TIN TỨC

Nhà thơ Trần Dần: Cái chưa biết mới là cái mới

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-05-17 00:46:48
mail facebook google pos stwis
4984 lượt xem

 

(Kỷ niệm 65 năm thành lập Hội Nhà văn Việt Nam, 1957-2022)

Có những con người mà ta chỉ gặp một đôi lần trong đời để rồi mãi nhớ, mãi ám ảnh về họ. Với tôi, Trần Dần là một người như vậy.


Nhà văn Trần Dần (1926 -1997)

Tôi đã đọc Người người lớp lớp của ông từ lúc học trường làng ở Quảng Bình trong tủ sách cha tôi để lại. Trong tưởng tượng của tôi, ông là một chiến binh cao lớn, oai vệ lắm.

Nhưng khi gặp ông lần đầu ở Huế cách đây chừng ba mươi năm, tôi chợt ngớ ra trước một ông già nhỏ bé, bạc trắng tóc râu, một chân bị liệt phải chống chiếc gậy trúc, đi đứng nhọc nhằn, lên bậc tam cấp phải có người dìu đỡ.

Tiếng ông nói vang, ấm nhưng thường bị hụt hơi vào cuối câu, nên rất khó nghe. Chỉ đôi mắt ông là rực sáng long lanh như hai hạt ngọc. Đôi mắt ấy phát sáng cho ta đọc được một tính cách mạnh mẽ. Đôi mắt lấp lánh của một tư chất thông minh, nhạy cảm và đầy tin cậy.

Và khi tiếp xúc nhiều lần với ông, nghe ông kể chuyện và đọc thơ văn ông, tôi nhận ra một điều lý thú: Ngôn ngữ của ông cũng long lanh ánh sáng, rất ấn tượng như mắt ông!

Chuyến ông được Phùng Quán tháp tùng vào Huế đầu tháng 5/1988, theo ông kể là chuyến vô Huế lần thứ hai. Hồi còn trẻ, năm 1946, ông theo một bóng hồng vô Huế như một lữ khách giang hồ.

Sau ba mươi năm ngồi một chỗ ở Hà Nội, vào Huế ông được mời tiếp xúc, đối thoại với công chúng hai buổi ở Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên (cũ), và ở nhà văn hóa Thanh niên Thành đoàn Huế.

Sau hai buổi ra mắt ấy, ông lại ngồi tại khách sạn số 2 Lê Lợi, chỗ ông được bao trọ. Tại đây tôi có 3 buổi sáng trò chuyện với ông. Nói đúng hơn là tôi đặt câu hỏi rồi nghe ông nói. Và ghi chép như một nhà báo. Ông nói rất hay, rất cuốn hút.

Sáng ngày 11/5/1988, tôi đến khách sạn hầu chuyện ông. Thấy ông ngồi một mình trên giường, tôi hỏi sao không đi chơi đâu đó với anh Quán.

Ông nói: “Phùng Quán ngồi không yên, chỉ thích đi. Mình ngồi ba chục năm quen rồi. Ngồi mà vẫn đi, vẫn ngao du. Mình có cuốn sổ bụi, sổ ngao du. Mình đi chơi lang thang trong cuốn sổ này. Đây là sổ để ghi tất cả những gì mình nghĩ ra, có khi ngoài cả ý thức. Đó là cách đi của mình”.

Đang nói, ông chợt dừng lại, chớp mắt, hỏi tôi: “Ngô Minh có quen Dương Tường không?”. Tôi bảo có đến nhà uống rượu với anh ấy mấy lần. Ông bảo: “Dương Tường hợp với tính mình, nó ngồi được. Nghĩ nhiều hơn đi!”.

Tôi hỏi ông có thích uống rượu không, Huế có rượu Chuồn, rượu Hiếu ngon chẳng khác gì rượu làng Vân ngoài Bắc.

Ông bảo: “Mình không uống được nhiều rượu. Vui thì làm một ly. Nhưng nói chung thì không uống. Mình chỉ nghiện thuốc lào. Thuốc lào phải hút bằng đóm, châm vào đèn dầu hỏa như các cụ ở quê, mùi muội đèn làm cho thuốc bắt hơn”.

Tôi lái sang chuyện thơ. Ông phấn chấn hẳn lên. Thơ là cái thăm thẳm. Thơ là cái không lường được như Aristoteles nói. Không thể lường được với các nhà thơ! Cụ Hồ có lần khuyên cụ Phan Bội Châu: “Lập thân tối hạ kỵ văn chương”. Cụ Phan không nói gì mà chỉ cười. Rồi cụ Phan vẫn lấy văn chương mà lập thân.

Văn chương có hai loại: Văn chương quân tử và văn chương tiểu nhân. Văn chương tiểu nhân thì không lập thân được. Văn chương cụ Phan hướng tới mục đích là văn hiến, văn hóa, là khai sáng.

Vào Huế, mình thấy Huế là xứ thơ. Thơ là trời, là đất, là vũ trụ. Ở đây, vừa có trời, vừa có trăng non, lại vừa có đất. Ở các thành phố hiện đại, trẻ con không biết có ông trăng, không biết có trời, lại không biết có đất vì chỗ nào cũng gạch lát và đường nhựa.

Ở phố Cổng Tỉnh (Nam Định) quê mình cũng có trời, có đất. Trời đất Cổng Tỉnh cho mình tiểu thuyết thơ Cổng Tỉnh! Tôi rất kinh ngạc khi ông đọc cho tôi nghe một danh sách dài trên 30 cuốn sách mà ông viết trong 30 năm qua, như: Người người lớp lớp, Nhất định thắng, Cách mạng Tháng Tám (1955-1956).

Đó là các tác phẩm Đây Việt Bắc (thơ, 1957), 17 tình ca (1958-1959), Cổng Tỉnh (1960, dạ khúc trường thiên), Đêm núm sen (1961, tiểu thuyết); Những ngã tư và những cột đèn (tiểu thuyết, 1964), Mùa sạch (thơ, 1965), Một ngày Cẩm Phả (1965, tiểu thuyết), Con trắng (1967, thơ hồi kí), Động đất tâm thần (tập thơ 1974), Thơ không lời – Mây không lời (tập thơ 1978), Thiên thanh – 77 – ngày ngày (1979), 36 – thở dài – Tư Mã dâng sao (thơ, 1980), Thơ mini (1987) v.v… và rất nhiều tác phẩm văn học dịch.

Quả là một sức sáng tạo kì lạ. Đa số các tác phẩm trên chưa được in.

Gần đây, ông được Nhà xuất bản Hội Nhà văn in Bài thơ Việt Bắc (1990) và tập thơ Cổng Tỉnh (1995). Tập Cổng Tỉnh được tặng thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1995. Âu đó cũng là niềm an ủi đối với ông sau mấy mươi năm vắng bóng trên văn đàn. Nhưng còn rất nhiều bản thảo của ông chưa được xuất bản, mong sao các tác phẩm ấy sớm đến được với độc giả.

Sáng hôm sau ông lại say sưa nói với tôi về thơ. Trần Dần cho rằng làm thơ là làm chữ. Con chữ nó đẻ ra nghĩa, sẽ được nhiều nghĩa. Cái biết rồi là nghĩa, cái chưa biết là chữ. Nếu làm thơ mà làm nghĩa rồi mượn chữ để diễn đạt nghĩa thì nghĩa sẽ hẹp.

Cái chưa biết mới là cái thăm thẳm, cái chưa biết chính là cái mới. Nguyễn Du vừa làm chữ, vừa làm nghĩa. Ví dụ câu “Trăm năm trong cõi người ta/ Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau” là làm nghĩa.

Còn câu “Mai sau dù có bao giờ” là làm chữ. “Ngô Minh thấy không, ông nhấn mạnh, câu thơ toàn hư tự mà lại đa nghĩa, đa cảm! Có anh bạn làm thơ ở Hà Nội, tôi và Phùng Quán thường gọi là Chúc “Bờ sông”, còn có cả bài thơ một chữ: Xong – Vợ chồng – Xong. Một bài thơ thật đa nghĩa, mới mẻ. Tôi có lời bình rất tâm đắc về bài thơ ông Chúc ấy, nhưng bị Phùng Quán chê là quá dài dòng.

Lời bình của tôi là: “Vợ chồng/ Cái mớ bòng bong ấy gọi là xong”. Chữ của thơ nó khiếp thế đấy. Gần đây tôi làm nhiều thơ ngắn. Cực ngắn, gọi là thơ mini. Mỗi bài chỉ có hai câu. Cũng muốn đưa ra một loại thơ mới, trọng cái chữ hơn.

Ví dụ bài một câu: “Mưa rơi không cần phiên dịch” hay bài hai câu: “Có những chân trời không có người bay/ Lại có những người bay không có chân trời…”.

Tôi nhắc lại chuyện 1946, ông cùng với Đinh Hùng và một số bạn thơ lập nên nhóm Dạ Đài với tuyên ngôn thơ tượng trưng. Chủ trương làm cuộc cách mạng đổi mới thơ ca.

Thực tế ông vừa là người chiến sĩ tham gia kháng chiến chống Pháp, đánh trận Điện Biên Phủ, viết tiểu thuyết ca ngợi người lính cách mạng, đồng thời ông là chiến sĩ thơ luôn trung thành, xông xáo với ước vọng đổi mới thơ ca.

Ông nhìn xa, lặng lẽ châm đóm thuốc lào, rồi ông nói, giọng trầm hơn: “Đúng, tôi muốn thơ phải luôn luôn mới. Hôm qua tôi nói trước công chúng là chôn tiền chiến, chắc có người chưa hiểu hết ý. Thơ văn tiền chiến là thành tựu. Không thể phủ nhận. Nhưng thế hệ mình phải có cái của mình chứ.

Thơ phải luôn luôn tự đổi mới. Bắt chước tiền chiến là một loại bệnh. Tôi gọi nó là bệnh đèm đẹp. Giống như người trồng hoa mà mỗi buổi sáng lại đi rưới nước hoa vào những luống hoa.

