắn được người anh, người đồng nghiệp quý mến - Nhà thơ, Nhà báo Trần Thế Tuyển gửi bản thảo trường ca “Lời của gió” với tin nhắn giản dị, mộc mạc “Gửi chú đọc và thẩm cho anh”. Đọc thì đương nhiên rồi, nhưng không dám “thẩm”. Mấy lời sau đây tôi viết với tư cách là bạn đọc, là người em của Nhà thơ Trần Thế Tuyển.
Xem thêm
Không gian thiền tịnh và buông xả trong thơ Nguyễn Thị Sơn
Chùm thơ 4 bài: Thiền, Tịnh, Buông, Nhàn của nhà thơ Nguyễn Thị Sơn đã khái quát một không gian thơ mang tính tâm linh cho riêng mình, ở đó mỗi bài đều chứa đựng những tầng ý nghĩa sâu sắc về tâm trạng và trải nghiệm của con người. Những bài thơ này thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc và trí tuệ, giữa thiên nhiên và tâm hồn. Mỗi bài thơ là một khía cạnh khác nhau của sự tìm kiếm sự an lạc và bình yên trong cuộc sống.
Xem thêm
Dòng sông tâm thức của Elena trong “Hạt bụi lênh đênh”
Trong những câu chuyện đan xen giữa thể loại tùy bút và truyện ngắn và tôi chọn 7 bài viết trong “Hạt bụi lênh đênh” để nói về “dòng sông tâm thức” của Elena đã trải qua .
Xem thêm
Nỗi buồn trổ bông và tình mẹ trong thơ Nguyễn Minh Ngọc Hà
Nguyễn Minh Ngọc Hà sinh năm 1985 tại vùng đất An Sơn thuộc thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương. Nơi đây vốn là chiến khu cách mạng hào hùng trong hai cuộc kháng chiến và là một phần của Vườn trái cây đặc sản Lái Thiêu nổi tiếng. Có lẽ đặc điểm, truyền thống quê hương đã sớm chắp cánh cho hồn thơ của chị. Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, trong đầu cô cựu học sinh lớp chuyên toán của trường trung học phổ thông chuyên Hùng Vương luôn phảng phất âm điệu của thi ca. Sau khi tốt nghiệp chuyên ngành Tài chính - Ngân hàng tại trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh rồi vào làm việc tại một ngân hàng lớn chưa bao lâu, như duyên phận đã định trước, Nguyễn Minh Ngọc Hà “rẽ bước”, chọn nghề tự do để có thời gian dành cho văn chương nghệ thuật
Xem thêm
So sánh bài thơ Cây đánh đu của Lê Thánh Tông và bài thơ Đánh đu của Hồ Xuân Hương
ĐÁNH ĐUTám cột khen ai khéo khéo trồngNgười thì lên đánh kẻ ngồi trôngGiai du gối hạc khom khom cậtGái uốn lưng ong ngửa ngửa lòngBốn mảnh quần hồng bay phấp phớiHai hàng chân ngọc duỗi song songChơi xuân đã biết xuân chăng tá?Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không
Xem thêm
Chân dung đẹp từ nét vẽ của thơ
Nguồn: Thời báo Văn học Nghệ thuật, ngày 22/8/2024
Xem thêm
Nhịp điệu của sức bền
1. Trong nhiều tác phẩm và bài viết trao đổi, Mai Văn Phấn thường nhắc đến quan niệm viết (và sáng tạo nghệ thuật nói chung) như một hành động kiến tạo không gian khác – khác với người khác và khác với chính mình, xem đấy như kim chỉ nam cho quá trình tìm tòi của ông. Đấy là một ý tưởng dễ được chia sẻ (và dễ biến thành các tuyên ngôn to tát) nhưng rất khó để hiện thực hoá, bởi nó buộc người viết phải ý thức đầy đủ về bản chất sáng tạo, biết liên tục đổi mới, hoặc nói cách khác, biết phủ định và tự phủ định. Càng ngày, khi càng đi xa và đạt nhiều thành tựu hơn, Mai Văn Phấn càng thấy rõ áp lực của việc phải khác trong thực hành sáng tạo. Nhưng đồng thời, việc viết trong áp lực (chủ yếu xuất phát từ đòi hỏi của ông với chính bản thân) đã hình thành ở tác giả này một tinh thần và thái độ thực tế mà ta có thể nói đơn giản như sau: muốn viết khác thì phải đọc sâu, đọc rộng. Có lẽ vì vậy, sau nhiều tác phẩm thơ liên tiếp xuất bản trong và ngoài nước, Mai Văn Phấn chọn nhịp bước chậm lại và rẽ sang phê bình với tập Không gian khác (2016) và mới đây nhất, là Nhịp điệu vẽ lối đi (2024).
Xem thêm
Hoa thơm, trái ngọt của lòng yêu thương
Nguồn: Thời báo Văn học - Nghệ thuật số ra ngày 15/8/2024
Xem thêm