TIN TỨC

Vọng âm buồn | Hoàng Phủ Ngọc Phan

Người đăng : vctphcm
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
124 lượt xem

Thứ thanh nhạc mà tôi được nghe nhiều nhất từ nhỏ đến lớn là tiếng chim. Đó cũng là thứ âm nhạc dễ chịu nhất thấm vào tâm hồn tôi, ngọt lành như những giọt mưa  thấm vào lòng đất. Có lẽ lịch sử âm nhạc của loài người từ Đông sang Tây cũng đều đã được hình thành từ những nốt nhạc của vô số loài chim vốn thường định cư bên cạnh đời sống của loài người.

Gần gũi nhất là tiếng gà, được ví như là loại đồng hồ cầm canh báo thức, nhưng tiếng gà gáy có hồn chứ không chát chúa như tiếng chuông bằng kim loại hay khô khốc như tiếng mõ bằng gỗ.

Mỗi lần nắng mới hắt bên song

Xao xác gà trưa gáy não nùng...

(Lưu Trọng Lư)

Tiếng gà gáy nghe chuyền đêm ngày trong thôn xóm cho ta cảm giác về một vùng quê yên lành sung túc. Cảm giác ấy lớn lên nhiều lần thành sức sống của đất nước và con người trong những câu thơ sau đây của Huy Cận:

Núi Tản như con gà cổ đại

Khổng lồ, mào đỏ thắp bình minh

Mênh mông gọi nắng cho mùa chín

Từ thuở Sơn tinh thắng Thủy tinh.

Có những cô gái mang tên Sơn Ca nhưng dám chắc cả đời chưa hề thấy con chim này. Tôi cũng chưa từng thấy, nhưng thỉnh thoảng tôi có được nghe tiếng hót của nó - không phải trên cành cây, trên mặt đất mà giữa lưng trời khi con chim nào đó bay vút lên như pháo thăng thiên. Trong bài thơ Thăm lúa của Trần Hữu Thung, chim sơn ca được gọi là chim chiền chiện:

Mặt trời càng lên tỏ

Bông lúa chín thêm vàng

Sương treo đầu ngọn cỏ

Sương lại càng long lanh

Bay vút tận trời xanh

Chiền chiện cao tiếng hót

Tiếng chim nghe thánh thót

Vang vẳng khắp cánh đồng...

Nghe thật là sảng khoái, cả chim cả người đều tràn đầy sức sống. Mà sức sống ấy rất cần cho các lực lượng nhân dân đang sản xuất và chiến đấu. Có lẽ vì thế mà bài thơ với lời lẽ mộc mạc tự nhiến của Trần Hữu Thung đã được nhiều giải thưởng trong các cuộc liên hoan Thơ trong và ngoài nước thời kháng chiến chống Pháp.

Bà huyện Thanh Quan cũng gửi gắm tâm sự của mình vào loài chim quen thuộc:

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

Và trong thơ Nguyễn Khuyến:

Năm canh máu chảy đêm hè vắng,

Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ,

Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,

Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ.

Cũng tiếng kêu của loài chim ấy, nếu trong thơ của Bà huyện Thanh Quan chỉ là chút lòng hoài vọng một triều đại đã suy tàn, thì trong thơ Nguyễn Khuyến là máu và nước mắt của người dân mất nước.

Trong quyển sách biên khảo Văn minh Việt Nam, nhà nghiên cứu Hoàng Trọng Miên có bài nói về một loài chim mạn ngược. Nhà văn Nguyễn Đình Thi gọi tên chim ấy là từ quy.

Lòng ta vẫn ở trên Tây Bắc

Những đêm thao thức tiếng Từ quy

(Quê Hương Việt Bắc - 1950)

Trong bài chào mừng đại hội các nhà văn Liên Xô mà ông được mời tham dự năm 1967, Nguyễn Đình Thi đã giới thiệu với các nhà văn nước bạn: “Ở miền rừng núi chúng tôi, có một giống chim gọi là từ quy. Các ông bà già bảo rằng có đôi người yêu ngày xưa bị kẻ gian ác ngăn cấm không lấy được nhau, đã hóa thành giống chim ấy. Cho nên đến tận bây giờ, cứ đêm đêm người ta nghe thấy những con chim từ quy gọi nhau từng đôi, một con ở đầu núi này, một con ở đầu núi khác, suốt đêm đôi chim tìm gọi nhau cho đến sáng, có lẽ chúng đã gặp được nhau nên mới hết kêu..

Tu hú là loài chim bị mang nhiều tai tiếng, nhưng tiếng chim tu hú lại rất xao xuyến lòng người:

Tu hú!Tu hú!

Hôm nay hú về

Nhớ chăng hỡi hú

Ai đã năm xưa

Lên đường tòng ngũ

Trả nợ máu đào

Đền ơn nước tổ...

Đồng bào ở miền sông nước cũng rất nhạy cảm và đồng điệu với tiếng hót quen thuộc của những loài chim gắn bó với nhịp sống thường ntgày trên quê hương mình:

Gió nhớ thướng ai mà lay bờ lá

Để bìm bịp kêu con nước lớn ròng...

(Hoài Vũ - Gửi miền Hạ)

Hoặc

Chiều chiều chim  vịt kêu chiều

Bâng khuâng nhớ mẹ,chín chìu ruột đau... (Ca dao)

Thực ra chim vịt không chỉ sống ở miền hạ bạc mà lang bạt như dân du cư khắp đất nước, nơi nào cũng có thể nghe tiếng hót của nó. Tiếng hót ấy là một chuỗi dài những nốt nhạc không lời: Vit!Vít!Vit!Vit!-Vitvitvitvit... Thời chiến tranh Việt - Pháp ở Đông Dương, những người lính Pháp xa nhà có tâm sự phản chiến đã đặt lời Pháp cho những nốt nhạc ấy như sau: “Père,mère,frères... tous en périls – (Cha, mẹ, anh, em đều lâm nguy). Người Việt cũng đặt lời tương tự: “Chết!Chết!Chết Chết! - Chếtchếtchếtchết... Vì vậy chim Vịt còn được gọi là Con chim chiến tranh.

Có một loài chim mang rất nhiều tên. Tùy lúc, tùy nơi, tên của nó được chế tác dựa vào những sự kiện văn hóa lịch sử của địa phương ấy.

Trong ca khúc Hò leo núi, nhạc sĩ Phạm Đinh Chương gọi nó là chim Bắt cô trói cột hay còn gọi là Năm con sáu cột. Chuyện kể rằng xưa có cô gái nghèo bị mẹ ghẻ hành hạ, bắt chăn trâu. Chăn năm con nhưng trong chuồng lại có đến sáu cái cọc buộc trâu. Mẹ ghẻ lấy cớ cho rằng cô làm mất một con trâu nên trói cô vào cái cột thứ sáu, bỏ đói cho  đến chết. Sau khi chết cô gái hóa thành loài chim bay khắp núi rừng kêu oan cho mình...

Thời xưa, trai tráng trong nước phải có nghĩa vụ đi lính thú:

Nàng về nuôi cái cùng con

           Để anh try thú nước non Cao Bằng... (Ca dao)

Tiếng chim Bắt cô trói cột được những người lính thú đời xưa nhại là “Cao Bằng nước độc”.

Năm 1888,vua Hàm Nghi bị giặc Pháp bắt đi đày, Phong trào Cần Vương tan rã. Tên của con chim được những người yêu nước đau lòng gọi là “Ôi thôi rồi cơ cuộc”.

Khoảng những năm từ 1906 đến 1908, ở Trung Kỳ có phong trào chống sưu thuế kết hợp với cuộc vận động nếp sống mới của phong trào Duy Tân. Muốn duy tân thì trước tiên và dễ dàng nhất là phải cắt bỏ búi tóc dài để tóc ngắn. Có bài thơ tuyên truyền cổ động như sau:  

      Tay trái cầm lược

Tay phải cầm kéo

Húi hề! Húi hề!

Thủng thẳng cho khéo

Bỏ cái ngu mầy

Bỏ cái dại mầy

Cho khôn cho mạnh...

Các đoàn người cắt tóc ngắn biểu tình, bao vây nhiều công sở, dinh thự của bọn thực dân Pháp và quan lại tay sai. Bọn chúng gọi phong trào nầy là loạn đầu bào. Chúng ra tay đàn áp, bắn giết, bắt bớ, lưu đày nhiều người. Từ biến cố này, đồng bào miền Trung gọi tên con chim nói trên là Tóc dài tóc cụt.

Năm Ất Dậu,từ khoảng 1944 - 1945, ở Việt Nam có nạn đói làm chết gần 2 triệu người. Tên của con chim được gọi là “Cơm còn cho cục - Hai loong ba hột”.

Thời chín năm kháng chiến chống Pháp, chim lại được đổi tên là Khó khăn khắc phục.

Ở vùng Quảng Trị - Thừa Thiên, chim này lại có một biến tấu là Ơi đò Ca Cút. Chuyện kể về mối tình dang dở của một đôi lứa yêu nhau. Nàng là cô lái chuyên đưa người qua về trên bến đò Ca Cút. Chàng là khách qua đò. Họ yêu nhau,thề non hẹn biển. Nhưng chàng đi chinh chiến nhiều năm không về. Nàng ôm lòng kiên trinh chờ đợi. Rồi một hôm giặc tràn vào thôn xóm, nàng bị giặc bắt trói vào gốc cây và hãm hiếp đên chết. Hồn oan của cô gái nhập vào một loài chim có tiếng kêu nghe như Ơi đò Ca Cút... Đến khi tan giặc chàng trở về bến cũ, gọi đò mãi mà không thấy bóng người xưa. Chỉ nghe đâu đó, vang vọng tiếng chim kêu: Ơi đò Ca Cút.

Người dân Quảng Trị có câu hát ru nói về sự tích này như sau:

Ngày đi trăm nỗi hẹn hò

Ngày về vắng bóng con đò bến xưa.

Ngoài ra còn có câu tục ngữ: “Kêu như kêu đò Ca Cút” - ý nói kêu ai hoài mà không nghe trả lời.

Chuyện tình nói trên là một mô thức khá quen thuộc trong văn học Việt Nam. Đó là bi kịch lứa đôi trong chiến tranh và hòa bình. Hình ảnh chinh phu và chinh phụ thường là nhân vật chính trong các tác phẩm từ cổ điển đến hiện đại như: Chuyện cổ tích Thiếu phụ Nam Xương, Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn, ca khúc Hòn vọng phu của Lê Thương hay chuyện tình có thực trong bài thơ Màu tím hoa sim của Hữu Loan. Giới nghiên cứu ở Huế đã truy đến cùng cái địa danh bến đò Ca Cút và xác định bến đò này là có thực và thuộc thuộc làng Vĩnh Trị, xã Hải Dương (thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế) đưa người qua phá Tam Giang, bên kia là cồn mồ làng Vân Quật Đông (xã Hương Phong cùng thị xã Hương Trà).

Năm 2010, chính quyền Thừa Thiên – Huế khánh thành một công trình phúc lợi quan trọng là cây cầu băng qua phá Tam giang. Cầu vừa dài vừa rộng lại rất đẹp, mặc nhiên xóa luôn bến đò Ca Cút ngày xưa. Tiếng kêu của loài chim từng đồng hành với lịch sử dân tộc trong suốt một thế kỷ và trên quá nửa chiều dài đất nước từ nay đến chỗ đầu cầu này là bặt tiếng. Trải qua những cuộc bể dâu hình như loài chim này không còn cảm thấy an toàn bên cạnh đời sống con người nên đã bay đi tìm những miền đất hứa nào đó và tiếng kêu của nó từng là thứ thanh nhạc xao xuyến trong tôi suốt thời trai trẻ giờ đây chỉ còn là những vọng âm buồn.

H.P.N.P

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nỗi lòng Huyền Trân - Tản văn Nguyễn Linh Giang
Trên đường thiên lý Bắc- Nam, đoạn Quốc lộ 1 giao nhau với Quốc lộ 9 đi về hướng Cửa Việt (tỉnh Quảng Trị), có một bảng chỉ dẫn: “Miếu thờ bà Huyền Trân Công Chúa 500 mét”.
Xem thêm
Thầy tôi - Kho báu của tôi
PGS Chu Xuân Diên thuộc thế hệ những nhà nghiên cứu tiếp thu lý thuyết thế giới qua con đường tiếng Nga và tiếng Pháp. Thầy đã tham gia dịch những công trình kinh điển về folklore học mà đặc biệt phải kể đến bộ sách 2 tập rất dày dặn là Tuyển tập V. Ia. Propp - giới thiệu gần như đầy đủ trước tác của một tác giả quan trọng hàng đầu của trường phái Hình thức Nga và nghiên cứu folklore
Xem thêm
“Cú hattrick” của nhà thơ Triệu Kim Loan
Nhà thơ Triệu Kim Loan sẽ ra mắt độc giả ba quyển sách (hai tập thơ: Khát vọng xanh, Đối thoại đêm và quyển Cảm nhận văn chương)
Xem thêm
Đất có thổ công - Tản văn Nguyễn Linh Giang
Nhà văn Nguyễn Linh Giang quê quán tỉnh Quảng Trị, sinh sống và làm việc 30 năm tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hội viên Hội Nhà văn TP.Hồ Chí Minh năm 2022. Nguyễn Linh Giang vừa xuất bản tập tản văn: “Sông vẫn chảy đời sông” (NXB Thanh niên, 2023). Về tập tản văn này, nhà văn Lê Minh Quốc trong “Tựa” viết cho tập sách đã viết: “Dám nói rằng, con người và vùng đất của mỗi địa phương đều đóng góp cho bộ sử của cả nước đầy đặn hơn, phong phú hơn. Mỗi khi chúng ta nói đến lịch sử một dân tộc là cần hiểu rộng hơn bao gồm cả yếu tố văn hóa, phong tục, tập quán, ẩm thực, v.v… của nhiều vùng đất khác gộp lại. Vì lẽ đó, những quyển sách về đề tài này, bao giờ cũng cần thiết, Nếu khi đọc xong, bạn đọc gật gù, tâm đắc: “À, ước chi có dịp đến nơi ấy một lần nhỉ?”. Được thế. Nhà văn đã thành công. “Sông vẫn chảy đời sông” của Nguyễn Linh Giang là một trong những tập tản văn như thế”.Văn chương TP.Hồ Chí Minh xin giới thiệu tản văn Đất có thổ công được rút từ tập “Sông vẫn chảy đời sông” của nhà văn Nguyễn Linh Giang.
Xem thêm
Em đi tát nước… Tản văn của Nguyễn Linh Giang
Tôi lớn lên, vào những năm sau 1975, ruộng đồng vào mùa khô vẫn phải chống hạn bằng xe đạp nước. Có lần, được ngồi xe đạp nước đêm trăng cùng với cô bạn gái tôi mới biết giọt mồ hôi trên sợi tóc mai cùa cô thôn nữ vừa nghe mằn mặn vừa nồng ngầy ngậy, khó tả. Qua bao mùa trăng, tôi vẫn còn mơ được đi tát nước: “Hôm qua trăng sáng tờ mờ/ Em đi tát nước tình cờ gặp anh” (Ca dao).
Xem thêm
Dọc thượng nguồn sông Vàm Cỏ Đông – Ký của Thanh Thảo
Năm 1973, khi tôi từ chiến trường Nam Lộ Bốn (Mỹ Tho) trở về lại cơ quan binh vận ở R, tôi rất phấn khởi vì cơ quan tôi đã dời về đất Tây Ninh, đóng căn cứ ở Bến Tháp ngay sát sông Vàm Cỏ Đông. Đoạn sông này là biên giới tự nhiên giữa Việt Nam và Campuchia, cũng là thượng nguồn sông Vàm Cỏ Đông. Từ Mỹ Tho, trước khi băng qua đồng Tháp Mười lên chiến khu, chúng tôi đã vượt qua sông Vàm Cỏ Tây, bây giờ lại được ở sát sông Vàm Cỏ Đông, thật thú vị.
Xem thêm
Đỗ Nam Cao - Cô đơn và khắc khoải 
Những năm cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chúng tôi cùng sống và chiến đấu trên chiến trường Miền Đông gian lao mà anh dũng. Nhà thơ Đỗ Nam Cao công tác ở Ban Tuyên huấn Trung ương Cục, còn tôi là lính chiến thuộc Công trường 5 (Sư đoàn 5). Rừng Miền Đông bạt ngàn, bom đạn tàn phá, chất độc hóa học trắng rừng, nhưng chúng tôi thường xuyên gặp nhau qua Đài Phát thanh Giải phóng và chương trình Phát thanh Quân Giải phóng miền Nam. Đôi khi, hành quân giữa khuya, nghe đọc bài hoặc ngâm thơ Đỗ Nam Cao trong chương trình văn nghệ, tiếp sức cho cánh lính trẻ chúng tôi xông lên phía trước.
Xem thêm
Nhà thơ Thanh Thảo… Nghĩ
Bây giờ, khi đã ngấp nghé tuổi tám mươi, tôi mới nhận ra, khi mình càng về già thì thời gian trôi càng nhanh. Và thời gian là thứ mình không thể khắc chế được. Việc hôm nay chớ để ngày mai mới làm, vì có khi không kịp.
Xem thêm
Nghệ sĩ Bảo Anh đang trên đường trở về quê nhà
“Một đám rước”, dường như có những tương đồng với “đám rước” khi thân xác nghệ sĩ Bảo Anh được trở về quê nhà, về U Minh, Cà Mau, nơi chôn nhau cắt rốn của anh.
Xem thêm
Vũ Quần Phương tiết lộ chuyện đặc biệt về Xuân Diệu, Chế Lan Viên
Nhà thơ Vũ Quần Phương nhớ lại ký ức về những nhà thơ, nhà văn lão thành như Chế Lan Viên, Tố Hữu, Nguyễn Tuân… thế hệ đàn anh – những người đã “lót ổ” cho thế hệ hôm nay dưới mái nhà văn chương.
Xem thêm
Nhà văn Ma Văn Kháng: Sống rồi mới viết
Trong lớp nhà văn cao tuổi hiện nay, có một người tôi luôn chờ đợi đọc những sáng tác mới của ông. Đó là nhà văn Ma Văn Kháng (sinh năm 1936, tên thật Đinh Trọng Đoàn). Chỉ có điều thời gian gần đây tuổi cao đã khiến ông không viết đều, viết nhiều như trước. Thế nhưng, thi thoảng vẫn được đọc những truyện ngắn mới của ông, hay những bài báo gửi gắm trăn trở, suy tư.
Xem thêm
Cuộc chiến nhân tính – Tiểu luận của Hoàng Thuỵ Anh
Nhà văn Hữu Phương là một trong số những cây bút văn xuôi kỳ cựu của miền Trung, đã khẳng định sở trường, sự điêu luyện khi nhìn sâu và cắt nghĩa tính tàn bạo của chiến tranh thông qua những số phận bị chấn thương, bi kịch.
Xem thêm
Nhớ mãi kỷ niệm với nhà văn Nguyễn Quốc Trung
Qua các nguồn tin, được biết Hội nhà văn thành phố Hồ Chí Minh và Tạp chí Văn nghệ Quân đội chuẩn bị phối hợp tổ chức hoạt động tưởng nhớ nhà văn Nguyễn Quốc Trung sau 2 năm anh rời “cõi tạm” và nhân sự kiện anh được truy tặng Giải thưởng Nhà nước với tiểu thuyết Đất không đổi màu, tôi cảm thấy vui mừng xen lẫn sự bồi hồi, xao xuyến.
Xem thêm
Tàn thu vắng bóng - Tản văn của Đặng Tường Vy
 Châu Âu thật tuyệt với bốn mùa rõ rệt. Mùa nào cũng có nét quyến rũ riêng, làm người tha hương vơi đi nỗi buồn dịu vợi. ..
Xem thêm
Nhớ Nguyễn Quốc Trung
Nhà văn Bích Ngân, Chủ tịch Hội nhà văn TP HCM gọi điện thông báo với tôi về việc Hội nhà văn TP HCM phối hợp cùng Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức tưởng nhớ nhà văn Nguyễn Quốc Trung nhân hai năm ông rời cõi tạm và đặc biệt nhà văn được truy tặng giải thưởng Nhà nước về tiểu thuyết Đất không đổi màu.
Xem thêm
Mùa thu đây hỡi cờ hồng vàng sao – Tản văn của Lê Xuân
Tháng Tám cũng là tháng giữa thu, tháng để các em thiếu niên, nhi đồng phá cỗ trông Trăng, mừng Tết Trung thu, rước đèn, múa lân dưới trăng thanh, gió mát…
Xem thêm
Cửa bể Cần Giờ | Bút ký của Nguyễn Minh Ngọc
Bài đăng Báo Văn Nghệ (Hội Nhà văn VN) số 35+36, ra ngày 2-9-2023
Xem thêm
Tản Mạn Vàm Cỏ Đông - Tùy bút Trần Thế Tuyển 
Có lẽ trên trái đất này, không ở đâu cái giá để có độc lập dân tộc, tự do hạnh phúc lại đắt như ở Việt Nam. Để có hình hài đất nước, vị thế quốc gia như ngày hôm nay đã có hàng triệu triệu người con ưu tú ngã xuống. Máu xương của họ tan biến thành đất đai tổ quốc và hồn của họ bay lên hóa linh khí quốc gia.
Xem thêm