Quen dần trong nếp cũ, sẽ không còn khả năng vạch ra cái mới, cái có ích, tức là mất khả năng khám phá, là chết dần với những cái cũ lặp lại. Loài người phải luôn khám phá sáng tạo. Tự do là tất yếu là một phát kiến lớn.

Nhưng Hội nghị Triết học bàn tròn Pháp cho rằng Tự do là phản tất yếu cũng là một phát kiến cách mạng. Con người không thể bay vì con người không có cánh – đó là tất yếu. Nhưng con người muốn bay và bay được – đó là phản tất yếu.

Những người lắp cánh bằng màng mỏng vào tay, bay từ lầu cao xuống đã chết. Đó là cái chết của ước muốn bay. Đó là khởi đầu của khoa học hàng không vũ trụ. Đó là tự do. Đi vào cái mới, khám phá cái mới cũng có thể phải chết. Nhưng nếu không có sự khai phá, dấn thân của một cá nhân, một nhóm, một thế hệ, thì cả nhân loại chỉ có tự do sống trong cái cũ. Vì thế mà tôi luôn chủ trương đổi mới thơ”.

Chiều 14/5/1988, tôi mời cơm ông, Phùng Quán và một số anh em nhà văn như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Quang Lập, Vĩnh Nguyên tại căn phòng tập thể của mình ở chân dốc Bến Ngự. Anh em thì uống rượu với đồ nhắm.

Riêng nhà thơ Trần Dần được ưu tiên các loại bánh Huế như bánh nậm, bánh bèo, bánh bột lọc… Cuộc rượu hôm đó phải thắp đèn dầu vì mất điện. Dù vậy câu chuyện văn chương vẫn rôm rả đến tận nửa đêm.

Sáng hôm sau, gặp lại tôi, ông bảo: “Ở Huế ăn ngon, hợp khẩu vị, không cay như món ăn Ấn Độ. Bánh của nhân loại Huế, nhân loại tím, là chúa sơn lâm! Các nơi khác có nguyên liệu mà không làm được. Cái ngon, cái mới cũng có sẵn đâu đó như là bánh Huế. Chỉ có người thích làm, dám làm, biết làm mới làm được…”.

Ông tự gọi mình là Tư Mã Gãy. Ấy là sự buồn của đời ông. Nhưng trong tôi ông bao giờ cũng là ấn tượng mạnh. Giờ đây, ông đã là người thiên cổ, tôi viết mấy dòng này như nén nhang tưởng niệm ông, một người suốt đời vì những con chữ Việt.

 Ngô Minh/Vanvn

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nỗi buồn chiến tranh - và cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường
Vừa qua, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vinh danh là một trong 50 tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam 50 năm qua đã tạo nên nhiều tranh luận trái chiều. Nhiều ý kiến cũng đã đặt ra vấn đề là có nên đưa tác phẩm này vào sách giáo khoa Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 hay không. Là những người đã từng học văn qua nhiều lần thay sách và là những người đang dạy môn văn nhiều năm trong nhà trường phổ thông, chúng tôi có một số suy nghĩ trong cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường về Nỗi buồn chiến tranh với tính chất là “những người trong cuộc”.
Xem thêm
Văn học đương đại Trung Quốc từ lăng kính các giải thưởng Hội Nhà văn (2015 - 2025)
Nhìn chung, hệ thống giải thưởng Hội Nhà văn Trung Quốc giai đoạn 2015 - 2025 đã làm nổi bật vai trò “điều hướng” và “chuẩn hóa” của mình trong việc thiết lập các tiêu chí thẩm mĩ, định hình phong cách sáng tác và thúc đẩy tương tác giữa văn học - học thuật - công chúng. Điều này cho thấy một mô hình văn học với định hướng chiến lược - kết hợp giữa nhu cầu nghệ thuật, định hướng chính sách và cơ chế truyền thông - đang ngày càng chiếm vị trí trung tâm trong đời sống văn hóa đương đại Trung Quốc.
Xem thêm
Chân dung tâm hồn của nhà thơ Nguyên Bình qua “Mật ngữ trắng đen”
“Mật ngữ trắng đen” (NXB Thuận Hóa, 2025) của nhà thơ Nguyên Bình, hội viên Hội Nhà văn TP.HCM, là một thế giới thi ca đầy suy tưởng, nơi ánh sáng và bóng tối, mộng mị và hiện thực, nỗi đau và niềm yêu thương luôn song hành, soi chiếu vào nhau. Tựa như cái tên Mật ngữ trắng đen, thơ Nguyên Bình gợi cảm giác về sự đối lập, nhưng không phải để phân định ranh giới thiện ác, buồn vui, mà để khai mở một cõi cảm xúc và nhận thức đa chiều về tình yêu, cuộc sống, con người. Ở mỗi bài thơ, tập thơ của anh đều ẩn chứa một lớp nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Xem thêm
Quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu đối với Phật giáo
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà Nho tuy đỗ đạt không cao nhưng cụ là một nhà Nho đức nghiệp, một con người trong ba tư cách: một nhà thơ, một thầy giáo và một thầy thuốc suốt đời vì dân vì nước.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm