TIN TỨC

Ai còn nhớ, ai đã quên?

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-08-01 14:16:17
mail facebook google pos stwis
718 lượt xem

 CHỢT NHỚ VÀ KHÓ QUÊN

TÔ HOÀNG

5/8/1964 & 5/8/2022:
Kỷ niệm 58 năm bom đạn Mỹ rơi trên miền Bắc

… Dạo xẩy ra sự kiện Vịnh Bắc Bộ, thuyền trưởng Nguyễn Văn Giảng chỉ huy tầu phóng lôi mang số hiệu 339. Tầu Mađốc của Mỹ thực hiện kế hoạch Desoto Oplan 34 xâm phạm hải phận Miền Bắc. “Con muỗi mắt 339” bằng mấy quả đạn “đã chọc thủng sườn con voi ma mút” Mỹ. Trong bộ quân phục mùa hè sơ mi trắng, quần xanh của hải quân, với vóc dáng cao to, rắn rỏi, khó ai đoán được người sỹ quan này đã xấp xỉ tuổi sáu mươi.Đặc biệt với ánh mắt chân thành, nụ cười cởi mở, cựu đại úy Nguyễn Văn Giảng rất dễ gợi sự tin cậy ở mọi người. Anh nói với chúng tôi: “Từ đó đến nay, tôi nào đã lên đài, lên báo bao giờ đâu. Thành thử cứ tấm tức mãi. Tầu Mađốc xâm phạm bờ biển nước ta. Chúng tôi phải đánh để bảo vệ chủ quyền lãnh hải của mình như nhiệm vụ của bất kỳ đơn vị hải quân nào. Thế mà đùng một cái, có tin hải quân ta tấn công tàu Mỹ ở ngoài hải phận để rồi bùng nổ sự kiện ngày 5 tháng 8. Cha mẹ mình có dậy mình ăn gian nói dối bao giờ đâu?”.
Bác Phan Văn Cúc - thân sinh liệt sỹ Phan Đăng Cát năm nay đã 84 tuổi, lúc lên xe xuống xe phải có người dìu. Bác Cúc kể lại: Sau ngày Phan Đăng Cát hy sinh, chị Sâm – vợ anh, cứ ở vậy thờ chồng. Bác Cúc và mọi người trong gia đình phải khuyên nhủ, động viên mãi, 7 năm sau chị Sâm mới bước đi bước nữa. Bây giờ chị đã có 4 mặt con, nếp tẻ đủ cả. Mỗi năm đến ngày giỗ anh Cát, chị đưa cả bốn đứa con về thắp hương cho anh. Ngày 5 tháng 8 năm 1964, Phan Đăng Cát đã cầm tờ giấy phép trong tay để về thăm người vợ trẻ. Vừa rời cổng doanh trại, bỗng có kẻng báo động chiến đấu. Không hề lưỡng lự, Cát chạy ngay về khẩu đội cao xạ của mình phát lệnh nổ súng. Sau này so giờ tính phút cụ thể thì biết chính khẩu pháo cao xạ của Phan Đăng Cát đã bắn loạt đạn đầu tiên mở màn cho hơn 3.000 ngày đêm miền Bắc đánh trả cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân của Mỹ. Anh Phan Đăng Cát đã hy sinh ngay trong trận đánh đó và trở thành người liệt sỹ đầu tiên trong thiên trường ca miền Bắc quyết chia lửa cùng miền Nam.
Ở Hà Nội, nhiều người gọi đoàn khách về thăm thủ đô nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày Quốc khánh là “Đoàn nhân chứng và Sự kiện”. Sự kiện thì đúng rồi còn Nhân chứng thì đối với ai đây? Với những người Hà Nội tuổi trên dưới 50 như chúng tôi, những tên tuổi kia, những gương mặt ấy quá đỗi gần gụi, thân yêu, là hình ảnh của ngày hôm qua, hình ảnh tuổi trẻ của thế hệ mình.
Trong buổi đón tiếp đoàn ở Nhà máy ô tô Hòa Bình, mấy cô thợ trẻ cứ lúng túng mãi không biết xưng hô với chị Nguyễn Thị Thanh, vợ của anh hùng liệt sỹ Nguyễn Viết Xuân ra sao. Đứng trước mặt các cô là người đàn bà nông dân bé nhỏ, vấn khăn vành dây, gọi là cô cũng được, gọi là bà cũng xong. Đun đẩy nhau mãi, cuối cùng một cô thợ mạnh dạn lên tiếng:
-Dạ, dạ… Trong ảnh, liệt sỹ Nguyễn Viết Xuân rất trẻ, rất đẹp trai, không thể gọi bằng tiếng “chú”, tiếng “bác” được ạ...
Chị Thanh cười buồn, gỡ thế bí cho cô gái:
-Nếu anh Xuân còn sống, năm nay cũng 63 tuổi rồi!
... Nguyễn Viết Xuân, người đã xẹt qua cuộc đời biết bao cô gái, chàng trai những năm 1960 như một ánh sao băng và để rồi in đậm trong tâm tưởng họ tiếng hô bất tử: “Nhắm thẳng quân thù mà bắn!”.
-Thưa bác Thanh - vẫn cô gái lúc nãy lên tiếng - Bác còn nhớ kỷ niệm những chuyến về phép cuối cùng của bác Xuân không ạ?
- Nhớ chứ! – Chị Thanh đáp - Hạn phép là 10 ngày, anh ấy chỉ ở nhà hết ngày thứ 8 là ba lô, khăn gói lên đường trở vể đơn vị rồi. Trong 8 ngày ấy anh Xuân đi thăm nội, ngoại; làng trên xóm dưới mất hết 5 ngày, 3 ngày còn lại nào cũng nhăm nhăm vác cày giong con bò ra đồng cày ruộng. Anh Xuân cứ lo tôi không cáng đáng nổi công việc nặng nhọc ấy.
La Thị Tám, o du kích nhỏ Kim Lai, Thái Văn A, Ngô Thị Tuyển, Trần Thị Thản- chính trị viên đơn vị pháo binh nữ huyện Ngư Thủy, Quảng Bình ..tất cả bây giờ mái tóc đã ngả bạc, đã trong ngoài 50 tuỗi...
Ngô Thị Tuyển, anh hùng khu Nam Ngạn-Hàm Rồng, kể lại chuyện các nhà báo nước ngoài đã thử chị, lấy một bao gạo, một bao khoai tây, mỗi bao nặng 50kg yêu cầu chị vác. Vì danh dự của người Việt Nam trước quốc tế (vì khi vác từng ấy khối lượng đạn pháo ở nơi trận địa, trong không khí chiến đâu lại là chuyện khác). Ngô Thị Tuyển đã nhấc được cả 2 bao tải ấy lên vai mà không hề khụyu chân. Chuyện này thì chúng ta đã biết. Một phần tư thế kỷ trôi qua, bây giờ chúng tôi được nghe người nữ anh hùng thổ lộ: “100kg vác chạy thì khác, còn vác đứng tại chỗ cho các nhà báo chứng kiến chụp ảnh, quay phim quả không đơn giản chút nào. Dạo đó văn hóa tôi thấp, tôi không giải thích nổi. Sau này được Đảng, Nhà nước cho học hết trình độ phổ thông, có chút kiến thức về vật lý tôi mới hiểu ra vì sao 2 bao tải ấy nặng đến như vậy!”.
Cũng ở vùng Nam Ngạn này còn có chị Bùi Thị Hiền. Từng ấy năm xông xáo tiếp đạn, tải thương, chỉ huy chị em nữ dân quân không thua kém gì những Hằng, những Tuyển. Trong câu chuyện kể hôm nay, bao giờ chị Hiền cũng nói với mọi người: “Nếu các anh chị, các em sống ở Nam Ngạn vào thời kỳ đó, gặp những tình huống như vậy, các anh chị, các em cũng làm và làm được như chúng tôi “.
Anh hùng Thái Văn A năm nay đã 53 tuổi, con trai đầu đã 34 (anh có 2 con trai). Anh tự hào vì đã làm “ngọn đèn đứng gác” ở ngoài đảo Cồn Cỏ (Vĩnh Linh) -nơi mưa bom bão đạn trút xuống hàng ngày 17 năm cả thảy. Hiện anh sống ở vùng bán sơn địa thuộc huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình. Hỏi, anh có vui lòng, mãn nguyện với cuộc sống cày cuốc sau ngày phục viên không. Thái văn A trả lời hồn nhiên: “Mình là anh nông dân, đánh xong giặc thì trở về tiếp tục nghề nông là vui nhất chứ cần chi nữa?”.
Tôi có mặt trong buổi lễ đón tiếp Đoàn của thày trò trường PTTH Việt Nam - BaLan, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Một em nữ sinh lớp 11 trong tà áo dài màu vàng cất tiếng hát đầy truyền cảm bài hát ca ngợi người thiếu niên anh hùng Nguyễn Bá Ngọc của nhạc sỹ Mộng Lân. Tất cả khách lẫn chủ bỗng rưng rưng vì mãi đến bây giờ họ mới chợt nhớ lại lời và giai điệu của bài ca vẫn thường hát năm xưa:
… anh qua đời, gương anh còn soi
… chí anh hùng như Nguyễn Bá Ngọc thật vinh quang.

Bài ca vừa dứt, thầy Hiền, Hiệu trưởng dắt một cụ già lên bục giới thiệu với mọi người. Cả mấy gian hội trường ắng lặng trong giây lát. Đó chính là cụ thân sinh ra Nguyễn Bá Ngọc.
-Thưa ông , sinh thời khi chú Nguyện Bá Ngọc còn sống, ông yêu quý nhất đức tính gì ở chú ấy ạ? – Một em học sinh cất tiếng.
- Ông quý nhất đức tính thương yêu cha mẹ, anh em, bà con làng xóm của Ngọc.
- Ông còn lưu giữ được kỷ vật gì của chú Nguyễn Bá Ngọc không ạ?
Ông cụ bỗng trở nên lúng túng nom thật tội.
-Sau khi chú Ngọc hy sinh, mẹ chú ấy cũng không sống nổi, các anh của Ngọc cũng lần lượt theo nhau nhập ngũ. Nhiều sự việc xẩy ra quá! Với lại bom đạn cũng nhiều quá. Ông không còn giữ được kỷ vật gì của Ngọc cả.
Tôi đã bỏ ra những buổi chiều, buổi tối dạo chơi với các thành viên trong đoàn trên những đường phố thanh bình, yên ả của Hà Nội. Không có gì lạ khi nhiều người đi ngược chiều không nhận ra Thái Văn A, La Thị Tám, Ngô Thị Tuyển, Bùi Thị Hiền… dù chắc chắn nhiều người đã từng biết mặt họ, hành động quả cảm của họ qua các trang báo, cuốn phim. Các anh, các chị, các bác là người của một đoạn đời đã lật sang trang ư? Cũng có thể như vậy! Nhưng chỉ cần ngồi trò chuyện dăm ba phút với họ, nước mắt cứ muốn trào ra, bởi lẽ mọi suy nghĩ, mọi chiêm nghiệm, quan sát của các bác, các anh, các chị vẫn trong sáng, tròn trịa, đầy ắp tin yêu, nghĩa tình như hai mươi nhăm, ba mươi năm trước...
Còn rất nhiều việc, nhiểu người, nhiều chuyện tôi muốn kể về chuyến tái ngộ này, nhưng xin dừng ở câu chuyện về nữ anh hùng lao động Hoàng Thị Liên. Những năm bom rơi đạn nổ, chị Liên đảm nhiệm cương vị cửa hàng trưởng cửa hàng ăn uống ở phà Bến Thủy (Nghệ An). Bao nhiêu đoàn xe, bao nhiêu tiểu đoàn, trung đoàn lính đã qua đây để vào chiến trường. Thành tích và chiến công của bến phà này, của bản thân chị Liên sợ kể ra đây quá dài. Chị Hoàng Thị Liên được tuyên dương anh hùng năm 1985. Trong danh sách những anh hùng được tuyên dương kỳ ấy có một người con gái khác tên là Hoàng Thị Tuất, Giám đốc nông trường cà phê DakMin (DakLak). Họ, tên, chức vụ thì đúng em gái của mình rồi - chị Liên nghĩ - nhưng chả nhẽ một nhà hai chị em ruột đều là anh hùng sao? “Thời đạn bom mình hành động như ri, như ri đã là một nhẽ. Còn bây giờ là thời bình, nhiều thử thách lắm, làm sao dì ấy vươn lên được?” Mãi đến khi các chị ở Hội Liên Hiệp Phụ nữ Việt Nam đưa chị Hoàng Thị Liên tới gặp chị Hoàng Thị Tuất, chị Liên mới tin rằng đó là em gái mình.
... Những buổi chiều, buổi tối thư thả ngồi trò chuyện với Kim Lai, La Thị Tám, Thái Văn A, Nguyễn Văn Giảng… tôi như vỡ ra điều này: Dù sống ở những miền quê khác nhau, dù sinh ra và lớn lên với những gốc cội khác nhau, chúng tôi vẫn gắn bó với nhau bởi những kỷ niệm của một thời yên hàn. Ai mà chẳng có một buổi sáng, buổi trưa được quàng lên cổ tấm khăn quàng đỏ dưới bóng rợp của cây đa làng hay giữa mảnh vườn hoa thành phố lốm đốm nắng. Chúng tôi nhớ lại những bài hát về đất nước hòa bình dựng xây cuối những năm 1950 đầu những năm 1960. Nhiều hơn cả vẫn là những kỷ niệm của một thời học trò: Nhớ những Tử Trực, Hớn Minh, nhớ bài thơ “Quê hương” của nhà thơ Giang Nam, nhớ mối tình lãng mạn của Paven và Rita trong “Thép đã tôi thế đấy”; nhiều nhất là nhớ tới gương mặt, giọng nói của thầy cô mà mình yêu mến, kính trọng, của lũ bạn bè nhi nhô, lúc nào cũng thấy đói bụng, mà vẫn biết chia nhau từng củ khoai, từng bắp ngô..Và qua bao năm tháng, qua thử thách của lửa đạn, qua những thiếu thốn khó khăn “gạo tem, dầu phiếu” những năm sau chiến tranh, để đến tận bây giờ chúng tôi như mới hiểu ra: cái lõi cốt làm nên hành động anh hùng, sẵn sàng xả thân vì độc lập-tự do của Tổ quốc chính là phẩm giá làm người mà thế hệ chúng tôi đã được xã hội nói chung, nhà trường nói riêng vui đắp, trui rèn trong suốt nhiều năm trước khi chiến tranh trùm màn khói đen tàn khốc lên quê hương, xứ sở…

(từ một cuốn sổ ghi chép cũ)

Bài viết liên quan

Xem thêm
Tàn thu vắng bóng - Tản văn của Đặng Tường Vy
 Châu Âu thật tuyệt với bốn mùa rõ rệt. Mùa nào cũng có nét quyến rũ riêng, làm người tha hương vơi đi nỗi buồn dịu vợi. ..
Xem thêm
Nhớ Nguyễn Quốc Trung
Nhà văn Bích Ngân, Chủ tịch Hội nhà văn TP HCM gọi điện thông báo với tôi về việc Hội nhà văn TP HCM phối hợp cùng Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức tưởng nhớ nhà văn Nguyễn Quốc Trung nhân hai năm ông rời cõi tạm và đặc biệt nhà văn được truy tặng giải thưởng Nhà nước về tiểu thuyết Đất không đổi màu.
Xem thêm
Mùa thu đây hỡi cờ hồng vàng sao – Tản văn của Lê Xuân
Tháng Tám cũng là tháng giữa thu, tháng để các em thiếu niên, nhi đồng phá cỗ trông Trăng, mừng Tết Trung thu, rước đèn, múa lân dưới trăng thanh, gió mát…
Xem thêm
Cửa bể Cần Giờ | Bút ký của Nguyễn Minh Ngọc
Bài đăng Báo Văn Nghệ (Hội Nhà văn VN) số 35+36, ra ngày 2-9-2023
Xem thêm
Tản Mạn Vàm Cỏ Đông - Tùy bút Trần Thế Tuyển 
Có lẽ trên trái đất này, không ở đâu cái giá để có độc lập dân tộc, tự do hạnh phúc lại đắt như ở Việt Nam. Để có hình hài đất nước, vị thế quốc gia như ngày hôm nay đã có hàng triệu triệu người con ưu tú ngã xuống. Máu xương của họ tan biến thành đất đai tổ quốc và hồn của họ bay lên hóa linh khí quốc gia.
Xem thêm
Người lính làm nên huyền thoại
Phải nói, Trần Ngọc Trác là một cây viết tâm huyết với đề tài truyền thống cách mạng. Gặp  ông cách nay đã vài chục năm, tôi vẫn nhớ dáng đi nhanh nhẹn, giọng nói trầm ấm và ánh nhìn thân thiện của nhà văn. Lúc ấy Trần Ngọc Trác là cán bộ của Đài Phát thanh- Truyền hình tỉnh Lâm Đồng. Đã đọc Trần Ngọc Trác nhưng thực sự khi ông đảm nhiệm làm phim Người lính làm nên huyền thoại   về Đại tá Lê Kích (cậu ruột thứ Tám của vợ tôi), chúng tôi mới gắn bó  như anh em thân thiết. 
Xem thêm
Trúc Phương, người mà tôi muốn nói nhiều hơn những người khác
Bài phát biểu xúc động của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều
Xem thêm
Anh hùng Võ Thị Sáu trong tâm thức người đang sống
Ký của nhà văn Trầm Hương trên báo Phụ Nữ Việt Nam
Xem thêm
Dân lo | Bút ký của Lê Thanh Huệ
Bài đăng báo Văn Nghệ số 30 (3309) ngày 29-7-2023
Xem thêm
Kỷ niệm về nhà văn Minh Khoa với Trần Thế Tuyển
Sau giải phóng Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn Miền Nam, thống nhất đất nước(30-4-1975), từ Trung đoàn 174, tôi được điều về học tập và làm việc ở báo Quân khu 7. Vừa đặt ba lô trong tòa nhà kiến trúc kiểu Pháp tại căn cứ Trần Hưng Đạo, nơi đặt tổng hành dinh của Bộ Tổng Tham mưu quân đội chế độ cũ, anh Mai Bá Thiện lúc đó phụ trách báo Quân khu 7 dẫn tôi ra mắt Phó phòng Tuyên huấn Quân khu - nhà văn Minh Khoa, lúc đó trực tiếp làm Tổng biên tập báo Quân khu 7. Từ lâu đã nghe danh nhà văn Minh Khoa với những truyện ký viết về Anh hùng, dũng sĩ diệt Mỹ, đặc biệt vở kịch Người ven đô với nhân vật Ông Tám Khỏe đậm đặc chất nông dân Nam Bộ, nay được gặp trực tiếp tác giả, tôi không khỏi bồi hồi, xúc động.
Xem thêm
Lòng tri ân luôn là giá trị bất bất biến
Bài đăng Tạp chí Linh khí Quốc gia kỷ niệm 76 năm ngày Thương binh - liệt sĩ
Xem thêm
Mây trắng trong vườn chè ông nội | Tản văn của Trang Thanh
tôi hay nhớ những gương mặt người thân đã khuất bóng...
Xem thêm
Hoa biên cương: Nấm độc trên đất Tây Nguyên (Kỳ cuối)
Chúng tôi cũng dự nhiều cuộc họp ở các buôn làng Tây Nguyên, chứng kiến những người lầm lỡ vượt biên hay đi biểu tình gây rối được kiểm điểm trước các già làng và bà con trong buôn. Ai cũng cúi đầu xấu hổ, xin được tha thứ, hứa sẽ không tái phạm.
Xem thêm
Hoa biên cương: Lương y của buôn làng (kỳ 4)
Bút ký nhiều kỳ của nhà văn Lại Văn Long
Xem thêm
Hoa biên cương: Từ biên giới đến hải đảo (Kỳ 2)
Bảo vệ biên cương và tình hữu nghị
Xem thêm
Vọng âm buồn | Hoàng Phủ Ngọc Phan
Một loài chim có tiếng kêu nghe như Ơi đò Ca Cút
Xem thêm
Đêm Tháng Giêng - Tản văn Trần Bảo Trân
Ngày anh cưới chị, tôi còn nhỏ. Gần bảy thập kỷ trôi qua, tôi vẫn còn nhớ như in, ngôi nhà lợp rạ, vách đất của chúng tôi có khách là một người lính. Anh bận bộ quân phục màu cỏ úa với chiếc mũ mềm có ngôi sao lấp lánh. Ngày chị đi lấy chồng, tôi tiễn chị ra cánh đồng, cuối bờ tre gai thường ngày ríu rít tiếng chim. Cầm tay tôi, chị khóc. Em ở nhà nhé. Nếu rảnh chị sẽ về chơi với em. Mắt nhoà, tôi cố giữ không để lệ rơi.
Xem thêm