TIN TỨC

Chiến tranh như là nó đã xảy ra

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-09-20 11:00:20
mail facebook google pos stwis
1235 lượt xem

Sương Nguyệt Minh

(Nhân đọc tiểu thuyết “Từ giờ thứ 6 đến giờ thứ 9” của Nguyễn Một - NXB Hội Nhà văn, tháng 6 năm 2023)

Bìa sách Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín

 

Chiến tranh như là nó đã xảy ra, và vẫn tiếp tục xảy ra không bao giờ dứt!

Cảm giác rất thật khi đọc từng con chữ của Nguyễn Một. Tràn ngập tiểu thuyết “Từ giờ thứ 6 đến giờ thứ 9” là không khí chiến tranh đậm đặc, căng cứng, đôi khi đến nghẹt thở. Không khí chiến tranh trong tác phẩm không chỉ đặc quánh ở các đoạn miêu tả sa trường chiến trận, và cả ở phía sau. Phía sau là: “… những lệnh tổng động viên hay đôn quân ban ra,… các ca khúc gọi là phản chiến của Trịnh Công Sơn được phát liên tục ở các quán cà phê,… báo chí cứ lặp đi lặp lại những tên gọi như “Đại lộ kinh hoàng”, cùng những câu thơ:“…Mai kia trong những ngày ngưng chiến. Ta chắc rằng không thể yêu ai. Nhà thương điên nếu còn chỗ trống. Xin chiếc giường; cho thân xác tàn phai…”; của Nguyễn Bắc Sơn được chuyền tay nhau... thì chiến tranh không còn mơ hồ hay xa xôi đối với người dân thị xã nữa…”. Phía sau mà tràn ngập những lời hát, lời thơ đầy không khí chiến trận, chết chóc, chán nản: “Tây Ninh nắng nung người mà trận địa loang máu tươi...”; “Bạn bè anh theo lớp tuổi ra đi, dăm đứa thân nghe tiếng chẳng trở về...”; Ta hỏng Tú tài, ta hụt tình yêu, thi hỏng mất rồi ta đợi ngày đi, đau lòng ta muốn khóc...”. Phía sau mà vẫn thấy chết chóc: Những đoàn xe chở tử sĩ, những đoàn xe chở lính người Việt, lính Mỹ, Đại Hàn, Phi Luật Tân và cả lính Thái Lan chạy sầm sập trên các đường phố”. 

Chiến tranh đeo bám từng con người cá nhân, xộc vào cả trường học, ngõ phố, xóm nhỏ làng quê, xông vào từng gia đình ở phía sau tưởng như rất đỗi bình thường. Họ đến “xóm Sở Mỹ” để nhặt rác Mỹ hoặc làm công trong các sở làm của quân đội Mỹ… Mỗi buổi chiều, bọn trẻ mang theo xô đứng chờ lính Mỹ đổ xúp thừa để mang về nuôi heo, hoặc bán cho các nhà nuôi heo. Đôi khi trong các thùng xúp ấy có cả đồng hồ, bút máy… mà nhiều người làm công đánh cắp bỏ vào nhưng chiều chưa lấy kịp. Người lớn thì nhặt phế liệu bán lại”.

Hiện thực chiến tranh của Nguyễn Một không chỉ phân tuyến bên này bên kia với những hủy diệt tương tàn, mà đan xen, chồng chéo, nhằng nhịt, mờ nhòa, thậm chí có lúc không biết đâu mà lần. Người này cứ tưởng là “chính nghĩa quốc gia”, hóa ra không phải, mà là “lý tưởng cộng sản”. Người kia là học trò, là đại gia lại hóa ra người cách mạng. Người kia là nông dân, là lính cách mạng hóa ra lại chiêu hồi, chỉ điểm cho lính quốc gia khui hầm bí mật…, sống bên cạnh nhau mà không biết ai là “ta”, ai là “địch”. Chẳng biết đâu mà lần. Người em đi lính quốc gia đem thuốc trụ sinh và kim tiên về cho cha để tiêm người anh lính quân giải phóng bị thương phần mềm, viên đạn xuyên qua đùi đang giấu dưới hầm để khỏi nhiễm trùng. Lành vết thương, người anh lại trở về đơn vị. Để rồi trong một trận giao tranh sau buổi gặt đầu trên động ruồng quê hương, anh và em đối mặt nhau… Để rồi, cũng gia đình này, bố mẹ cùng lúc chôn hai người con đi lính quốc gia, một người con đi lính quân giải phóng. Mất mát như nhau, được hưởng tiền tuất, tiền trợ cấp hàng tháng của bên kia, và sau bố mẹ lại được hưởng của bên này. Những đứa con ở hai trận tuyến bắn giết lẫn nhau, và khi chết đều được thờ cúng chung một bàn thờ, an táng trong cùng nghĩa địa dòng họ. Chiến tranh, bên nọ bắn giết bên kia, nhưng chiến tranh cũng là cơ hội để những người nông dân bình thường thanh toán nhau bởi oán thù. Mặc nhiên, những cái chết vô lý mà không vô lý này cũng là một hiện thực chiến tranh của Việt Nam…

Nhà văn Nguyễn Một trả lời báo chí

Có quá nhiều cái chết trong “Từ giờ thứ 6 đến giờ thứ 9”.  Bố mẹ ông Điền, bố mẹ ông Xí đi chợ chết bởi máy bay thả bom. Ông Nguyễn Xí chết bởi “bất ngờ viên đạn từ đâu bắn tới không rõ, xuyên qua đầu từ sau ót trổ ra trước làm nứt toác cả mặt”. Con ông là Nguyễn Đó chiêu hồi, dẫn lính quốc gia đi khui hầm bí mật cũng bị chết khi đêm về, bí mật viếng mộ cha, mà không biết ai giết. 12 người Việt Cộng chui hầm bí mật… chết. “Ông bà Quản Trạm mất tích trên đường chạy trốn”; “Cha mẹ của bà Thu cũng chết thảm trong trận Mậu Thân ở Huế”; Bố mẹ Trang… chết… Cái chết nào cũng khổ. Cái chết nào cũng thương tâm. Không kể hết.

Nhưng, qua “giờ thứ 9” rồi mà chiến tranh vẫn còn tiếp diễn. “Hết chiến tranh, hết chết chóc…”, không phải thế. Chiến tranh chưa ngừng vẫn tiếp diễn, chỉ có điều nó xảy ra với một hình thái mới. Bom đạn còn sót lại… chết. Lòng người ly tán… thì vẫn còn xung đột và… chết. Người cha có 2 con đi lính VNCH và 1 con đi lính cách mạng bị chết, ông lại bất hòa với người con cả là cán bộ cách mạng. Ly tán ngay từ trong gia đình, cha con. Hai dòng họ, gia đình vốn trước đây sống chết san sẻ cả tình cảm và vật chất trong bom đạn, thì kết thúc chiến tranh lại không nhìn mặt nhau. Chết chóc, thù hận triền miên như thế…

Người chết thì cũng chết rồi, nhưng tất cả những người đi qua chiến tranh thì đều bị thương tật. Kẻ bị tàn tật thân xác, người bị tật nguyền tâm hồn. Vợ chồng ông thiếu tá Trần Văn Duy và bà Thu bị mất nhà. Diễm mất nhà, mất người yêu, phải di tản. Sơn mất người yêu, lấy vợ vì sự sắp đặt của anh hai, làm đến vụ trưởng, vợ bỏ. Người yêu là Trần Văn Tâm bị báo tử, Trang gá vào người lính Mỹ, đẻ con mắt xanh tóc vàng, cuộc đời vạ vật làm đĩ khổ sở, ê chề. Hùng biệt động, sau là công an, bị bắt vì tổ chức cho người vượt biên, bị tử hình. Anh Hai đi lính Quân giải phóng bị thương mất cả bộ hạ, rồi bị chất độc da cam, chết khi không còn mặn mà với lý tưởng suốt đời đeo đuổi...

Cuộc chiến kết thúc, lại mở ra một cuộc chiến mới. Thế mới biết hậu quả của chiến tranh nó dữ dội, triền miên, dai dẳng và tác hại khủng khiếp biết chừng nào.

***

Lấy nhân vật trốn lính là Sơn và mối tình học trò với Diễm làm cốt truyện. Sơn chia tay những con trâu - con Cò, con Xe, con Xanh, con Pháo vào thị xã Thủ Biên - miền Nam trọ học, để rồi rớt tú tài, phải đi trốn quân dịch và mối tình của anh đặt trong bối cảnh xã hội thời chiến rộng lớn, bề bộn, ngổn ngang sự kiện, nhân vật. Rất nhiều câu chuyện chiến tranh qua lời kể của Sơn, của Diễm, của các nhân vật, của tác giả nữa, Nguyễn Một có tham vọng dựng lại một cuộc chiến tranh tương tàn, khốc liệt theo quan niệm, và cái nhìn của riêng ông. Có thể nói “Từ giờ thứ 6 đến giờ thứ 9” là nghệ thuật chuyển đổi điểm nhìn chiến tranh. Với tư cách nhà văn, ông nhìn chiến tranh bằng con mắt của thi sĩ Hoàng: “… cuộc chiến chúng ta chán chường như tiểu thuyết của Remarque hơn là nỗi buồn của Camus!”. Nhân vật Sơn trốn lính và hành trình trốn lính cũng là cái cớ để nhà văn trình bày quan niệm về chiến tranh. Ông còn sắm vai thi sĩ Hoàng nhìn thấy: “… con quái vật mang tên “chiến tranh” rồi đây sẽ nuốt chửng tất cả bạn bè anh!”. Ông không chỉ nhìn thấy mà còn xây dựng thành hình tượng nghệ thuật anh em ruột thịt cùng một nhà tương tàn, đối mặt nã súng vào nhau trong cuộc chiến, chết cùng nhau và người lính chung sự lo hậu sự cho lính cả hai bên. Cái nhìn nhân đạo cũng là cái nhìn hiện thực bất bình thường trong chiến tranh Việt Nam.

Nguyễn Một không chỉ nhìn chiến tranh bằng điểm nhìn nghệ thuật của nhà văn, mà ông còn nhìn chiến tranh bằng cái nhìn của người nông dân bình thường - người mẹ người cha chân lấm tay bùn. Bà Kha Ly: “Tôi cũng có hai đứa con theo Quốc gia, hai đứa theo Việt cộng; tôi yêu thương tất cả các con!”. Cho nên, bà lấy thuốc nam chữa cho hàng trăm lính Bắc Việt bị sốt rét quật ngã bằng tấm lòng người mẹ có con đi lính cả hai bên. Còn ông Hai Ruộng chồng bà - người nông dân thợ cày thì đã thấy cuộc chiến tranh cần phải đến lúc chấm dứt: “Ai thắng cũng được, miễn chiến tranh kết thúc là được rồi! Chết chóc thương tật khiếp quá!”. Người nông dân Hai Ruộng lựa chọn để đứa con trai cuối cùng chưa đến tuổi cầm súng đi trốn quân dịch để không theo Mỹ, cũng không theo Quốc gia, chẳng theo Cộng sản, không theo ai cả, chỉ giữ mạng sống để lo hương hỏa cha ông, tổ tiên. “Bằng mọi cách phải trốn lính, không được đi lính với bất kỳ bên nào!”. Cái nhìn này là riêng tư, là khao khát nỗi dõi tông đường rất văn hóa truyền thống, tâm linh.

Có thể nói Nguyễn Một (và cả người biên tập nữa) như một diễn viên xiếc đi chênh vênh trên sợi dây thừng vắt qua vực sâu xung đột của hai ý thức hệ và cũng là tiêu chí xuất bản cần thiết. Nếu ngả về phía bên này một chút, nghiêng bên kia một tí đều sẽ thành cực đoan, giáo điều, chủ quan. Tác giả rất điềm tĩnh và tỉnh táo biết giữ thăng bằng và bước qua một cách ngoạn mục. Cách viết “đi giữa hai làn đạn” này không phải là “dĩ hòa vi quý”, chọn lối an toàn, mà chỉ là thủ pháp nghệ thuật và cách nhìn, cách giải quyết nội dung câu chuyện quá phức tạp, lớn lao. Không thế, không xuất bản được! Cho nên, tiểu thuyết này sẽ được bên “ta” cũng yêu mà bên “địch” cũng quý. Đó là cái nhìn thân phận con người bên này hay phía bên kia đều ở góc độ con người bình thường - con người bình thường bị con ngáo ộp chiến tranh nuốt chửng, mà không có cách gì thoát nổi. Dĩ nhiên là cái nhìn nhân đạo của một nhà văn độ lượng, nhân từ. Không thế, không xuất bản được!

Vẫn lối viết “rời rạc”, “tản mạn”, thậm chí “lỏng”, giằng dịt, rậm rạp… vốn là cái tạng của Nguyễn Một trong văn xuôi mà dễ nhận thấy nhất là truyện ngắn, tiểu thuyết. Ở tiểu thuyết “Từ giờ thứ 6 đến giờ thứ 9” mới nhất này, Nguyễn Một không dùng thủ pháp huyền ảo như “Ngược mặt trời”, “Đất trời vần vũ” mà là kéo hồi ức hiện thực về trang sách. Một hiện thực chiến tranh miên man, đan xen, chồng chéo, có chỗ tưởng như là rối mù…, để rồi rạng dần, sáng rõ và ngã ngũ. Đọc trang viết nào cũng thấy một tấm lòng chân thành, dù tác giả viết về tình yêu học đường lãng mạn, hoặc làng quê A Đông, hay nỗi đau xót xa của thân phận người trong chiến tranh. Đọc chương nào cũng thấy một giọng nói thầm thì, đôi khi thủ thỉ dù là khi đối thoại xung đội, hay miêu tả cảnh sắc, con người nhỏ bé bị chiến tranh hủy diệt, ly tán, hay đoàn tụ,… Nguyễn Một như dòng sông Đồng Nai độ lượng, nhân từ chảy dọc miền đất đau thương, cảm và hiểu, và ứng xử với con người, mong muốn con người dù bầm dập, mất mát trong chinh chiến điêu linh cũng đi đến cái kết nhân ái, có hậu: Trần Văn Tâm còn sống trở về sống vợ chồng với Trang. Gia đình ông Hai Ruộng và bà Kha Ly tưởng như tuyệt tự vì con cái chết chóc, tật nguyền vô sinh vì chiến tranh, thì cuối cùng lại có đứa cháu nối dõi là con của Sơn và Diễm. Hàn gắn vết thương chiến tranh, gắn kết những mảnh vỡ số phận nhân vật là những trang viết dạt dào tình yêu thương con người ở cuối tiểu thuyết đã làm cho tác phẩm bớt ảm đạm, thê lương và làm cho người đọc hy vọng, tin vào những tốt đẹp đã và diễn ra thời hậu chiến.

Tôi thật sự mừng vì tiểu thuyết chiến tranh “Từ giờ thứ 6 đến giờ thứ 9” của Nguyễn Một ra mắt bạn đọc. Mừng cho bạn có sức sáng tạo lớn, lại mừng cho người viết văn chúng ta. Mừng cho Nhà xuất bản Hội Nhà văn có con mắt xanh tinh tường và đầy bản lĩnh để biên tập và cấp phép in. Nhưng, cũng mừng cho ngành xuất bản chấp nhận để cuốn sách của Nguyễn Một ra đời, bắt đầu một đời sống, một số phận riêng của nó. Tôi tin rằng cuốn sách cũng có linh hồn, nó đang vui mừng vì đã được đến với thế giới chúng ta. Tôi cũng hi vọng sẽ có “một thời đại xuất bản mới” xuất hiện trong nền văn học mới.

S.N.M

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm
Nhà lý luận phê bình Đỗ Nguyên Thương và tập thơ “Tìm về miền ký ức”
Tôi quen nhà giáo, nhà Lý luận Phê bình văn học Đỗ Nguyên Thương thật tình cờ trong buổi Tọa đàm về Thơ 1-2-3 do nhà thơ Phan Hoàng chủ trì có sự phối hợp của Hội nhà văn Cần Thơ và khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn tường Đại học Cần Thơ.
Xem thêm
Tư tưởng nhân dân anh hùng
1. Vì tình yêu quê hương đất nước, Trần Bảo Định đến với văn chương. Nhà văn Long An để lại dấu ấn đáng kể trong sinh hoạt văn chương từ những năm 2010 đến nay. Bên cạnh bộ sách Đất và người Nam Bộ mến yêu gồm 14 tập truyện ngắn, Trần Bảo Định còn có 6 tập thơ, 5 tập tiểu luận phê bình. Năm 2024, nhà văn trình làng tuyển tập Đất Việt trời Nam liệt truyện gồm 3 tập (thượng, trung, hạ) do Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành. Tái hiện diễn trình lịch sử vùng đất Nam Bộ từ hồi một 1620, hồi hai 1859, đến hồi ba 1900, tuyển tập có thể xem như trường thiên tiểu thuyết ca ngợi tinh thần đấu tranh yêu nước anh dũng của nhân dân Nam Bộ, như lời giới thiệu của Nhà xuất bản: “Chính các anh hùng vô danh mới thể hiện toàn bộ chủ đích nghệ thuật của Trần Bảo Định, cho thấy tư tưởng: nhân dân anh hùng!”
Xem thêm
Thơ tình Nguyên Bình đắm đuối
(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Các nhà thơ từ cổ chí kim không nhiều thì ít đều viết thơ tình, điều đó không có gì lạ; vì tâm hồn họ lãng mạn, mơ mộng, tôn thờ phái đẹp. Nhà thơ Nguyên Bình không nằm ngoài số đó. Anh viết văn làm thơ từ thời sinh viên, cả trước và sau năm 1975. Những bài thơ tình, anh không dám trao tay cô nữ sinh xinh đẹp xứ Huế anh yêu say đắm: Vẫn mãi “Là bài thơ còn hoài trong vở/Giữa giờ chơi mang đến lại mang về” thơ Đỗ Trung Quân.
Xem thêm
Mỹ cảm của kiểu tự sự trong suốt trong tập tản văn “Nỗi buồn trong suốt” của Nguyễn Đức Phú Thọ
Tản văn là một thể loại dễ tiếp cận với mọi mặt của đời sống thông qua những lát cắt hiện thực, nhưng trung tâm tinh thần của thể loại này lại là cái tôi tư tưởng, cảm xúc của người nghệ sĩ. Tản văn vừa đậm chất trữ tình, vừa mang bản chất tự sự. Mỗi tác phẩm là một cách diễn giải về “Thế giới như tôi thấy”, đồng thời cũng là một tấm gương phản chiếu cấu trúc nội tâm của nhà văn.
Xem thêm
Cảm nhận thơ Trần Xuân Hóa từ một góc nhìn đa cảm
Bài viết của nhà thơ CCB Trần Trí Thông
Xem thêm
Hơi thở đất quê trong miền nhớ của Huỳnh Khang
Chủ đề và nội dung trong MIỀN NHỚ xoay quanh ký ức quê hương, tình mẫu tử, nghĩa làng nghĩa xóm, thiên nhiên, tình yêu đôi lứa, nỗi buồn mất mát, cùng những triết lý đời thường.
Xem thêm
Tiếng văn từ phía “bạn nguồn”
Nguyễn Minh Sơn, Hồ Tấn Vũ và Nguyễn Thị Như Hiền là ba cây bút thuộc thế hệ 7X và 9X
Xem thêm
Về trên dặm trường thiên lý “Miền Ô châu”
Tiếp theo các cuốn tản văn Sông vẫn chảy đời sông (NXB Thanh Niên 2023), Bốn mùa thương nhớ (NXB Thanh Niên 2024), nhà văn Nguyễn Linh Giang vừa ra mắt cuốn tản văn mới: “Miền Ô Châu” (NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2025).
Xem thêm
Thơ ca chào đón Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Cách mạng tháng Tám - 1945 thành công, mở ra trang sử vàng chói lọi cho dân tộc. Bác Hồ đọc “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập. Hai tiếng Việt Nam vang lên đầy phấn khởi, tự hào trên trường quốc tế, đã khơi nguồn, làm bừng dậy biết bao cảm hứng về thơ ca, nhạc, họa thật mới mẻ, mãnh liệt và sôi nổi, làm không khí văn nghệ đổi sắc thay da. Từ đây nền văn học của ta chỉ còn duy nhất một trào lưu là văn học cách mạng.
Xem thêm