TIN TỨC

Cảm xúc hoài hương trong thơ Quang Chuyền

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-05-13 17:10:13
mail facebook google pos stwis
318 lượt xem

TRẦN KHOÁI

Xa quê, nhớ quê là lẽ đương nhiên. Nhưng cái nhớ, cái thương tới mức trăn trở, đau đáu, da diết một đời là chuyện chúng ta cần quan tâm chia sẻ. Nói những câu “bâng quơ” này là khi tôi nghĩ về nhà thơ Quang Chuyền cùng với gia tài thơ ông có.

Sinh nãm 1945, tính đến nay dù vui hay buồn thì ông cũng đã vin vào cánh cửa “bát tuần” của đời người. Chuối chín cây hay chín buồng cũng đã đều là chín, ấy thế mà ông vẫn còn biền biệt phương Nam (ông ở quận Tân Bình, TP.HCM). Quê nhà với ông vẫn là nơi chân trời, góc biển (ông là người làng Gốm, xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc). Đeo cái ba lô đựng tuổi 80 liệu có kịp về. Nghĩ như thế và cảm như thế, tôi ngồi đọc thơ ông qua tuyển tập “Quang Chuyền Thơ và Đời” – NXBHNV ấn hành năm 2023.

Tôi và Quang Chuyền là hiện tượng “Văn Kỳ Thanh”, chả là năm 1968 về nhận công tác ở ty giáo dục tỉnh Tuyên Quang (Nay là Sở GD-ĐT tỉnh Tuyên Quang) ngày nào cũng lên phòng tổ chức để xem họ quyết định về đâu. Nhớ lại một chiều cuối hạ, nhìn thấy tờ báo Tuyên Quang để lăn lóc ở ghế ngồi, khi về tôi cầm tờ báo theo. Một mình ra ngồi ở bến phà Nông Tiến. Giở đọc tờ báo, gặp bài thơ “Chiều Thành Tuyên” của ông. Bài thơ viết theo dạng thơ tự do. Trong sáng, dễ nhớ, câu chữ dung dị, gợi cảm, về một chiều thành Tuyên ngày đầu của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước: “Chiều thành Tuyên/ Nắng khép dần cửa sổ/ Đáy sông Lô nở chùm hoa lửa/ Chim về sải cánh qua soi…”. Đây là vẻ đẹp muôn chiều của Thành Tuyên. Nhưng chiều nay đã có biến động: “…Từ bữa quê ta bước vào kháng chiến/ Ngày như ngắn lại- chóng buông chiều…”

Đúng là không khí chiến tranh đã phả sức nóng vào cái thị xã miền núi phía Bắc vốn rất yên lành

Đọc thơ nhau từ ngày ấy - thế mà 42 năm sau (2010), tôi và Quang Chuyền mới biết mặt nhau và nắm tay nhau. Đấy là cái ngày ông và nhà thơ Gia Dũng đến nhà tôi. Chạy ra cổng đón khách. Ông Gia Dũng giới thiệu: “Quang Chuyền vừa ở TP.HCM ra. Cùng quê ông. Nên dẫn đến đây, anh em gặp nhau…”

Tôi bắt tay Quang Chuyền và tự thú – Nghe về ông nhiều, đọc thơ ông ngày tới Tuyên Quang, thế mà hôm nay mới gặp. Quang Chuyền cười nhỏ nhẹ cảm ơn. Nhìn vào mắt ông tôi đã cảm tình, vì ở đấy toát lên sự ấm áp, dịu dàng, chân thực…

Nhà thơ Gia Dũng nói với tôi: Lão này con nhà lính nhưng nên gọi là “chị” Chuyền, lúc nào cũng thì thầm nhỏ nhẹ, chứ không chém to, kho mặn như bọn mình

Rồi lại là chia tay mãi tới năm 2020, tới Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ 10 tôi mới gặp lại Quang Chuyền.

Thật may trong những năm xa ấy, mỗi khi ra tập thơ mới nào ông cũng gửi tặng tôi với sự trân trọng “Của tin gửi một chút này làm ghi”

Tôi đã đọc – để đó rồi thấm thía sự đằm thắm trữ tình cùng vẻ đẹp u hoài, rung cảm, ám ảnh lòng người trong thơ Quang Chuyền. Bằng cảm thức của mình tôi nhận ra, thơ Quang Chuyền đầy nét thân phận, kiếp người: “Đời người nay đó mai đây/ Văn thơ chẳng thể lấp đầy nhớ thương” (Nẻo về). Có thể nói có điều này bởi lẽ nó được nuôi dưỡng bằng nguồn cảm xúc chân thành, gan ruột… nhuốm đẫm mỗi câu thơ, bài thơ của ông.

Thơ Quang Chuyền không triết lý ồn ào nhưng chan chứa những trải nghiệm của đời người. Vì thế ông viết bất kỳ đề tài nào người đọc cũng dễ dàng tiếp nhận, hòa nhập, chia sẻ…

Nhớ lại ngày giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh nói với tôi về nhà văn Nguyễn Tuân. Cụ khen Nguyễn Tuân rất sành chữ nghĩa. Ví như Nguyễn Tuân thích gọi người làm thơ là thi nhân, hơn gọi là thi sĩ. Cụ cho rằng thi sĩ chỉ mang nghĩa là người làm thơ, còn thi nhân nghĩa nó rộng hơn nhiều. Vì người thơ – điều ấy nói lên thơ của họ là hồn vía, nhân cách, phẩm giá của họ. Chả thế mà Hàn Mặc Tử đã viết: “Người thơ phong vận như thơ ấy…”. Nếu là vậy, Quang Chuyền thuộc “tạng” nhà thơ mang đầy đủ nghĩa thi nhân

Vì lẽ này nên khi đọc thơ Quang Chuyền đòi hỏi chúng ta cần biết đôi điều về cuộc đời của nhà thơ. Bởi vì cuộc đời ấy đã khúc xạ làm nên thi nghiệp đáng quý của ông.

Từ nhiều nguồn, trong đó có những điều chính nhà thơ tâm sự. Năm 10 tuổi ông đã trải qua biến cố gia đình đau xót. Cha ông bệnh trọng ra đi năm cụ mới 36 tuổi. Nhà 5 anh chị em, tất cả trông vào gồng gánh chạy chợ của mẹ, cùng với đôi ba sào ruộng. Mẹ đành khuyên Quang Chuyền thôi học, để giúp mẹ việc nhà và trông nom các em.

Thần đồng hay là bất hạnh - Cậu bé Quang Chuyền làng Quan Tử - Gốm Sơn Đông đã định phận đời mình năm mới 10 tuổi, bằng lời cầu xin: “Mẹ cho con lên Tuyên Quang sống dựa ông bà ngoại và cậu để con được đi học. Con sẽ làm thêm để có tiền sách, bút…Mẹ không phải lo nhiều cho con…”

Tôi cho rằng cuộc chia ly của Quang Chuyền ở tuổi lên 10, với quê, với mẹ, với các em…để lên xứ lạ Tuyên Quang chính là dấu ấn, là bước ngoặt…ám ảnh suốt cuộc đời ông. Tôi cũng là một đứa trẻ như vậy nên rất hiểu nội ám ảnh này cùng những hệ lụy của nó. Mười tuổi tôi cũng xa quê, xa mẹ, xa em… Cho tới hôm nay vẫn nhớ như in cái ngõ Bảo toàn cuối phố Khâm Thiên - Hà Nội, phía bên kia là Ô Chợ Dừa. Tôi học ở trường cấp 1 Trung Phụng (nay gọi là trường tiểu học) ở cuối ngõ chợ Khâm Thiên. Con đường đê La Thành tôi đi học, chắc bây giờ đã khác. Ngày xưa nó là làng, xóm. Bao nhiêu nước mắt tôi đã rơi trên đoạn đường ấy, vì nhớ quê, nhớ mẹ, nhớ em…

Vẫn biết được anh chị con ông bà chăm sóc, nhưng lúc nào cũng mặc cảm cô đơn, côi cút thua thiệt đầy ắp trong lòng. Có lẽ những điều này ở tuổi trưởng thành người ta có cách giải tỏa, nhưng đối với trẻ con nó trở nên bất lực vì thế càng tội nghiệp.

Trở lại với Quang Chuyền. Học hết cấp 2 – ông rẻ ngang vào trường trung cấp sư phạm Việt Bắc (ngày ấy vẫn còn khu tự trị Việt Bắc) - Chắc chắn ông mong một ngày ra trường làm anh giáo viên hiền lành sớm tối ở một mái trường xa, gần nào đó. Sẽ có lương, sẽ có dịp về quê - Cái làng Gốm Quan Tử ở tận cuối sông Lô…

Ông sẽ mua cho các em manh quần, tấm áo, gói quà. Đưa cho mẹ dăm ba đồng thêm thắt. Ông sẽ đi dọc đường làng để người ta nhận ra mình đã lớn khôn…

Không rõ ra trường ông đã kịp làm ông giáo ngày nào chưa. Chỉ biết ông từng là biên tập viên của tờ tạp chí Văn nghệ Việt Bắc. Và cũng từ đây ông bước vào cuộc đời quân ngũ. Không phải riêng ông mà cả thế hệ của ông đã nhiệt tình, tự nguyện làm công cuộc “xẻ dọc Trường Sơn…” cứu nước, với lẽ sống “không có gì quý hơn Độc lập, Tự do”.

Chiến tranh với bao sự khốc liệt của nó… Quang Chuyền đã có mặt khắp các chiến trường Nam, Bắc để cùng đồng đội và nhân dân làm nên ngày 30/4/1975 ca khúc Khải Hoàn.

Có thể nói những năm tháng chiến tranh có rất nhiều mất mát. Song điều Quang Chuyền vẫn giữ nguyên vẹn cho mình, cho thơ, đấy là cái “giọng quê”, “điệu quê”, “hồn quê”, “hồn nhớ”, “hương tâm”… bền bỉ, dịu dàng, da diết chân thật như thể thơ lục bát muôn đời của dân tộc.

Tất cả những điều đó đã làm nên “cái tạng” Quang Chuyền và thơ ông.

Trong sáng tạo văn chương, đã từng có ý kiến cho rằng: cái “tạng” riêng của mỗi người, chỉ nên sống và viết theo cái “tạng” của mình. Đó chính là điều mà nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng đề cập “… Người ta viết văn từ những ấn tượng lúc lên 5 lên 7 chứ không phải ba mươi, ba nhăm và cái đó không thay đổi được.

Cái đào tạo ra tài năng, phong cách, sở trường là những hoàn cảnh sống từ lên 5 lên 7 – Cánh đồng ấy, bờ tre ấy, cái ao ấy… Sau này thay đổi quan điểm, lập trường chứ không thay đổi cái phạm vi đề tài, cái cách viết, cách cảm xúc, cách nghĩ. Không nên bắt họ thay đổi. Bắt vô ích…” (Hoài Thanh)

Đúng là Quang Chuyền đã viết bằng cái “tạng” của hồn mình, cái điệu hồn, “Thân phận, kiếp người” mang đậm chất ly quê.

Trên dưới 20 tập thơ Quang Chuyền tôi đã đọc. Điều dễ nhận ra ở thơ ông hướng nội rất sâu, hình như nhà thơ chỉ nhìn vào lòng mình và kể chuyện lòng mình. Với ông thơ không chỉ là chuyện văn chương mà nó còn là nguồn sống, lẽ sống, đời sống ông với quê hương…

Đọc thơ Quang Chuyền luôn có cảm giác - thơ ông mang nhịp thở nhân gian, nhịp thở người bộ hành đường trường mưa nắng. Những cảm giác có thực ấy cứ thấm dần, thấm dần để rồi ta phải thốt lên: “Thơ Quang Chuyền hay, thấm thía đến mức đau đớn”.

Hãy nghe một đoạn ông viết về mẹ: … “Bao nhiêu chỗ ướt mẹ nằm/ Câu thơ ai viết đằm đằm mưa rơi/ Cha đi tuổi mẹ ba mươi/ Một thân lầm lụi chống trời nuôi con…” (Con cầu mong mẹ)

Còn đây là lần ông về thăm làng cũ: “Nền nhà xưa ở xóm Đông/ Tìm về nơi ấy tôi không còn nhà/ Tôi đi biền biệt ngày xa/ Thăm quê mà chả nhận ra người làng…” (Nẻo về)

Khó mà cầm lòng khi đọc những câu thơ như thế.

Đây lại là một đoạn đường ông đưa tiễn cậu mình về nơi yên nghỉ cuối cùng: “Cháu đưa tiễn cậu chiều nay/ Cậu ơi còn đoạn đường này nữa thôi…/ Nén nhang cây nến lập lòa/ Tưởng nghe tiếng cậu- Chuyền à khỏe không?” (Chiều đưa tiễn cậu)

Đoạn thơ làm ta nhớ tới câu nói của một nhà văn: “Coi người chết như vẫn sống, không phân biệt âm dương. Thế mới là yêu thương sâu sắc…”

Nhớ lại ngày tập thơ “Lục bát không mùa” cùa ông ra mắt bạn đọc (2011). Người đọc đều khẳng định: “Quang Chuyền viết thơ lục bát rất thành công”. “… Ông là một trong những nhà thơ viết lục bát xuất sắc trong các nhà thơ đương đại” (Nguyễn Quang Thiều)… Ông là người “đã đóng góp tiếng nói riêng vào tiếng nói chung nhằm đưa thơ lục bát cũ càng lên tầm cao mới mẻ hiện đại và sang trọng…” (Văn Lê).

Với tôi Quang Chuyền và thơ lục bát là một. Bởi nhẽ ông đã uống dòng sữa ấy, ông nuôi hồn mình từ những “…Chiều chiều ra đứng ngõ sau… Anh đi anh nhớ quê nhà…Con cò đi đón cơn mưa…Con cò lặn lội bờ sông…”. Những âm hưởng lục bát, những nỗi niềm lục bát nghìn đời đấy là Quang Chuyền- Đấy là thơ ông… Với những suy nghĩ như thế việc Quang Chuyền thành công với thơ lục bát của dân tộc là lẽ đương nhiên.

Trong tuyển tập “Quang Chuyền Thơ và Đời” – Nhà thơ đã cặm cụi chia thơ và đời thành ba phần theo dòng chảy thời gian với những tiêu đề để đánh dấu mỗi giai đoạn. Đó là “Từ nguồn” (1965-1985); “Theo sông” (1985-2010); “Về biển” (2010-2023)

Còn tôi bằng những gì biết về thơ và đời ông luôn có suy nghĩ: Quang Chuyền là người từ tuổi ấu thơ đã bị dẫn thẳng vào “biển đời” – mênh mông sóng gió, được, mất, hơn thua, ngậm ngùi, kiêu hãnh… Là những năm tháng chiến tranh khốc liệt, là sự vật vã mưu sinh, là bao ân tình chưa trả, bao mong ước chưa thành…

Với quang Chuyền hôm nay ông đã đi và đã tới. Đường binh nghiệp cũng đã khép lại. Là một nhà văn, ông có cả một gia tài văn chương mà người đọc, bạn bè nể trọng. Cuộc sống gia đình vợ chồng hòa hợp, con cháu trưởng thành… Thế cũng là đủ, thế cũng là vui với một người đã ở tuổi già…

Song vẫn còn – còn một khỏang trống không lúc nào Quang Chuyền nguôi ngoai. Đấy là niềm khao khát về lại làng xưa - bến cũ… Khoảng trống này hình như càng về già nó càng rộng ra, lớn lên. Vì thế nó trở nên dóng diết, bất lực. Nó như món nợ ân tình mà con người phải trả, phải về mới trút được mặc cảm… “Nắng mưa thui thủi quê người một thân” (Nguyễn Du)

Có thể coi bài thơ “Nẻo về” của ông là một minh chứng. Ôi! Chỉ một “Nẻo về” thật nhỏ nhoi, thật khiêm nhường. Ấy thế mà xa quá, khó thế: “Ngoài đời hay ở chiêm bao/ Sông Lô thường vỗ sóng vào đời tôi/ Bài thơ viết thủa thiếu thời/ Đọc lên lại gặp bời bời nỗi quê/ Núm nhau với một cõi về/ Tôi còn chôn ở chân tre của làng/ Tôi còn khu mộ Chùa Am/ Vắng thưa màu khói chân nhang thường ngày…” (Nẻo về)

Cúi đầu trước đoạn thơ của Quang Chuyền làm tôi nghĩ về bài thơ “Bên kia sông Đuống” của thi nhân Hoàng Cầm và nhận ra: Hoàng Cầm cũng đã từng làm cho mình một cuộc trở về kinh Bắc trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp đó sao!
Từ đó tôi tin sự dang dở: với quê với làng của Quang Chuyền, sẽ cho ta chờ đợi những sáng tạo mới của ông.

Quê 4-2024
T.K.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Minh Châu và sự đổi mới tư duy trong việc phản ánh hiện thực chiến tranh cách mạng
Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Sự nghiệp văn học của ông không chỉ gắn liền với cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc ở những năm kháng chiến mà còn gắn với những tháng năm đầy ưu tư của thời hậu chiến với bước chuyển dạ diệu kỳ, chuẩn bị cho tiến trình đổi mới đất nước về mọi phương diện, trong đó có văn học.
Xem thêm
Hữu Thỉnh và chiến sĩ xe tăng
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước gian nan khốc liệt của dân tộc Việt Nam trong gần một phần tư thế kỷ như một bản trường ca âm vang giai điệu trầm lắng bi hùng, đã phản ánh phẩm chất cao đẹp sáng ngời của mọi tầng lớp nhân dân ở cả ba miền. Những người tham gia vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc, cầm súng trực diện đấu tranh với quân thù có những chiến sĩ làm văn nghệ thuộc đủ binh chủng như: Nguyễn Thi (1928-1968), Lê Anh Xuân (1940-1968), … và Hữu Thỉnh. Trong đó, xuất thân từ một chiến sĩ xe tăng, Hữu Thỉnh được coi là một gương mặt thơ xuất sắc nổi trội trong nền văn học có lửa của giai đoạn 1954-1975.
Xem thêm
Lê Quang Sinh và nghệ thuật phê bình thơ
Bài viết của PGS.TS Hồ Thế Hà
Xem thêm
Anh nằm đây – trẻ mãi tuổi hai mươi
Bài viết về thơ Trần Ngọc Phượng
Xem thêm
Lê Tiến Vượng và hai tập lục bát liền hơi
Bài viết của nhà thơ Vũ Quần Phương về hai tập lục bát của Lê Tiến Vượng xuất bản cuối năm 2016 (Lục bát khóc cười) và cuối năm 2018 (Lục bát phố).
Xem thêm
“Gặp” lại nhà văn Lưu Thành Tựu với “Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5”
Nhà văn Lưu Thành Tựu hiện là phó ban điều hành phân hội văn học, hội văn học nghệ thuật Bình Dương. Truyện ngắn Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5 của anh là tác phẩm đạt giải tại Cuộc thi truyện ngắn Đông Nam bộ năm 2022, đã đăng trên vanvn.vn và Tạp chí Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh như một sự ra mắt sau khi tác giả được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam.
Xem thêm
Chất Folklore trong Lục bát khóc cười và Lục bát phố
Cầm hai tập thơ thuần thể loại lục bát quen thuộc, nghĩ đọc cũng hơi ngại bởi cứ đều đều một điệu, dễ chán. Nhưng đọc một vài bài mở đầu trong tập “Lục bát khóc cười” và “Lục bát phố” của Lê Tiến Vượng thì cảm giác ấy dần mất đi và thay vào đó là cảm giác hào hứng và thú vị.
Xem thêm
Trăn trở sự tồn tại người - Gía trị nhân bản trong thơ Văn Cao
Đọc thơ Văn Cao, ở nhiều thi phẩm như: Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Những người trên cửa biển, Khuôn mặt em, Một đêm đàn lạnh trên sông Huế, Lá, Trôi, Thời gian, Cánh cửa, Thu cô liêu, Năm buổi sáng không có trong sự thật, Ba biến khúc tuổi 65, Linh cầm tiến… bạn đọc cũng có thể thấy sự đa dạng cung bậc cảm xúc, có xôn xao, có sâu lắng bâng khuâng… nhưng dường như chủ đạo vẫn là những thì thầm tự vấn, suy tư trăn trở, đau buồn và thậm chí nhiều khi hoang mang, kinh hãi, lo âu. Phải chăng, tất cả những thể nghiệm cảm xúc nội tâm ấy bắt nguồn sâu xa từ những “chấn thương” tinh thần của tác giả bởi tác động của hoàn cảnh sống? Và dưới tầng sâu lớp ngôn từ của mỗi thi phẩm ẩn giấu bao mỹ cảm mà chúng ta cần suy ngẫm“giải mã”?
Xem thêm
Nguyễn Trọng Tạo mà đời vẫn say, mà hồn vẫn gió
Hôm nay 12/6, Nhà lưu niệm nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo (1947-2019) được khánh thành tại đội 6, xã Diễn Hoa, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
Xem thêm
Số phận các nhân vật nữ trong tập truyện ngắn “Đảo” của Nguyễn Ngọc Tư
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư Sinh năm 1976 tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, là nhà văn, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Năm 2018, cô được trao Giải thưởng Văn học Liberaturpreis 2018 do Litprom (Hiệp hội quảng bá văn học châu Á, châu Phi, Mỹ Latin ở Đức) bình chọn, dựa trên việc xem xét các bản dịch tiếng Đức tác phẩm nổi bật của các tác giả nữ đương đại tiêu biểu trong khu vực. Giải thưởng được trao hàng năm nhằm vinh danh các tác giả nữ đến từ châu Á, Phi, Mỹ Latin, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) và vùng Caribe.
Xem thêm
Lê Khánh Mai và hành trình nhà thơ nữ bứt phá
Nhà thơ, nhà văn Lê Khánh Mai đến nay (năm 2024) đã ấn hành 12 đầu sách, trong đó có 7 tập thơ, 1 tiểu thuyết, 1 tập truyện ngắn, 1 chuyên luận văn học, 1 tập tiểu luận phê bình văn học, 1 tập tản văn và tuỳ bút. Sức sáng tạo ở một tác giả nữ như vậy là liên tục và rất mạnh mẽ. Thơ là thể loại chính của ngòi bút Lê Khánh Mai nhưng văn xuôi và lý luận, phê bình cũng đạt nhiều thành tựu. Tất cả làm nên tên tuổi của một nhà thơ, nhà văn tiêu biểu của tỉnh Khánh Hoà và của văn học Việt Nam hiện đại.
Xem thêm
Trần Đàm đi tìm một bản ngã
Đã ngoài tám mươi mà mỗi lần theo ông, cánh hậu sinh chúng tôi cách ông cả giáp vẫn thấy hụt hơi. Đúng là không nói ngoa cả khi leo dốc, đường trường lẫn khi viết lách, chơi bời.
Xem thêm
Đọc Người xa lạ của Albert Camus bằng chiếc gương soi của chủ nghĩa hiện sinh
Giàu Dương Nếu triết học cổ điển đề cao bản chất và dấn thân vào việc tìm kiếm những định nghĩa về bản chất, thì trào lưu hiện sinh tập trung vào sự tồn tại của bản thể, lấy đó làm điểm khởi nguyên cho mọi sự phóng chiếu vào thực tại khách quan. Người xa lạ (L’Étranger) của Albert Camus ra đời như một dấu ấn sâu sắc của triết thuyết hiện sinh ở giai đoạn nửa sau thế kỷ XX. Là một triết gia, nhà văn tài hoa, Camus đã mở ra những cánh cửa để người đọc bước vào thế giới của “kẻ xa lạ” Meursault – một người đàn ông tự mình chọn lấy thế đứng bên lề của xã hội. Hành trình của Meursault không đi tìm một kết luận duy nhất của sự tồn tại mà chỉ trình bày sự tồn tại như nó vốn là.
Xem thêm
Một thế giới rất ‘đời’ trong sáng tác của Tản Đà
Nhà thơ, nhà báo Tản Đà (SN 1889), quê làng Khê Ngoại, xã Sơn Đà, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây.
Xem thêm
Cây có cội, nước có nguồn
Nguồn: Báo Văn nghệ số 19/2024
Xem thêm
Khát vọng Dế Mèn
Sự ra đời của Giải thưởng Dế Mèn cùng với phát ngôn của đại diện Hội Nhà văn Việt Nam đã chạm đến khát vọng lâu nay vẫn nằm đâu đấy trong những người yêu và hiểu rõ hiện trạng văn học thiếu nhi nước nhà…
Xem thêm