TIN TỨC

Cảm xúc hoài hương trong thơ Quang Chuyền

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-05-13 17:09:17
mail facebook google pos stwis
1461 lượt xem

TRẦN KHOÁI

Xa quê, nhớ quê là lẽ đương nhiên. Nhưng cái nhớ, cái thương tới mức trăn trở, đau đáu, da diết một đời là chuyện chúng ta cần quan tâm chia sẻ. Nói những câu “bâng quơ” này là khi tôi nghĩ về nhà thơ Quang Chuyền cùng với gia tài thơ ông có.

Sinh nãm 1945, tính đến nay dù vui hay buồn thì ông cũng đã vin vào cánh cửa “bát tuần” của đời người. Chuối chín cây hay chín buồng cũng đã đều là chín, ấy thế mà ông vẫn còn biền biệt phương Nam (ông ở quận Tân Bình, TP.HCM). Quê nhà với ông vẫn là nơi chân trời, góc biển (ông là người làng Gốm, xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc). Đeo cái ba lô đựng tuổi 80 liệu có kịp về. Nghĩ như thế và cảm như thế, tôi ngồi đọc thơ ông qua tuyển tập “Quang Chuyền Thơ và Đời” – NXBHNV ấn hành năm 2023.

Tôi và Quang Chuyền là hiện tượng “Văn Kỳ Thanh”, chả là năm 1968 về nhận công tác ở ty giáo dục tỉnh Tuyên Quang (Nay là Sở GD-ĐT tỉnh Tuyên Quang) ngày nào cũng lên phòng tổ chức để xem họ quyết định về đâu. Nhớ lại một chiều cuối hạ, nhìn thấy tờ báo Tuyên Quang để lăn lóc ở ghế ngồi, khi về tôi cầm tờ báo theo. Một mình ra ngồi ở bến phà Nông Tiến. Giở đọc tờ báo, gặp bài thơ “Chiều Thành Tuyên” của ông. Bài thơ viết theo dạng thơ tự do. Trong sáng, dễ nhớ, câu chữ dung dị, gợi cảm, về một chiều thành Tuyên ngày đầu của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước: “Chiều thành Tuyên/ Nắng khép dần cửa sổ/ Đáy sông Lô nở chùm hoa lửa/ Chim về sải cánh qua soi…”. Đây là vẻ đẹp muôn chiều của Thành Tuyên. Nhưng chiều nay đã có biến động: “…Từ bữa quê ta bước vào kháng chiến/ Ngày như ngắn lại- chóng buông chiều…”

Đúng là không khí chiến tranh đã phả sức nóng vào cái thị xã miền núi phía Bắc vốn rất yên lành

Đọc thơ nhau từ ngày ấy - thế mà 42 năm sau (2010), tôi và Quang Chuyền mới biết mặt nhau và nắm tay nhau. Đấy là cái ngày ông và nhà thơ Gia Dũng đến nhà tôi. Chạy ra cổng đón khách. Ông Gia Dũng giới thiệu: “Quang Chuyền vừa ở TP.HCM ra. Cùng quê ông. Nên dẫn đến đây, anh em gặp nhau…”

Tôi bắt tay Quang Chuyền và tự thú – Nghe về ông nhiều, đọc thơ ông ngày tới Tuyên Quang, thế mà hôm nay mới gặp. Quang Chuyền cười nhỏ nhẹ cảm ơn. Nhìn vào mắt ông tôi đã cảm tình, vì ở đấy toát lên sự ấm áp, dịu dàng, chân thực…

Nhà thơ Gia Dũng nói với tôi: Lão này con nhà lính nhưng nên gọi là “chị” Chuyền, lúc nào cũng thì thầm nhỏ nhẹ, chứ không chém to, kho mặn như bọn mình

Rồi lại là chia tay mãi tới năm 2020, tới Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ 10 tôi mới gặp lại Quang Chuyền.

Thật may trong những năm xa ấy, mỗi khi ra tập thơ mới nào ông cũng gửi tặng tôi với sự trân trọng “Của tin gửi một chút này làm ghi”

Tôi đã đọc – để đó rồi thấm thía sự đằm thắm trữ tình cùng vẻ đẹp u hoài, rung cảm, ám ảnh lòng người trong thơ Quang Chuyền. Bằng cảm thức của mình tôi nhận ra, thơ Quang Chuyền đầy nét thân phận, kiếp người: “Đời người nay đó mai đây/ Văn thơ chẳng thể lấp đầy nhớ thương” (Nẻo về). Có thể nói có điều này bởi lẽ nó được nuôi dưỡng bằng nguồn cảm xúc chân thành, gan ruột… nhuốm đẫm mỗi câu thơ, bài thơ của ông.

Thơ Quang Chuyền không triết lý ồn ào nhưng chan chứa những trải nghiệm của đời người. Vì thế ông viết bất kỳ đề tài nào người đọc cũng dễ dàng tiếp nhận, hòa nhập, chia sẻ…

Nhớ lại ngày giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh nói với tôi về nhà văn Nguyễn Tuân. Cụ khen Nguyễn Tuân rất sành chữ nghĩa. Ví như Nguyễn Tuân thích gọi người làm thơ là thi nhân, hơn gọi là thi sĩ. Cụ cho rằng thi sĩ chỉ mang nghĩa là người làm thơ, còn thi nhân nghĩa nó rộng hơn nhiều. Vì người thơ – điều ấy nói lên thơ của họ là hồn vía, nhân cách, phẩm giá của họ. Chả thế mà Hàn Mặc Tử đã viết: “Người thơ phong vận như thơ ấy…”. Nếu là vậy, Quang Chuyền thuộc “tạng” nhà thơ mang đầy đủ nghĩa thi nhân

Vì lẽ này nên khi đọc thơ Quang Chuyền đòi hỏi chúng ta cần biết đôi điều về cuộc đời của nhà thơ. Bởi vì cuộc đời ấy đã khúc xạ làm nên thi nghiệp đáng quý của ông.

Từ nhiều nguồn, trong đó có những điều chính nhà thơ tâm sự. Năm 10 tuổi ông đã trải qua biến cố gia đình đau xót. Cha ông bệnh trọng ra đi năm cụ mới 36 tuổi. Nhà 5 anh chị em, tất cả trông vào gồng gánh chạy chợ của mẹ, cùng với đôi ba sào ruộng. Mẹ đành khuyên Quang Chuyền thôi học, để giúp mẹ việc nhà và trông nom các em.

Thần đồng hay là bất hạnh - Cậu bé Quang Chuyền làng Quan Tử - Gốm Sơn Đông đã định phận đời mình năm mới 10 tuổi, bằng lời cầu xin: “Mẹ cho con lên Tuyên Quang sống dựa ông bà ngoại và cậu để con được đi học. Con sẽ làm thêm để có tiền sách, bút…Mẹ không phải lo nhiều cho con…”

Tôi cho rằng cuộc chia ly của Quang Chuyền ở tuổi lên 10, với quê, với mẹ, với các em…để lên xứ lạ Tuyên Quang chính là dấu ấn, là bước ngoặt…ám ảnh suốt cuộc đời ông. Tôi cũng là một đứa trẻ như vậy nên rất hiểu nội ám ảnh này cùng những hệ lụy của nó. Mười tuổi tôi cũng xa quê, xa mẹ, xa em… Cho tới hôm nay vẫn nhớ như in cái ngõ Bảo toàn cuối phố Khâm Thiên - Hà Nội, phía bên kia là Ô Chợ Dừa. Tôi học ở trường cấp 1 Trung Phụng (nay gọi là trường tiểu học) ở cuối ngõ chợ Khâm Thiên. Con đường đê La Thành tôi đi học, chắc bây giờ đã khác. Ngày xưa nó là làng, xóm. Bao nhiêu nước mắt tôi đã rơi trên đoạn đường ấy, vì nhớ quê, nhớ mẹ, nhớ em…

Vẫn biết được anh chị con ông bà chăm sóc, nhưng lúc nào cũng mặc cảm cô đơn, côi cút thua thiệt đầy ắp trong lòng. Có lẽ những điều này ở tuổi trưởng thành người ta có cách giải tỏa, nhưng đối với trẻ con nó trở nên bất lực vì thế càng tội nghiệp.

