TIN TỨC

Cảm xúc hoài hương trong thơ Quang Chuyền

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-05-13 17:09:17
mail facebook google pos stwis
1351 lượt xem

TRẦN KHOÁI

Xa quê, nhớ quê là lẽ đương nhiên. Nhưng cái nhớ, cái thương tới mức trăn trở, đau đáu, da diết một đời là chuyện chúng ta cần quan tâm chia sẻ. Nói những câu “bâng quơ” này là khi tôi nghĩ về nhà thơ Quang Chuyền cùng với gia tài thơ ông có.

Sinh nãm 1945, tính đến nay dù vui hay buồn thì ông cũng đã vin vào cánh cửa “bát tuần” của đời người. Chuối chín cây hay chín buồng cũng đã đều là chín, ấy thế mà ông vẫn còn biền biệt phương Nam (ông ở quận Tân Bình, TP.HCM). Quê nhà với ông vẫn là nơi chân trời, góc biển (ông là người làng Gốm, xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc). Đeo cái ba lô đựng tuổi 80 liệu có kịp về. Nghĩ như thế và cảm như thế, tôi ngồi đọc thơ ông qua tuyển tập “Quang Chuyền Thơ và Đời” – NXBHNV ấn hành năm 2023.

Tôi và Quang Chuyền là hiện tượng “Văn Kỳ Thanh”, chả là năm 1968 về nhận công tác ở ty giáo dục tỉnh Tuyên Quang (Nay là Sở GD-ĐT tỉnh Tuyên Quang) ngày nào cũng lên phòng tổ chức để xem họ quyết định về đâu. Nhớ lại một chiều cuối hạ, nhìn thấy tờ báo Tuyên Quang để lăn lóc ở ghế ngồi, khi về tôi cầm tờ báo theo. Một mình ra ngồi ở bến phà Nông Tiến. Giở đọc tờ báo, gặp bài thơ “Chiều Thành Tuyên” của ông. Bài thơ viết theo dạng thơ tự do. Trong sáng, dễ nhớ, câu chữ dung dị, gợi cảm, về một chiều thành Tuyên ngày đầu của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước: “Chiều thành Tuyên/ Nắng khép dần cửa sổ/ Đáy sông Lô nở chùm hoa lửa/ Chim về sải cánh qua soi…”. Đây là vẻ đẹp muôn chiều của Thành Tuyên. Nhưng chiều nay đã có biến động: “…Từ bữa quê ta bước vào kháng chiến/ Ngày như ngắn lại- chóng buông chiều…”

Đúng là không khí chiến tranh đã phả sức nóng vào cái thị xã miền núi phía Bắc vốn rất yên lành

Đọc thơ nhau từ ngày ấy - thế mà 42 năm sau (2010), tôi và Quang Chuyền mới biết mặt nhau và nắm tay nhau. Đấy là cái ngày ông và nhà thơ Gia Dũng đến nhà tôi. Chạy ra cổng đón khách. Ông Gia Dũng giới thiệu: “Quang Chuyền vừa ở TP.HCM ra. Cùng quê ông. Nên dẫn đến đây, anh em gặp nhau…”

Tôi bắt tay Quang Chuyền và tự thú – Nghe về ông nhiều, đọc thơ ông ngày tới Tuyên Quang, thế mà hôm nay mới gặp. Quang Chuyền cười nhỏ nhẹ cảm ơn. Nhìn vào mắt ông tôi đã cảm tình, vì ở đấy toát lên sự ấm áp, dịu dàng, chân thực…

Nhà thơ Gia Dũng nói với tôi: Lão này con nhà lính nhưng nên gọi là “chị” Chuyền, lúc nào cũng thì thầm nhỏ nhẹ, chứ không chém to, kho mặn như bọn mình

Rồi lại là chia tay mãi tới năm 2020, tới Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ 10 tôi mới gặp lại Quang Chuyền.

Thật may trong những năm xa ấy, mỗi khi ra tập thơ mới nào ông cũng gửi tặng tôi với sự trân trọng “Của tin gửi một chút này làm ghi”

Tôi đã đọc – để đó rồi thấm thía sự đằm thắm trữ tình cùng vẻ đẹp u hoài, rung cảm, ám ảnh lòng người trong thơ Quang Chuyền. Bằng cảm thức của mình tôi nhận ra, thơ Quang Chuyền đầy nét thân phận, kiếp người: “Đời người nay đó mai đây/ Văn thơ chẳng thể lấp đầy nhớ thương” (Nẻo về). Có thể nói có điều này bởi lẽ nó được nuôi dưỡng bằng nguồn cảm xúc chân thành, gan ruột… nhuốm đẫm mỗi câu thơ, bài thơ của ông.

Thơ Quang Chuyền không triết lý ồn ào nhưng chan chứa những trải nghiệm của đời người. Vì thế ông viết bất kỳ đề tài nào người đọc cũng dễ dàng tiếp nhận, hòa nhập, chia sẻ…

Nhớ lại ngày giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh nói với tôi về nhà văn Nguyễn Tuân. Cụ khen Nguyễn Tuân rất sành chữ nghĩa. Ví như Nguyễn Tuân thích gọi người làm thơ là thi nhân, hơn gọi là thi sĩ. Cụ cho rằng thi sĩ chỉ mang nghĩa là người làm thơ, còn thi nhân nghĩa nó rộng hơn nhiều. Vì người thơ – điều ấy nói lên thơ của họ là hồn vía, nhân cách, phẩm giá của họ. Chả thế mà Hàn Mặc Tử đã viết: “Người thơ phong vận như thơ ấy…”. Nếu là vậy, Quang Chuyền thuộc “tạng” nhà thơ mang đầy đủ nghĩa thi nhân

Vì lẽ này nên khi đọc thơ Quang Chuyền đòi hỏi chúng ta cần biết đôi điều về cuộc đời của nhà thơ. Bởi vì cuộc đời ấy đã khúc xạ làm nên thi nghiệp đáng quý của ông.

Từ nhiều nguồn, trong đó có những điều chính nhà thơ tâm sự. Năm 10 tuổi ông đã trải qua biến cố gia đình đau xót. Cha ông bệnh trọng ra đi năm cụ mới 36 tuổi. Nhà 5 anh chị em, tất cả trông vào gồng gánh chạy chợ của mẹ, cùng với đôi ba sào ruộng. Mẹ đành khuyên Quang Chuyền thôi học, để giúp mẹ việc nhà và trông nom các em.

Thần đồng hay là bất hạnh - Cậu bé Quang Chuyền làng Quan Tử - Gốm Sơn Đông đã định phận đời mình năm mới 10 tuổi, bằng lời cầu xin: “Mẹ cho con lên Tuyên Quang sống dựa ông bà ngoại và cậu để con được đi học. Con sẽ làm thêm để có tiền sách, bút…Mẹ không phải lo nhiều cho con…”

Tôi cho rằng cuộc chia ly của Quang Chuyền ở tuổi lên 10, với quê, với mẹ, với các em…để lên xứ lạ Tuyên Quang chính là dấu ấn, là bước ngoặt…ám ảnh suốt cuộc đời ông. Tôi cũng là một đứa trẻ như vậy nên rất hiểu nội ám ảnh này cùng những hệ lụy của nó. Mười tuổi tôi cũng xa quê, xa mẹ, xa em… Cho tới hôm nay vẫn nhớ như in cái ngõ Bảo toàn cuối phố Khâm Thiên - Hà Nội, phía bên kia là Ô Chợ Dừa. Tôi học ở trường cấp 1 Trung Phụng (nay gọi là trường tiểu học) ở cuối ngõ chợ Khâm Thiên. Con đường đê La Thành tôi đi học, chắc bây giờ đã khác. Ngày xưa nó là làng, xóm. Bao nhiêu nước mắt tôi đã rơi trên đoạn đường ấy, vì nhớ quê, nhớ mẹ, nhớ em…

Vẫn biết được anh chị con ông bà chăm sóc, nhưng lúc nào cũng mặc cảm cô đơn, côi cút thua thiệt đầy ắp trong lòng. Có lẽ những điều này ở tuổi trưởng thành người ta có cách giải tỏa, nhưng đối với trẻ con nó trở nên bất lực vì thế càng tội nghiệp.

Trở lại với Quang Chuyền. Học hết cấp 2 – ông rẻ ngang vào trường trung cấp sư phạm Việt Bắc (ngày ấy vẫn còn khu tự trị Việt Bắc) - Chắc chắn ông mong một ngày ra trường làm anh giáo viên hiền lành sớm tối ở một mái trường xa, gần nào đó. Sẽ có lương, sẽ có dịp về quê - Cái làng Gốm Quan Tử ở tận cuối sông Lô…

Ông sẽ mua cho các em manh quần, tấm áo, gói quà. Đưa cho mẹ dăm ba đồng thêm thắt. Ông sẽ đi dọc đường làng để người ta nhận ra mình đã lớn khôn…

Không rõ ra trường ông đã kịp làm ông giáo ngày nào chưa. Chỉ biết ông từng là biên tập viên của tờ tạp chí Văn nghệ Việt Bắc. Và cũng từ đây ông bước vào cuộc đời quân ngũ. Không phải riêng ông mà cả thế hệ của ông đã nhiệt tình, tự nguyện làm công cuộc “xẻ dọc Trường Sơn…” cứu nước, với lẽ sống “không có gì quý hơn Độc lập, Tự do”.

Chiến tranh với bao sự khốc liệt của nó… Quang Chuyền đã có mặt khắp các chiến trường Nam, Bắc để cùng đồng đội và nhân dân làm nên ngày 30/4/1975 ca khúc Khải Hoàn.

Có thể nói những năm tháng chiến tranh có rất nhiều mất mát. Song điều Quang Chuyền vẫn giữ nguyên vẹn cho mình, cho thơ, đấy là cái “giọng quê”, “điệu quê”, “hồn quê”, “hồn nhớ”, “hương tâm”… bền bỉ, dịu dàng, da diết chân thật như thể thơ lục bát muôn đời của dân tộc.

Tất cả những điều đó đã làm nên “cái tạng” Quang Chuyền và thơ ông.

Trong sáng tạo văn chương, đã từng có ý kiến cho rằng: cái “tạng” riêng của mỗi người, chỉ nên sống và viết theo cái “tạng” của mình. Đó chính là điều mà nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng đề cập “… Người ta viết văn từ những ấn tượng lúc lên 5 lên 7 chứ không phải ba mươi, ba nhăm và cái đó không thay đổi được.

Cái đào tạo ra tài năng, phong cách, sở trường là những hoàn cảnh sống từ lên 5 lên 7 – Cánh đồng ấy, bờ tre ấy, cái ao ấy… Sau này thay đổi quan điểm, lập trường chứ không thay đổi cái phạm vi đề tài, cái cách viết, cách cảm xúc, cách nghĩ. Không nên bắt họ thay đổi. Bắt vô ích…” (Hoài Thanh)

Đúng là Quang Chuyền đã viết bằng cái “tạng” của hồn mình, cái điệu hồn, “Thân phận, kiếp người” mang đậm chất ly quê.

Trên dưới 20 tập thơ Quang Chuyền tôi đã đọc. Điều dễ nhận ra ở thơ ông hướng nội rất sâu, hình như nhà thơ chỉ nhìn vào lòng mình và kể chuyện lòng mình. Với ông thơ không chỉ là chuyện văn chương mà nó còn là nguồn sống, lẽ sống, đời sống ông với quê hương…

Đọc thơ Quang Chuyền luôn có cảm giác - thơ ông mang nhịp thở nhân gian, nhịp thở người bộ hành đường trường mưa nắng. Những cảm giác có thực ấy cứ thấm dần, thấm dần để rồi ta phải thốt lên: “Thơ Quang Chuyền hay, thấm thía đến mức đau đớn”.

Hãy nghe một đoạn ông viết về mẹ: … “Bao nhiêu chỗ ướt mẹ nằm/ Câu thơ ai viết đằm đằm mưa rơi/ Cha đi tuổi mẹ ba mươi/ Một thân lầm lụi chống trời nuôi con…” (Con cầu mong mẹ)

Còn đây là lần ông về thăm làng cũ: “Nền nhà xưa ở xóm Đông/ Tìm về nơi ấy tôi không còn nhà/ Tôi đi biền biệt ngày xa/ Thăm quê mà chả nhận ra người làng…” (Nẻo về)

Khó mà cầm lòng khi đọc những câu thơ như thế.

Đây lại là một đoạn đường ông đưa tiễn cậu mình về nơi yên nghỉ cuối cùng: “Cháu đưa tiễn cậu chiều nay/ Cậu ơi còn đoạn đường này nữa thôi…/ Nén nhang cây nến lập lòa/ Tưởng nghe tiếng cậu- Chuyền à khỏe không?” (Chiều đưa tiễn cậu)

Đoạn thơ làm ta nhớ tới câu nói của một nhà văn: “Coi người chết như vẫn sống, không phân biệt âm dương. Thế mới là yêu thương sâu sắc…”

Nhớ lại ngày tập thơ “Lục bát không mùa” cùa ông ra mắt bạn đọc (2011). Người đọc đều khẳng định: “Quang Chuyền viết thơ lục bát rất thành công”. “… Ông là một trong những nhà thơ viết lục bát xuất sắc trong các nhà thơ đương đại” (Nguyễn Quang Thiều)… Ông là người “đã đóng góp tiếng nói riêng vào tiếng nói chung nhằm đưa thơ lục bát cũ càng lên tầm cao mới mẻ hiện đại và sang trọng…” (Văn Lê).

Với tôi Quang Chuyền và thơ lục bát là một. Bởi nhẽ ông đã uống dòng sữa ấy, ông nuôi hồn mình từ những “…Chiều chiều ra đứng ngõ sau… Anh đi anh nhớ quê nhà…Con cò đi đón cơn mưa…Con cò lặn lội bờ sông…”. Những âm hưởng lục bát, những nỗi niềm lục bát nghìn đời đấy là Quang Chuyền- Đấy là thơ ông… Với những suy nghĩ như thế việc Quang Chuyền thành công với thơ lục bát của dân tộc là lẽ đương nhiên.

Trong tuyển tập “Quang Chuyền Thơ và Đời” – Nhà thơ đã cặm cụi chia thơ và đời thành ba phần theo dòng chảy thời gian với những tiêu đề để đánh dấu mỗi giai đoạn. Đó là “Từ nguồn” (1965-1985); “Theo sông” (1985-2010); “Về biển” (2010-2023)

Còn tôi bằng những gì biết về thơ và đời ông luôn có suy nghĩ: Quang Chuyền là người từ tuổi ấu thơ đã bị dẫn thẳng vào “biển đời” – mênh mông sóng gió, được, mất, hơn thua, ngậm ngùi, kiêu hãnh… Là những năm tháng chiến tranh khốc liệt, là sự vật vã mưu sinh, là bao ân tình chưa trả, bao mong ước chưa thành…

Với quang Chuyền hôm nay ông đã đi và đã tới. Đường binh nghiệp cũng đã khép lại. Là một nhà văn, ông có cả một gia tài văn chương mà người đọc, bạn bè nể trọng. Cuộc sống gia đình vợ chồng hòa hợp, con cháu trưởng thành… Thế cũng là đủ, thế cũng là vui với một người đã ở tuổi già…

Song vẫn còn – còn một khỏang trống không lúc nào Quang Chuyền nguôi ngoai. Đấy là niềm khao khát về lại làng xưa - bến cũ… Khoảng trống này hình như càng về già nó càng rộng ra, lớn lên. Vì thế nó trở nên dóng diết, bất lực. Nó như món nợ ân tình mà con người phải trả, phải về mới trút được mặc cảm… “Nắng mưa thui thủi quê người một thân” (Nguyễn Du)

Có thể coi bài thơ “Nẻo về” của ông là một minh chứng. Ôi! Chỉ một “Nẻo về” thật nhỏ nhoi, thật khiêm nhường. Ấy thế mà xa quá, khó thế: “Ngoài đời hay ở chiêm bao/ Sông Lô thường vỗ sóng vào đời tôi/ Bài thơ viết thủa thiếu thời/ Đọc lên lại gặp bời bời nỗi quê/ Núm nhau với một cõi về/ Tôi còn chôn ở chân tre của làng/ Tôi còn khu mộ Chùa Am/ Vắng thưa màu khói chân nhang thường ngày…” (Nẻo về)

Cúi đầu trước đoạn thơ của Quang Chuyền làm tôi nghĩ về bài thơ “Bên kia sông Đuống” của thi nhân Hoàng Cầm và nhận ra: Hoàng Cầm cũng đã từng làm cho mình một cuộc trở về kinh Bắc trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp đó sao!
Từ đó tôi tin sự dang dở: với quê với làng của Quang Chuyền, sẽ cho ta chờ đợi những sáng tạo mới của ông.

Quê 4-2024
T.K.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm