TIN TỨC

Thơ Nguyễn Thanh Hải – Chất đồng bằng và những liên tưởng lạ

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2021-11-18 21:30:40
mail facebook google pos stwis
2192 lượt xem

 Vương Huy

Có thể nói thơ Nguyễn Thanh Hải thấm đẫm chất vị đồng bằng và đầy rẫy những liên tưởng lạ. Hình ảnh miền quê luôn trở đi trở về trong thơ anh – những hình ảnh thân thuộc mà khi sống, con người không để ý. Nhà thơ là người gọi sống dậy những hình ảnh, những mảnh hồn quê lẩn khuất. Quê hương như một đề tài của anh. Bên cạnh đó là những cụm từ, những liên tưởng lạ làm mới sự vật vốn dĩ rất quen thuộc. Do đó thơ anh có được một thủ pháp hiện đại khi viết về những đề tài truyền thống.

 

Nhà thơ Nguyễn Thanh Hải 

 

Chất đồng bằng

Dòng sông quê hương luôn chảy trong thơ anh, đem lại màu xanh sóng lúa, với rau nhút dân dã đầy vị miệt vườn quê kiểng. Anh viết:

“hãy bình yên như dòng sông chảy qua non nước nầy

không có biển nhưng màu xanh vẫn biết nói lời sóng lúa

có gì làm chiếc kiềng nữa đâu mà em lần lựa

còn gì quê hương hơn khi về cùng rau nhút làng ao“

Đó là cội mai cũ nở trong chiều vàng gợi nhớ một thời xa lắc, quê hương vẫn còn đây nhưng tất cả đã trở thành hoài niệm:

“gặp cội mai cũ một chùm tứ quý

chợt nhận ra cuộc đời mình đã đi quá xa

mẹ và quê hương chòm xóm đã già

chỉ có hoài niệm là dường như cứ trẻ“

Chén rượu cuộc đời men nồng làm anh cay mắt. Một nỗi buồn cứ dâng lên mỗi chiều và lòng hoài thương về một màu hoa bí:

“dòng sông nào đã trôi đến buồn vui thăm thẳm cõi bờ

lại ở đây không biết buồn hay vui chiều cứ rượu

không lẽ cầm nỗi buồn mình mà đo ra bao nhiêu sào mẫu

lòng thương sao bông bí cứ vàng“

Cái làm nên hồn cốt, phong vị một vùng đất là tôn giáo bản địa. Phật giáo đã thấm nhuần trong hồn người miền Tây. Chính vì thế, nơi đây cuộc sống thanh bình, ít có những thiên tai hay biến động lớn như ở miền ngoài. Phật giáo đã hóa giải hồn người hồn đất:

“không gì vui bằng nghe con đọc vài câu Phật

mẹ nói đọc kinh để biết trả nỗi buồn cho đất

nhưng không phải dễ dàng như bứng cây ngâu từ ngoài vườn lên chậu

con còn đời nên chưa thuộc nổi một câu kinh“

Người miền Tây thường hay uống trà. Chén trà hoài hương như một định mệnh xa xứ đối với anh. Ngồi với bình trà khuya nghe sương rụng:

“giữa phương trời tìm đâu ra tiếng dế

Thì ngó bóng mình bay về núi ngự

Trà cuối năm pha bình viễn xứ

Khoắt khuya trời châm cạn mấy tầng sương“

Mùi khói đốt đồng vương vấn trong anh như một nỗi buồn cố thổ. Ai từng sống ở miền Tây đều như cảm thấy mùi khói ấm nồng quyện vào hơi thở của mình, nên đi xa rất nhớ. Mùi khói đốt đồng trong chiều quê xa lắc:

“ai nhóm đồng mà tôi mờ trong khói

về đây làm kẻ lạc đường

cảm ơn bát bát đã cho mình ấm lại mùi sương

và chút gió rùng mình tháng tám“

Chính hồn sông dáng núi làm nên quê hương, còn trên quê hương đó là lòng người đơn giản chất phác thật thà như tình quê Nam Bộ. Anh viết:

“điều gì khiến hồn sông sâu thẳm

điều gì đã làm nên dáng núi khô khan

đã biết trước lòng người còn nông cạn

sao ngày nầy tháng nầy năm nầy không thiết kế để cần nhau“

Tiếng chuông chùa như thức tỉnh hồn nhân sự, đánh tan những tị hiềm hận thù trong lòng người. Tiếng chuông gột rửa hồn người thanh sạch:

“sau sự ra đi của ngôi chùa già

tiếng chuông lại buồn hơn tiếng chuông chùa trước

đằng sau cây cơm nguội

tôi thấy có giọt sương mù vừa quy y“

Người con vùng đất Vĩnh Hựu đi đâu cũng thấy quê quán trong hồn mình. Cá tính của một vùng quê hằn sâu trong anh. Gò Công là một vùng đất nhiều nhân tài và biển vẫn ru ngàn năm trên đất quê:

“cánh đồng hay cánh võng nghĩ gì

cánh võng đưa nôi cánh đồng ru đàn cò con nằm ngủ

đi đâu về đâu vẫn là mình Vĩnh Hựu

chỉ cần nhắm mắt lại thôi là về tới cội nguồn“

Mùa hoa gợi nhớ, màu hoa gợi nhớ, nhìn hoa mà nhớ người. Anh viết trong màu hoa dung dị:

“tôi đứng bên mùa tỉ muội hoa vàng

thấy thời gian cô đơn trên cỏ

thấy ngọn chướng trở về sau những ngày bạt gió

mây bay ngang trời sao không thấy mẹ tôi hái bông bà tôi hái bông”

Hoa mướp dân dã vẫn nở bên khu vườn thơ ấu. Màu hoa quê hương như gợi nhớ một điều gì xa vắng:

“giấc trưa nào giàn mướp rủ rê tôi

trổ một màu vàng xa vắng

nỗi nhớ đi đâu mà bông keo tròn vừa vặn

bờ ao gầy mưa nắng đã bao phiên“

 

Cách liên tưởng lạ 

Trong thơ Thanh Hải đầy những liên tưởng lạ. Không ai viết như anh. Điều này cho thấy anh có tìm tòi về thủ pháp thể hiện, cách dùng chữ thoát sáo mòn. Chính vì thế đã làm cho thơ anh có chất hiện đại dù anh viết về quê hương xưa cũ. Ở đây ta thấy anh biết kết hợp giữa truyền thống và hiện đại trong tác phẩm để cung hiến cho độc giả một tiếng đờn âm ba dằng dặc. Ví dụ những từ gợi liên tưởng lạ như sau: chiếc lá về hưu, giọt mắt, một nắm mưa trời, nhổ hết nỗi chiều, nằm ru giấc võng, thơm quyết liệt, bảo mật tháng tư, hoàng hôn viễn thị, …

Tóm lại, thơ Thanh Hải là một tiếng thơ đồng bằng có nhiều tìm tòi phát hiện, hồn thơ anh nhuần nhị trong hồn quê. Tuy nhiên, một điều ta nhận thấy : thơ Thanh Hải còn nhiều tản mạn, chưa dứt điểm trong cấu tứ, thiếu hình tượng chủ đạo. Nếu anh dồn tâm sức vào từng bài thơ một thì sẽ tạo ra các tác phẩm hay, không nên dàn trải miên man như thế. Thơ anh là một tiếng thơ có tầm trong khu vực. Chúc anh gặt nhiều thành công trên bước đường sáng tạo.

V.H

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm