TIN TỨC

Vọng âm buồn | Hoàng Phủ Ngọc Phan

Người đăng : vctphcm
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
189 lượt xem

Thứ thanh nhạc mà tôi được nghe nhiều nhất từ nhỏ đến lớn là tiếng chim. Đó cũng là thứ âm nhạc dễ chịu nhất thấm vào tâm hồn tôi, ngọt lành như những giọt mưa  thấm vào lòng đất. Có lẽ lịch sử âm nhạc của loài người từ Đông sang Tây cũng đều đã được hình thành từ những nốt nhạc của vô số loài chim vốn thường định cư bên cạnh đời sống của loài người.

Gần gũi nhất là tiếng gà, được ví như là loại đồng hồ cầm canh báo thức, nhưng tiếng gà gáy có hồn chứ không chát chúa như tiếng chuông bằng kim loại hay khô khốc như tiếng mõ bằng gỗ.

Mỗi lần nắng mới hắt bên song

Xao xác gà trưa gáy não nùng...

(Lưu Trọng Lư)

Tiếng gà gáy nghe chuyền đêm ngày trong thôn xóm cho ta cảm giác về một vùng quê yên lành sung túc. Cảm giác ấy lớn lên nhiều lần thành sức sống của đất nước và con người trong những câu thơ sau đây của Huy Cận:

Núi Tản như con gà cổ đại

Khổng lồ, mào đỏ thắp bình minh

Mênh mông gọi nắng cho mùa chín

Từ thuở Sơn tinh thắng Thủy tinh.

Có những cô gái mang tên Sơn Ca nhưng dám chắc cả đời chưa hề thấy con chim này. Tôi cũng chưa từng thấy, nhưng thỉnh thoảng tôi có được nghe tiếng hót của nó - không phải trên cành cây, trên mặt đất mà giữa lưng trời khi con chim nào đó bay vút lên như pháo thăng thiên. Trong bài thơ Thăm lúa của Trần Hữu Thung, chim sơn ca được gọi là chim chiền chiện:

Mặt trời càng lên tỏ

Bông lúa chín thêm vàng

Sương treo đầu ngọn cỏ

Sương lại càng long lanh

Bay vút tận trời xanh

Chiền chiện cao tiếng hót

Tiếng chim nghe thánh thót

Vang vẳng khắp cánh đồng...

Nghe thật là sảng khoái, cả chim cả người đều tràn đầy sức sống. Mà sức sống ấy rất cần cho các lực lượng nhân dân đang sản xuất và chiến đấu. Có lẽ vì thế mà bài thơ với lời lẽ mộc mạc tự nhiến của Trần Hữu Thung đã được nhiều giải thưởng trong các cuộc liên hoan Thơ trong và ngoài nước thời kháng chiến chống Pháp.

Bà huyện Thanh Quan cũng gửi gắm tâm sự của mình vào loài chim quen thuộc:

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

Và trong thơ Nguyễn Khuyến:

Năm canh máu chảy đêm hè vắng,

Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ,

Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,

Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ.

Cũng tiếng kêu của loài chim ấy, nếu trong thơ của Bà huyện Thanh Quan chỉ là chút lòng hoài vọng một triều đại đã suy tàn, thì trong thơ Nguyễn Khuyến là máu và nước mắt của người dân mất nước.

Trong quyển sách biên khảo Văn minh Việt Nam, nhà nghiên cứu Hoàng Trọng Miên có bài nói về một loài chim mạn ngược. Nhà văn Nguyễn Đình Thi gọi tên chim ấy là từ quy.

Lòng ta vẫn ở trên Tây Bắc

Những đêm thao thức tiếng Từ quy

(Quê Hương Việt Bắc - 1950)

Trong bài chào mừng đại hội các nhà văn Liên Xô mà ông được mời tham dự năm 1967, Nguyễn Đình Thi đã giới thiệu với các nhà văn nước bạn: “Ở miền rừng núi chúng tôi, có một giống chim gọi là từ quy. Các ông bà già bảo rằng có đôi người yêu ngày xưa bị kẻ gian ác ngăn cấm không lấy được nhau, đã hóa thành giống chim ấy. Cho nên đến tận bây giờ, cứ đêm đêm người ta nghe thấy những con chim từ quy gọi nhau từng đôi, một con ở đầu núi này, một con ở đầu núi khác, suốt đêm đôi chim tìm gọi nhau cho đến sáng, có lẽ chúng đã gặp được nhau nên mới hết kêu..

Tu hú là loài chim bị mang nhiều tai tiếng, nhưng tiếng chim tu hú lại rất xao xuyến lòng người:

Tu hú!Tu hú!

Hôm nay hú về

Nhớ chăng hỡi hú

Ai đã năm xưa

Lên đường tòng ngũ

Trả nợ máu đào

Đền ơn nước tổ...

Đồng bào ở miền sông nước cũng rất nhạy cảm và đồng điệu với tiếng hót quen thuộc của những loài chim gắn bó với nhịp sống thường ntgày trên quê hương mình:

Gió nhớ thướng ai mà lay bờ lá

Để bìm bịp kêu con nước lớn ròng...

(Hoài Vũ - Gửi miền Hạ)

Hoặc

Chiều chiều chim  vịt kêu chiều

Bâng khuâng nhớ mẹ,chín chìu ruột đau... (Ca dao)

Thực ra chim vịt không chỉ sống ở miền hạ bạc mà lang bạt như dân du cư khắp đất nước, nơi nào cũng có thể nghe tiếng hót của nó. Tiếng hót ấy là một chuỗi dài những nốt nhạc không lời: Vit!Vít!Vit!Vit!-Vitvitvitvit... Thời chiến tranh Việt - Pháp ở Đông Dương, những người lính Pháp xa nhà có tâm sự phản chiến đã đặt lời Pháp cho những nốt nhạc ấy như sau: “Père,mère,frères... tous en périls – (Cha, mẹ, anh, em đều lâm nguy). Người Việt cũng đặt lời tương tự: “Chết!Chết!Chết Chết! - Chếtchếtchếtchết... Vì vậy chim Vịt còn được gọi là Con chim chiến tranh.

Có một loài chim mang rất nhiều tên. Tùy lúc, tùy nơi, tên của nó được chế tác dựa vào những sự kiện văn hóa lịch sử của địa phương ấy.

Trong ca khúc Hò leo núi, nhạc sĩ Phạm Đinh Chương gọi nó là chim Bắt cô trói cột hay còn gọi là Năm con sáu cột. Chuyện kể rằng xưa có cô gái nghèo bị mẹ ghẻ hành hạ, bắt chăn trâu. Chăn năm con nhưng trong chuồng lại có đến sáu cái cọc buộc trâu. Mẹ ghẻ lấy cớ cho rằng cô làm mất một con trâu nên trói cô vào cái cột thứ sáu, bỏ đói cho  đến chết. Sau khi chết cô gái hóa thành loài chim bay khắp núi rừng kêu oan cho mình...

Thời xưa, trai tráng trong nước phải có nghĩa vụ đi lính thú:

Nàng về nuôi cái cùng con

           Để anh try thú nước non Cao Bằng... (Ca dao)

Tiếng chim Bắt cô trói cột được những người lính thú đời xưa nhại là “Cao Bằng nước độc”.

Năm 1888,vua Hàm Nghi bị giặc Pháp bắt đi đày, Phong trào Cần Vương tan rã. Tên của con chim được những người yêu nước đau lòng gọi là “Ôi thôi rồi cơ cuộc”.

Khoảng những năm từ 1906 đến 1908, ở Trung Kỳ có phong trào chống sưu thuế kết hợp với cuộc vận động nếp sống mới của phong trào Duy Tân. Muốn duy tân thì trước tiên và dễ dàng nhất là phải cắt bỏ búi tóc dài để tóc ngắn. Có bài thơ tuyên truyền cổ động như sau:  

      Tay trái cầm lược

Tay phải cầm kéo

Húi hề! Húi hề!

Thủng thẳng cho khéo

Bỏ cái ngu mầy

Bỏ cái dại mầy

Cho khôn cho mạnh...

Các đoàn người cắt tóc ngắn biểu tình, bao vây nhiều công sở, dinh thự của bọn thực dân Pháp và quan lại tay sai. Bọn chúng gọi phong trào nầy là loạn đầu bào. Chúng ra tay đàn áp, bắn giết, bắt bớ, lưu đày nhiều người. Từ biến cố này, đồng bào miền Trung gọi tên con chim nói trên là Tóc dài tóc cụt.

Năm Ất Dậu,từ khoảng 1944 - 1945, ở Việt Nam có nạn đói làm chết gần 2 triệu người. Tên của con chim được gọi là “Cơm còn cho cục - Hai loong ba hột”.

Thời chín năm kháng chiến chống Pháp, chim lại được đổi tên là Khó khăn khắc phục.

Ở vùng Quảng Trị - Thừa Thiên, chim này lại có một biến tấu là Ơi đò Ca Cút. Chuyện kể về mối tình dang dở của một đôi lứa yêu nhau. Nàng là cô lái chuyên đưa người qua về trên bến đò Ca Cút. Chàng là khách qua đò. Họ yêu nhau,thề non hẹn biển. Nhưng chàng đi chinh chiến nhiều năm không về. Nàng ôm lòng kiên trinh chờ đợi. Rồi một hôm giặc tràn vào thôn xóm, nàng bị giặc bắt trói vào gốc cây và hãm hiếp đên chết. Hồn oan của cô gái nhập vào một loài chim có tiếng kêu nghe như Ơi đò Ca Cút... Đến khi tan giặc chàng trở về bến cũ, gọi đò mãi mà không thấy bóng người xưa. Chỉ nghe đâu đó, vang vọng tiếng chim kêu: Ơi đò Ca Cút.

Người dân Quảng Trị có câu hát ru nói về sự tích này như sau:

Ngày đi trăm nỗi hẹn hò

Ngày về vắng bóng con đò bến xưa.

Ngoài ra còn có câu tục ngữ: “Kêu như kêu đò Ca Cút” - ý nói kêu ai hoài mà không nghe trả lời.

Chuyện tình nói trên là một mô thức khá quen thuộc trong văn học Việt Nam. Đó là bi kịch lứa đôi trong chiến tranh và hòa bình. Hình ảnh chinh phu và chinh phụ thường là nhân vật chính trong các tác phẩm từ cổ điển đến hiện đại như: Chuyện cổ tích Thiếu phụ Nam Xương, Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn, ca khúc Hòn vọng phu của Lê Thương hay chuyện tình có thực trong bài thơ Màu tím hoa sim của Hữu Loan. Giới nghiên cứu ở Huế đã truy đến cùng cái địa danh bến đò Ca Cút và xác định bến đò này là có thực và thuộc thuộc làng Vĩnh Trị, xã Hải Dương (thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế) đưa người qua phá Tam Giang, bên kia là cồn mồ làng Vân Quật Đông (xã Hương Phong cùng thị xã Hương Trà).

Năm 2010, chính quyền Thừa Thiên – Huế khánh thành một công trình phúc lợi quan trọng là cây cầu băng qua phá Tam giang. Cầu vừa dài vừa rộng lại rất đẹp, mặc nhiên xóa luôn bến đò Ca Cút ngày xưa. Tiếng kêu của loài chim từng đồng hành với lịch sử dân tộc trong suốt một thế kỷ và trên quá nửa chiều dài đất nước từ nay đến chỗ đầu cầu này là bặt tiếng. Trải qua những cuộc bể dâu hình như loài chim này không còn cảm thấy an toàn bên cạnh đời sống con người nên đã bay đi tìm những miền đất hứa nào đó và tiếng kêu của nó từng là thứ thanh nhạc xao xuyến trong tôi suốt thời trai trẻ giờ đây chỉ còn là những vọng âm buồn.

H.P.N.P

Bài viết liên quan

Xem thêm
Sức quyến rũ của sự chân thành
16 giờ ngày 14.4.2024, Nhà xuất bản Hội Nhà văn tổ chức buổi gặp gỡ giao lưu giữa tác giả - Tiến sĩ Lê Kiên Thành (con trai cố Tổng bí thư Lê Duẩn)
Xem thêm
Sông chảy bên đời – Tuỳ bút của Nguyễn Thị Thu Thủy
Một đời người đã đi qua biết bao dòng sông, bao nhiêu ngã rẽ, khúc cua; mỗi dòng sông đều để lại bao luyến lưu, vương vấn, để lại những kí ức luôn tươi xanh mỗi khi nhớ về. Sông vẫn cứ chảy như thời gian trôi đi mải miết vì vậy “không ai tắm hai lần trên một dòng sông”.
Xem thêm
Rặng Diên Vĩ - Tản văn của Quốc Tuấn
Gió vẫn thổi, mái tóc thơm tuột khỏi giây buộc, quấn quanh đầu như vòng hoa nâu thẫm, vô tình quất bỏng môi người. Mùi hương đó, quen quá. Mùi tóc mẹ, hương quê vị quán. Tựa như làn nước lung linh, hơi thở chị uyển chuyển theo nhịp điệu không gian. Đôi mắt và đôi môi vẫn mỉm cười nhưng đã có chút tiếc nuối. Chính nỗi buồn ẩn chứa trên khuôn dung đã khiến chị trở nên hấp dẫn, pha lẫn sự hồn nhiên, ngây thơ tạo nên một tổng thể đẹp đến khó tin.
Xem thêm
Trần Bảo Định - Thú thưởng ngoạn văn chương qua tác phẩm “Đọc thơ bạn”
Có thể nói Trần Bảo Định là một hiện tượng văn học Việt Nam hiện đại: Chỉ trong vòng khoảng hơn 10 năm trở lại đây, từ khi về hưu anh đã cho ra đời 6 tập thơ, hơn 10 tập tản văn, truyện ngắn và 3 tập tiểu luận phê bình trong khi phải chống chọi với căn bệnh ung thư quái ác...
Xem thêm
Canh cá rô đồng – Tản văn của Châu Duyên
Tôi biết về món canh cá rô đồng đã lâu theo lời kể của cô bạn đang ở thành phố mang tên Bác, toàn những tin nhắn như là: Ê! Trưa nay tớ đang ăn canh cá rô đồng nè.
Xem thêm
Sài Gòn như nhà, như mẹ, như quê… – Tản văn của Triệu Vẽ
Ở Sài Gòn, không có ranh giới trọng khinh giữa dân “Sài Gòn” hay dân “tỉnh lẻ”, dân “phố” hay dân “phèn”. Trong huyết quản sâu xa của người Sài Gòn có ruộng đồng, bờ bãi, con trâu, con gà.
Xem thêm
Ơi mùa hoa ban! – Bút ký của Nguyễn Huy Bang
Chiếc máy bay VJ 299 từ Tân Sơn Nhất (sau 2 giờ 5 phút) bay qua không phận 3 nước.
Xem thêm
Tháng Ba hoa gạo – Tản văn của Bằng Lăng Tím
Đào phai, mai vàng là sự kì diệu của tháng giêng. Chúa của các loài hoa tháng ba chính là hoa gạo. Xuân sắp sửa đi qua, hạ lấp ló ở đầu ngõ. Hoa gạo đẹp theo nét riêng và tùy vào thời tiết. Hôm nào trời quang hoa đỏ thắm, ngời sắc trong khoảng không. Ríu rít đàn chim, lao xao ong bướm. Hoa như đốm lửa thắp sáng cả bình minh. Hôm nào sương dày đặc, nhìn hoa như ánh lửa đêm đông, lập lòe mang đến sự ấm áp lạ thường.
Xem thêm
Nhớ hoa đào - Tùy văn của Nguyễn Linh Khiếu
Mỗi năm khi sắp tết bao giờ mình cũng mua hoa đào. Hà Nội không có hoa đào làm sao gọi là tết. Dù là bích đào bạch đào hay đào phai thì hoa đào bao giờ cũng mang tết đến mỗi ngôi nhà thân thương. 
Xem thêm
Giữa những mùa hoa nở - Bút ký Nguyễn Xuân Thủy
Từ Yên Khương, thuộc huyện Lang Chánh chúng tôi đi theo đường tuần tra biên giới lên Đồn Biên phòng Bát Mọt, thuộc huyện Thường Xuân. Đường tuần tra biên giới chập chùng uốn lượn giữa núi non, len lỏi giữa màu xanh của rừng. Càng lên hướng Cửa khẩu Khẹo càng có cảm giác đang đi về nơi thâm sơn cùng cốc. Cũng đúng, Bát Mọt là tuyến cuối của dải biên giới xứ Thanh, nơi có cột mốc 378 là nơi tiếp giáp biên giới giữa Thanh Hóa và Nghệ An. Những nơi cuối đất cùng trời bao giờ cũng gợi cho người ta sự rưng rưng về những niềm thương nỗi nhớ.
Xem thêm
Lửa Cát Bi, ngọn trao truyền khí chất Hải Phòng
“Ơi Hải Phòng cửa biển quê hương/ Tổ quốc đang ghi những trang lịch sử/ Của Hải Phòng viết trên sóng bão Thái Bình Dương”. Với vị thế địa lý của Hải Phòng, trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, nơi đây luôn là miền đất tiền tiêu quan trọng, cửa ngõ chiến lược. Bởi kẻ thù thường tiến hành xâm lược Hải Phòng đầu tiên, lấy đó làm bàn đạp để đánh chiếm Thăng Long – Hà Nội. Khi thất bại, chúng cũng thường chọn Hải Phòng là một trong những tuyến đường rút chạy cuối cùng. Hải Phòng là địa phương luôn “đi trước về sau”, có vị trí xứng đáng, giữ vai trò quan trọng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc cũng như các cuộc kháng chiến của cách mạng Việt Nam, xứng đáng với danh hiệu “Thành phố Cảng trung dũng, quyết thắng”.
Xem thêm
Mùi Tết vương dấu chân xa – Tản văn của Đặng Tường Vy
Mỗi độ xuân về, người con xa xứ không tránh khỏi rưng rức, chạnh lòng. Nỗi nhớ trong lòng người tha hương rất lạ: sâu lắng, dịu dàng, chôn kín. Như gái đôi mươi thầm thương trộm nhớ một ai đó, âm thầm, mãnh liệt, nồng nàn,  tha thiết.
Xem thêm
Mùi hương thảo - Tản văn Quốc Tuấn
Chị mười tám, hay hai lăm tuổi. Tôi cũng chẳng biết và không cần biết, chỉ cần trong tôi đã bận lòng trước vẻ đẹp thuần khiết của loài cúc lam đồng thảo ấy. Nơi đáy mắt thể hiện những đốm lửa vui, những nét cong, nếp gấp mong manh nơi khóe miệng, bờ môi thể hiện sự phong phú nơi nhiệt tâm.
Xem thêm
Phép màu đã không đến với chị, chị Hồng Oanh ơi!
Chia sẻ của nhà văn Bích Ngân, Chủ tịch Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh
Xem thêm
Vào vườn hương
Thành phố Cần Thơ đất rộng người thưa không chỉ có gạo trắng nước trong để níu chân người và du khách bốn phương. Tây Đô còn là mảnh đất văn hiến với không hiếm những trang anh hùng hào kiệt yêu nước và nghệ sĩ phong lưu tài hoa nhân cách. Kế thừa truyền thống văn chương của Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa, Huỳnh Mẫn Đạt … và các bậc văn nghệ sĩ đàn anh: Kiều Thanh Quế, Lưu Hữu Phước, Hoài Sơn, Mai Văn Bộ, Trần Kiết Tường, …đã có không ít thế hệ đàn em kế thừa xứng đáng trên lĩnh vực văn học nghệ thuật.
Xem thêm
Suy ngẫm về “chữ” của “một thời vang bóng”_ Tản mạn của Quốc Tuấn
Người xưa, dẫu không biết chữ nhưng khi thấy một mẫu giấy có vết mực sẽ lượm lên, mang về cất giữ. Điều đó thể hiện sự “sùng chữ” (trân trọng giá trị của văn chương, chữ nghĩa) của ông cha. Những người không biết chữ đã biết đối xử với con chữ bằng tấm lòng trân quý như thế, thì dễ hiểu các trí giả đời trước họ sống với chữ nghĩa sâu sắc đến độ nào.
Xem thêm
Má tôi
Bài đăng báo Người Lao động Xuân Giáp Thìn 2024
Xem thêm
Xuân yêu thương - Tết sum vầy
Phút giao thừa, nhìn ngắm dòng người “tống cựu”, “nghinh tân”, cảm nhận trong mắt mỗi người lấp lánh ánh nhìn hạnh phúc, nhất là khi trên bầu trời đêm pháo hoa rực rỡ...
Xem thêm
Ngày cuối năm... - Tản văn Lê Thiếu Nhơn
Kẻ tha phương dù mải mê danh lợi cũng bất giác bần thần trước mênh mông tiếng gọi quê nhà ngày Tết. Tháng Chạp bao giờ cũng vội vàng trong mắt kẻ tha phương. Tháng Chạp bao giờ cũng hấp tấp trong lòng kẻ tha phương. Vì vậy, càng nhiều tuổi, tôi càng thấy sốt ruột khi thời gian nhích dần vào khoảnh khắc tất niên mà mình chưa kịp trở về ngôi nhà thơ ấu.
Xem thêm