Trở lại với Quang Chuyền. Học hết cấp 2 – ông rẻ ngang vào trường trung cấp sư phạm Việt Bắc (ngày ấy vẫn còn khu tự trị Việt Bắc) - Chắc chắn ông mong một ngày ra trường làm anh giáo viên hiền lành sớm tối ở một mái trường xa, gần nào đó. Sẽ có lương, sẽ có dịp về quê - Cái làng Gốm Quan Tử ở tận cuối sông Lô…

Ông sẽ mua cho các em manh quần, tấm áo, gói quà. Đưa cho mẹ dăm ba đồng thêm thắt. Ông sẽ đi dọc đường làng để người ta nhận ra mình đã lớn khôn…

Không rõ ra trường ông đã kịp làm ông giáo ngày nào chưa. Chỉ biết ông từng là biên tập viên của tờ tạp chí Văn nghệ Việt Bắc. Và cũng từ đây ông bước vào cuộc đời quân ngũ. Không phải riêng ông mà cả thế hệ của ông đã nhiệt tình, tự nguyện làm công cuộc “xẻ dọc Trường Sơn…” cứu nước, với lẽ sống “không có gì quý hơn Độc lập, Tự do”.

Chiến tranh với bao sự khốc liệt của nó… Quang Chuyền đã có mặt khắp các chiến trường Nam, Bắc để cùng đồng đội và nhân dân làm nên ngày 30/4/1975 ca khúc Khải Hoàn.

Có thể nói những năm tháng chiến tranh có rất nhiều mất mát. Song điều Quang Chuyền vẫn giữ nguyên vẹn cho mình, cho thơ, đấy là cái “giọng quê”, “điệu quê”, “hồn quê”, “hồn nhớ”, “hương tâm”… bền bỉ, dịu dàng, da diết chân thật như thể thơ lục bát muôn đời của dân tộc.

Tất cả những điều đó đã làm nên “cái tạng” Quang Chuyền và thơ ông.

Trong sáng tạo văn chương, đã từng có ý kiến cho rằng: cái “tạng” riêng của mỗi người, chỉ nên sống và viết theo cái “tạng” của mình. Đó chính là điều mà nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng đề cập “… Người ta viết văn từ những ấn tượng lúc lên 5 lên 7 chứ không phải ba mươi, ba nhăm và cái đó không thay đổi được.

Cái đào tạo ra tài năng, phong cách, sở trường là những hoàn cảnh sống từ lên 5 lên 7 – Cánh đồng ấy, bờ tre ấy, cái ao ấy… Sau này thay đổi quan điểm, lập trường chứ không thay đổi cái phạm vi đề tài, cái cách viết, cách cảm xúc, cách nghĩ. Không nên bắt họ thay đổi. Bắt vô ích…” (Hoài Thanh)

Đúng là Quang Chuyền đã viết bằng cái “tạng” của hồn mình, cái điệu hồn, “Thân phận, kiếp người” mang đậm chất ly quê.

Trên dưới 20 tập thơ Quang Chuyền tôi đã đọc. Điều dễ nhận ra ở thơ ông hướng nội rất sâu, hình như nhà thơ chỉ nhìn vào lòng mình và kể chuyện lòng mình. Với ông thơ không chỉ là chuyện văn chương mà nó còn là nguồn sống, lẽ sống, đời sống ông với quê hương…

Đọc thơ Quang Chuyền luôn có cảm giác - thơ ông mang nhịp thở nhân gian, nhịp thở người bộ hành đường trường mưa nắng. Những cảm giác có thực ấy cứ thấm dần, thấm dần để rồi ta phải thốt lên: “Thơ Quang Chuyền hay, thấm thía đến mức đau đớn”.

Hãy nghe một đoạn ông viết về mẹ: … “Bao nhiêu chỗ ướt mẹ nằm/ Câu thơ ai viết đằm đằm mưa rơi/ Cha đi tuổi mẹ ba mươi/ Một thân lầm lụi chống trời nuôi con…” (Con cầu mong mẹ)

Còn đây là lần ông về thăm làng cũ: “Nền nhà xưa ở xóm Đông/ Tìm về nơi ấy tôi không còn nhà/ Tôi đi biền biệt ngày xa/ Thăm quê mà chả nhận ra người làng…” (Nẻo về)

Khó mà cầm lòng khi đọc những câu thơ như thế.

Đây lại là một đoạn đường ông đưa tiễn cậu mình về nơi yên nghỉ cuối cùng: “Cháu đưa tiễn cậu chiều nay/ Cậu ơi còn đoạn đường này nữa thôi…/ Nén nhang cây nến lập lòa/ Tưởng nghe tiếng cậu- Chuyền à khỏe không?” (Chiều đưa tiễn cậu)

Đoạn thơ làm ta nhớ tới câu nói của một nhà văn: “Coi người chết như vẫn sống, không phân biệt âm dương. Thế mới là yêu thương sâu sắc…”

Nhớ lại ngày tập thơ “Lục bát không mùa” cùa ông ra mắt bạn đọc (2011). Người đọc đều khẳng định: “Quang Chuyền viết thơ lục bát rất thành công”. “… Ông là một trong những nhà thơ viết lục bát xuất sắc trong các nhà thơ đương đại” (Nguyễn Quang Thiều)… Ông là người “đã đóng góp tiếng nói riêng vào tiếng nói chung nhằm đưa thơ lục bát cũ càng lên tầm cao mới mẻ hiện đại và sang trọng…” (Văn Lê).

Với tôi Quang Chuyền và thơ lục bát là một. Bởi nhẽ ông đã uống dòng sữa ấy, ông nuôi hồn mình từ những “…Chiều chiều ra đứng ngõ sau… Anh đi anh nhớ quê nhà…Con cò đi đón cơn mưa…Con cò lặn lội bờ sông…”. Những âm hưởng lục bát, những nỗi niềm lục bát nghìn đời đấy là Quang Chuyền- Đấy là thơ ông… Với những suy nghĩ như thế việc Quang Chuyền thành công với thơ lục bát của dân tộc là lẽ đương nhiên.

Trong tuyển tập “Quang Chuyền Thơ và Đời” – Nhà thơ đã cặm cụi chia thơ và đời thành ba phần theo dòng chảy thời gian với những tiêu đề để đánh dấu mỗi giai đoạn. Đó là “Từ nguồn” (1965-1985); “Theo sông” (1985-2010); “Về biển” (2010-2023)

Còn tôi bằng những gì biết về thơ và đời ông luôn có suy nghĩ: Quang Chuyền là người từ tuổi ấu thơ đã bị dẫn thẳng vào “biển đời” – mênh mông sóng gió, được, mất, hơn thua, ngậm ngùi, kiêu hãnh… Là những năm tháng chiến tranh khốc liệt, là sự vật vã mưu sinh, là bao ân tình chưa trả, bao mong ước chưa thành…

Với quang Chuyền hôm nay ông đã đi và đã tới. Đường binh nghiệp cũng đã khép lại. Là một nhà văn, ông có cả một gia tài văn chương mà người đọc, bạn bè nể trọng. Cuộc sống gia đình vợ chồng hòa hợp, con cháu trưởng thành… Thế cũng là đủ, thế cũng là vui với một người đã ở tuổi già…

Song vẫn còn – còn một khỏang trống không lúc nào Quang Chuyền nguôi ngoai. Đấy là niềm khao khát về lại làng xưa - bến cũ… Khoảng trống này hình như càng về già nó càng rộng ra, lớn lên. Vì thế nó trở nên dóng diết, bất lực. Nó như món nợ ân tình mà con người phải trả, phải về mới trút được mặc cảm… “Nắng mưa thui thủi quê người một thân” (Nguyễn Du)

Có thể coi bài thơ “Nẻo về” của ông là một minh chứng. Ôi! Chỉ một “Nẻo về” thật nhỏ nhoi, thật khiêm nhường. Ấy thế mà xa quá, khó thế: “Ngoài đời hay ở chiêm bao/ Sông Lô thường vỗ sóng vào đời tôi/ Bài thơ viết thủa thiếu thời/ Đọc lên lại gặp bời bời nỗi quê/ Núm nhau với một cõi về/ Tôi còn chôn ở chân tre của làng/ Tôi còn khu mộ Chùa Am/ Vắng thưa màu khói chân nhang thường ngày…” (Nẻo về)

Cúi đầu trước đoạn thơ của Quang Chuyền làm tôi nghĩ về bài thơ “Bên kia sông Đuống” của thi nhân Hoàng Cầm và nhận ra: Hoàng Cầm cũng đã từng làm cho mình một cuộc trở về kinh Bắc trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp đó sao!
Từ đó tôi tin sự dang dở: với quê với làng của Quang Chuyền, sẽ cho ta chờ đợi những sáng tạo mới của ông.

Quê 4-2024
T.K.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm