TIN TỨC

Về cuốn hồi ký ‘Gánh gánh gồng gồng’ của Xuân Phượng

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2021-12-19 22:13:52
mail facebook google pos stwis
10643 lượt xem

Nguyễn Thị Việt Nga

Tôi sinh ra sau chiến tranh. Bố tôi là một thương binh, một người lính cụ Hồ, từng hành quân qua dãy Trường Sơn, chiến đấu ở nhiều mặt trận phía Nam, để lại một phần xương máu nơi chiến trường và “suýt thành liệt sỹ” mấy lần, theo cách nói của bố.

Từ nhỏ xíu, những câu chuyện tôi thường được nghe bố kể nhất là chuyện chiến đấu. Rất chi tiết và sinh động.

Tuy vậy, chiến tranh, đối với lớp hậu sinh như tôi, vẫn chỉ là một khái niệm nằm im trong sách vở. Lớp lên chút nữa, không hiểu sao tôi rất ham tìm đọc những cuốn sách viết về chiến tranh, nhất là chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ của Việt Nam; từ sách văn học đến sách lịch sử. Tốt nghiệp Đại học năm 1998, tôi làm luận văn về tập thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu, một tập thơ ra đời trong chiến tranh, với các bài thơ chủ yếu về đề tài chiến tranh. Luận văn thạc sỹ năm 2008 của tôi nghiên cứu về Nhật ký chiến trường của những người lính Việt Nam trong cuộc chiến tranh vĩ đại của dân tộc để bảo vệ Tổ quốc, tiêu biểu như Nguyễn Văn Thạc, Đặng Thùy Trâm, Hoàng Thượng Lân… Rồi khi làm luận án Tiến sỹ, tôi cũng chọn mảng văn học ra đời trong chiến tranh: văn học các vùng đô thị miền Nam giai đoạn 1954 – 1975. Tâm trạng con người trong chiến tranh, thân phận con người và những dằn vặt, đau đớn khi đối diện với sự hủy diệt bạo tàn; sức mạnh tinh thần lớn lao nào khiến con người có thể vượt qua tất thảy mọi gian nguy để chiến thắng… Tất cả những điều đó sẽ hiện lên chân thực nhất trong tiếng nói của người trong cuộc, để thế hệ hậu chiến như chúng tôi có được cái nhìn công bằng và sâu sắc về lịch sử.

“Gánh gánh gồng gồng”, cuốn hồi ký của đạo diễn Xuân Phượng là “tiếng nói của người trong cuộc”; một cuốn sách làm tôi thực sự cảm thấy đau tim khi đọc, đến nỗi có những trang phải ngừng lại giữa chừng, không dám đọc tiếp.

Nhưng đó là nỗi đau rất đỗi ngọt ngào.


Hồi ký “Gánh gánh… gồng gồng…” của đạo diễn Xuân Phượng.

Cuốn sách là chuỗi ký ức của tác giả từ lúc ấu thơ cho đến hiện tại, trải mấy chục năm, từ những năm 1930, khi Xuân Phượng còn là một cô bé hơn chục tuổi sống yên ấm trong vòng tay cha mẹ cho đến hôm nay, khi bà đã trả qua đủ mọi cung bậc cuộc đời, từ những cay đắng, cơ cực gian nguy nhất, đến những ngọt ngào, những thành công vang dội cả trong sự nghiệp lẫn cuộc sống cá nhân. Thông thường, khi đến với thể loại rất riêng tư là hồi ký hay nhật ký, người đọc thường có nhu cầu tìm hiểu về đời sống, tâm trạng của một cá nhân cụ thể; và người viết cũng muốn tâm sự, thổ lộ những điều riêng tư, thậm chí cả những góc khuất chưa ai nhìn thấy trong cuộc sống của mình, như một nhu cầu tự thân thôi thúc: nhu cầu được bộc bạch và chia sẻ. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở đó, hồi ký hay nhật ký mới chỉ thỏa mãn được tâm lý hiếu kỳ ở một số ít độc giả. Giá trị của hồi ký, nhật ký nằm ở việc qua số phận, tâm trạng, cuộc sống của một cá nhân cụ thể phản chiếu cuộc sống, tâm trạng, số phận cả cả một tầng lớp, một giai cấp, một dân tộc, để qua đó toát lên những triết lý, những bài học nhân sinh sâu sắc. Và “Gánh gánh gồng gồng” đã làm được điều đó một cách tự nhiên, dung dị, chân thực.

Cho đến tận giờ, chiến tranh đã lùi xa gần nửa thế kỷ nhưng nhắc đến Việt Nam, rất nhiều bạn bè quốc tế vẫn ngỡ ngàng, khâm phục trước kỳ tích chiến thắng của Việt Nam trong cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ vĩ đại bảo vệ tổ quốc. Ngỡ ngàng, khâm phục vì không hiểu tại sao một dân tộc nhỏ bé (theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng), còn rất nghèo nàn và lạc hậu lúc bấy giờ lại có thể chiến thắng vẻ vang trước hai đối thủ mạnh bậc nhất toàn cầu. Tôi nghĩ, câu trả lời có đầy đủ trong cuốn hồi ký của Xuân Phượng. Nguyên do việc công bố cuốn sách này, như bà bộc bạch ngay từ đầu sách: “Tôi mong muốn gia đình thương yêu hiểu rõ thêm những gì tôi đã trải qua. Và cũng vì những người trẻ chưa hề biết đến chiến tranh, tôi quyết định viết lại ĐỜI TÔI”.


Đạo diễn Xuân Phượng.

Tôi đã tiếp cận hồi ký “Gánh gánh gồng gồng” đúng như mong muốn của tác giả: một người chưa hề biết đến chiến tranh, tìm hiểu về cuộc chiến, về đất nước, về những người “đã làm ra đất nước” từ trong lửa đạn, trong muôn vàn cơ cực, đắng cay và xương máu. Chiến tranh dẫu nổ ra ở bất cứ đâu, vì bất cứ lý do gì, cũng đều mang đến bi kịch cho tất cả mọi bên liên quan, mọi người liên quan. Bản chất của chiến tranh là bi kịch, khi con người không thể sống với nhau một cách ôn hòa. Bi kịch của Xuân Phượng và gia đình bà được tái hiện trong hồi ký bằng những lời kể thủ thỉ, nhẹ nhàng nhưng chứa đựng nỗi đau xé ruột. Đó là bi kịch của một gia đình bị xé nát bởi chiến tranh. Có sự tan đàn xẻ nghé do loạn lạc, mỗi người một nơi, không biết những thân yêu, ruột thịt của mình sống chết thế nào; nhưng đỉnh cao của bi kịch chưa phải là chuyện tan đàn xẻ nghé, mà là chuyện lòng người ly tán. Cô bé Xuân Phượng sinh ra trong một gia đình quyền quý, có tuổi thơ êm đềm, đẹp đẽ và đầy đủ với người cha là “Thanh tra Học chính kiêm Hiệu trưởng trường tiểu học duy nhất bấy giờ ở Đà Lạt”, ông nội là “quan triều đình Huế”. Thế nhưng những êm đềm đó không kéo dài. Cuộc sống cơ cực, lầm than của những người làm thuê cho gia đình cô bé Xuân Phượng trái ngược với cuộc sống nhung lụa cô đang hưởng; thái độ của cô bạn người Pháp thân thiết trong ngôi trường Pháp khi đang giờ chào cờ, cô bạn chạy ra đạp lên bóng lá cờ An nam và nói những câu miệt thị đã khiến trong trí óc non nớt của Xuân Phượng vỡ ra những cảm nhận đầu tiên về cuộc sống: “tôi lờ mờ nhận thấy rằng cuộc sống của mình, của gia đình mình không êm đềm, nhẹ nhàng và vô tư như mình tưởng” (tr22).

Những êm đềm, nhẹ nhàng, vô tư ấy chấm dứt khi Xuân Phượng quyết định xếp bút nghiên để theo Cách mạng, dưới sự dẫn dắt của người dượng, bắt đầu bằng việc mang truyền đơn trong cặp sách, qua mặt “những tên lính Nhật đang bồng súng, hằm hằm xét người qua lại”. Cô nữ sinh trường Khải Định ấy chỉ có một nguyện vọng lớn lao nằm trong bảy chữ “giành độc lập cho đất nước”, sẵn sàng rời bỏ gia đình – một gia đình có gốc gác đại triều, bố đang thân Pháp.

Bi kịch sâu của chiến tranh là đấy! Là chuyện lòng người ly tán. Để rồi cả nửa thế kỷ sau, khi Xuân Phượng gặp lại mẹ mình, người mẹ vẫn đau đáu một câu hỏi tái tê: “Con ơi, sao con theo họ làm chi, để gia đình ly tán, phải rời quê cha, đất tổ con ơi” (tr11). “Theo họ”, nghĩa là theo Cộng sản, theo Cách mạng. Nếu cứ yên phận dưới cuộc sống của một tiểu thư, chắc chắn cuộc đời Xuân Phượng đi theo hướng khác, không có những thác ghềnh, cay đắng, không vào sinh ra tử long đong.

Một gia đình nhưng có những con người ở hai chiến tuyến khác nhau. Chọn một con đường đầy chông gai, xương máu để sống theo lý tưởng, cô tiểu thư Xuân Phượng đã phải đánh đổi quá nhiều, phải bước hẳn khỏi mái ấm gia đình, dẫu cho người mẹ của cô đã tìm đến tận nơi con gái mình đang hoạt động cách mạng để khóc, để khuyên con quay trở về. Nhưng “dù rất thương mẹ, thương em, tôi đã chọn con đường tự nguyện đi vào hoạt động chống xâm lược Pháp” (tr 33). Đó mới là bi kịch lớn nhất mà chiến tranh trùm lên thân phận con người, chứ không phải chuyện đổ máu, hy sinh.

Theo dòng hồi ký, từng giai đoạn cuộc đời của tác giả hiện lên ám ảnh. Giai đoạn nào cũng có những chi tiết tạo nên dư chấn mạnh mẽ trong lòng độc giả. Đó là chuyện tình yêu trong chiến tranh, dù rất ngất ngây với tình cảm đầu đời, nhưng khi người yêu đắn đo “gia đình con một, thầy mẹ anh không muốn cho anh thoát ly gia đình” thì Xuân Phượng đã nuốt nước mắt “tiếp tục đi theo Đoàn Tuyên Truyền Kháng Chiến, tiếp tục chọn con đường thoát ly gia đình”. Một lần nữa, lòng người ly tán!

Đó là lần sinh con đầu lòng của Xuân Phượng giữa rừng núi hoang vu, cô độc, thiếu thốn, hiểm nguy: “một mình tôi nằm lại trên con đò rách nát với hai vợ chồng người chèo đò đã lớn tuổi (…) Năm ấy hai mươi tuổi đầu, đẻ con so, xung quanh không có ai. Tôi muốn chết. (…) Tiếng khóc oe oe vang lên giữa sông. Đứa con đầu lòng của tôi. Bác lái đò bẻ một mảnh nứa trên mui đò cắt rốn cho con tôi” (tr71).

Đó là chuyện Xuân Phượng mò mẫm đỡ đẻ cho một sản phụ trong lòng địa đạo Vĩnh Linh, một “mê cung trong lòng đất” với “bóng tối mịt mùng vây quanh” và tiếng khóc đau đớn, tuyệt vọng của người phụ nữ sinh con lần đầu trong hoàn cảnh không thể ngặt nghèo hơn, giữa mưa bom bão đạn: “đỡ đẻ không đèn, không phương tiện cấp cứu, không nhìn rõ mặt sản phụ”. Nhưng rồi vượt lên tất cả những éo le, khốc liệt ấy “bật vang lên tiếng khóc oe oe của đứa trẻ sơ sinh, hòa với tiếng khóc nức nở của người cha” (tr 158). Sự sống bật mầm kiên cường ngay ở nơi tưởng như chỉ có đổ máu và cái chết đang rình rập từng giây. Sức mạnh Việt Nam, ý chí Việt Nam là thế!

Đó còn là hình ảnh một em bé Vĩnh Linh chín tuổi, hồn nhiên ngồi trên đầu xe tải với đồ chơi là một khẩu súng thật: “dáng người đậm, chắc, da nâu đen, không để ý gì đến chúng tôi, em đang tháo lắp thành thạo một khẩu súng AK” (tr164). Chính cậu bé bé xíu có ”hai chiếc răng khểnh làm lộ một nụ cười dễ thương” ấy đã “giúp bộ đội đặc công phá được một sân bay trực thăng” với cái cách cũng hồn nhiên, thơ trẻ vô cùng: “Các chú bộ đội muốn phá sân bay trực thăng, cháu liền cùng với hai bạn khác đi vào khu vực sân bay giả đò chơi đánh khăng. Thân của cây khăng dài đúng một mét. Bọn cháu đánh ra xa rồi đo, đo từ đầu đến cuối sân bay, cả chiều dọc lẫn chiều ngang rồi về báo với các chú bộ đội. Bọn Mỹ không nghi ngờ chi hết. Sau đó các chú bộ đội tính toán và bắn pháo cối vào chính xác, phá nát cân bay. Cháu được tặng Dũng sĩ diệt Mỹ” (tr 164, 165)…

Cuộc đời Xuân Phượng với nhiều ngả rẽ bất ngờ, từ khi làm thành viên của Đoàn Tuyên Truyền Mặt trận khu C, sang Quân Y Vụ Liên Khu 4, làm chế tạo thuốc nổ, làm báo Công Tác Thóc Gạo, làm Trưởng phòng khám Nhi khu Ba Đình, tháp tùng đoàn làm phim nước ngoài vào mặt trận, trở thành đạo diễn phim…vv. Ở bất cứ “khúc quanh” nào, ngành nghề nào, bà cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình, kể cả những lúc do bất đắc dĩ mà “mang lấy nghiệp vào thân” chứ không còn sự chọn lựa nào khác. Điều này vừa cho thấy sự ‘đa tài, đa ứng biến” trong con người bà, vừa thể hiện được gương mặt của cả dân tộc trong những năm tháng khói lửa chiến tranh: luôn luôn nỗ lực, luôn luôn ứng biến, chịu đựng được tất cả mọi hiểm nguy gian khó, kiên cường và mạnh mẽ tồn tại để vươn lên và chiến thắng. Đó là “qua một giọt nước nhìn thấy cả đại dương mênh mông”.

Giá trị của “Gánh gánh gồng gồng”, như tôi đã nói, là vượt lên trên những tự sự, ghi chép về cuộc đời của một cá nhân cụ thể để soi chiếu một cách chân thực, sinh động và sáng rõ gương mặt của cả dân tộc, cả Tổ quốc trong những thời kỳ lịch sử đáng nhớ nhất. Bởi thế, song hành với sự ngưỡng mộ, cảm phục tài năng, nhân cách, ý chí nỗ lực của nghệ sỹ Xuân Phượng là niềm tự hào, hân hoan, là những khâm phục đến kinh ngạc đối với thế hệ cha anh – những người viết tên Tổ Quốc lên bản đồ thế giới bằng mồ hôi, xương máu của chính mình.

Là đạo diễn phim tài năng, nên hồi ký “Gánh gánh gồng gồng” của Xuân Phượng cũng được kết cấu như những thước phim đầy ám ảnh, có chồng mờ, có đan cài ký ức – hiện tại, có điểm, có diện. Ngôn ngữ văn chương của bà cũng như ngôn ngữ điện ảnh, kiệm lời, kiệm chi tiết mà đầy sức nặng, có những hiệu ứng “tạo sốc” – những cú sốc thẩm mĩ đáng nhớ. Cả cuốn hồi ký cũng chính là một cuốn phim tư liệu với ngồn ngộn chi tiết có thể người đọc chưa gặp trong bất cứ cuốn sách nào. Những tư liệu vô cùng quý giá, đặc biệt là về chuyện ngành làm phim Việt Nam ra đời, trưởng thành trong chiến tranh như thế nào, tình cảm của những nhà làm phim, những nghệ sỹ thế giới đối với Việt Nam trong những tháng năm lửa đạn; sự đùm bọc đầy cảm động và những ân tình sâu nặng của các văn nghệ sỹ thời bao cấp khốn khó đủ đường…

Đọc xong cuốn hồi ký này, tôi rất tin, tất cả bạn đọc, cũng như tôi, đều cảm thấy trân trọng hơn những tháng ngày mình đang sống, trân trọng hơn những gì mình đang có trong tay, yêu Tổ quốc hơn, yêu những con người thân yêu quanh mình hơn, và vì thế sẽ nỗ lực để sống tốt hơn, đẹp hơn. Và điều quan trọng nữa là có thêm động lực để biết cách vượt qua tất cả mọi trở ngại trong cuộc sống!

Như thế đã đáng để bạn tìm đến “Gánh gánh gồng gồng” chưa?

Hải Dương, 27/5/2021
N.T.V.N

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm