TIN TỨC

Chiến tranh như là nó đã xảy ra

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-09-20 11:00:20
mail facebook google pos stwis
1360 lượt xem

Sương Nguyệt Minh

(Nhân đọc tiểu thuyết “Từ giờ thứ 6 đến giờ thứ 9” của Nguyễn Một - NXB Hội Nhà văn, tháng 6 năm 2023)

Bìa sách Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín

 

Chiến tranh như là nó đã xảy ra, và vẫn tiếp tục xảy ra không bao giờ dứt!

Cảm giác rất thật khi đọc từng con chữ của Nguyễn Một. Tràn ngập tiểu thuyết “Từ giờ thứ 6 đến giờ thứ 9” là không khí chiến tranh đậm đặc, căng cứng, đôi khi đến nghẹt thở. Không khí chiến tranh trong tác phẩm không chỉ đặc quánh ở các đoạn miêu tả sa trường chiến trận, và cả ở phía sau. Phía sau là: “… những lệnh tổng động viên hay đôn quân ban ra,… các ca khúc gọi là phản chiến của Trịnh Công Sơn được phát liên tục ở các quán cà phê,… báo chí cứ lặp đi lặp lại những tên gọi như “Đại lộ kinh hoàng”, cùng những câu thơ:“…Mai kia trong những ngày ngưng chiến. Ta chắc rằng không thể yêu ai. Nhà thương điên nếu còn chỗ trống. Xin chiếc giường; cho thân xác tàn phai…”; của Nguyễn Bắc Sơn được chuyền tay nhau... thì chiến tranh không còn mơ hồ hay xa xôi đối với người dân thị xã nữa…”. Phía sau mà tràn ngập những lời hát, lời thơ đầy không khí chiến trận, chết chóc, chán nản: “Tây Ninh nắng nung người mà trận địa loang máu tươi...”; “Bạn bè anh theo lớp tuổi ra đi, dăm đứa thân nghe tiếng chẳng trở về...”; Ta hỏng Tú tài, ta hụt tình yêu, thi hỏng mất rồi ta đợi ngày đi, đau lòng ta muốn khóc...”. Phía sau mà vẫn thấy chết chóc: Những đoàn xe chở tử sĩ, những đoàn xe chở lính người Việt, lính Mỹ, Đại Hàn, Phi Luật Tân và cả lính Thái Lan chạy sầm sập trên các đường phố”. 

Chiến tranh đeo bám từng con người cá nhân, xộc vào cả trường học, ngõ phố, xóm nhỏ làng quê, xông vào từng gia đình ở phía sau tưởng như rất đỗi bình thường. Họ đến “xóm Sở Mỹ” để nhặt rác Mỹ hoặc làm công trong các sở làm của quân đội Mỹ… Mỗi buổi chiều, bọn trẻ mang theo xô đứng chờ lính Mỹ đổ xúp thừa để mang về nuôi heo, hoặc bán cho các nhà nuôi heo. Đôi khi trong các thùng xúp ấy có cả đồng hồ, bút máy… mà nhiều người làm công đánh cắp bỏ vào nhưng chiều chưa lấy kịp. Người lớn thì nhặt phế liệu bán lại”.

Hiện thực chiến tranh của Nguyễn Một không chỉ phân tuyến bên này bên kia với những hủy diệt tương tàn, mà đan xen, chồng chéo, nhằng nhịt, mờ nhòa, thậm chí có lúc không biết đâu mà lần. Người này cứ tưởng là “chính nghĩa quốc gia”, hóa ra không phải, mà là “lý tưởng cộng sản”. Người kia là học trò, là đại gia lại hóa ra người cách mạng. Người kia là nông dân, là lính cách mạng hóa ra lại chiêu hồi, chỉ điểm cho lính quốc gia khui hầm bí mật…, sống bên cạnh nhau mà không biết ai là “ta”, ai là “địch”. Chẳng biết đâu mà lần. Người em đi lính quốc gia đem thuốc trụ sinh và kim tiên về cho cha để tiêm người anh lính quân giải phóng bị thương phần mềm, viên đạn xuyên qua đùi đang giấu dưới hầm để khỏi nhiễm trùng. Lành vết thương, người anh lại trở về đơn vị. Để rồi trong một trận giao tranh sau buổi gặt đầu trên động ruồng quê hương, anh và em đối mặt nhau… Để rồi, cũng gia đình này, bố mẹ cùng lúc chôn hai người con đi lính quốc gia, một người con đi lính quân giải phóng. Mất mát như nhau, được hưởng tiền tuất, tiền trợ cấp hàng tháng của bên kia, và sau bố mẹ lại được hưởng của bên này. Những đứa con ở hai trận tuyến bắn giết lẫn nhau, và khi chết đều được thờ cúng chung một bàn thờ, an táng trong cùng nghĩa địa dòng họ. Chiến tranh, bên nọ bắn giết bên kia, nhưng chiến tranh cũng là cơ hội để những người nông dân bình thường thanh toán nhau bởi oán thù. Mặc nhiên, những cái chết vô lý mà không vô lý này cũng là một hiện thực chiến tranh của Việt Nam…

Nhà văn Nguyễn Một trả lời báo chí

Có quá nhiều cái chết trong “Từ giờ thứ 6 đến giờ thứ 9”.  Bố mẹ ông Điền, bố mẹ ông Xí đi chợ chết bởi máy bay thả bom. Ông Nguyễn Xí chết bởi “bất ngờ viên đạn từ đâu bắn tới không rõ, xuyên qua đầu từ sau ót trổ ra trước làm nứt toác cả mặt”. Con ông là Nguyễn Đó chiêu hồi, dẫn lính quốc gia đi khui hầm bí mật cũng bị chết khi đêm về, bí mật viếng mộ cha, mà không biết ai giết. 12 người Việt Cộng chui hầm bí mật… chết. “Ông bà Quản Trạm mất tích trên đường chạy trốn”; “Cha mẹ của bà Thu cũng chết thảm trong trận Mậu Thân ở Huế”; Bố mẹ Trang… chết… Cái chết nào cũng khổ. Cái chết nào cũng thương tâm. Không kể hết.

Nhưng, qua “giờ thứ 9” rồi mà chiến tranh vẫn còn tiếp diễn. “Hết chiến tranh, hết chết chóc…”, không phải thế. Chiến tranh chưa ngừng vẫn tiếp diễn, chỉ có điều nó xảy ra với một hình thái mới. Bom đạn còn sót lại… chết. Lòng người ly tán… thì vẫn còn xung đột và… chết. Người cha có 2 con đi lính VNCH và 1 con đi lính cách mạng bị chết, ông lại bất hòa với người con cả là cán bộ cách mạng. Ly tán ngay từ trong gia đình, cha con. Hai dòng họ, gia đình vốn trước đây sống chết san sẻ cả tình cảm và vật chất trong bom đạn, thì kết thúc chiến tranh lại không nhìn mặt nhau. Chết chóc, thù hận triền miên như thế…

Người chết thì cũng chết rồi, nhưng tất cả những người đi qua chiến tranh thì đều bị thương tật. Kẻ bị tàn tật thân xác, người bị tật nguyền tâm hồn. Vợ chồng ông thiếu tá Trần Văn Duy và bà Thu bị mất nhà. Diễm mất nhà, mất người yêu, phải di tản. Sơn mất người yêu, lấy vợ vì sự sắp đặt của anh hai, làm đến vụ trưởng, vợ bỏ. Người yêu là Trần Văn Tâm bị báo tử, Trang gá vào người lính Mỹ, đẻ con mắt xanh tóc vàng, cuộc đời vạ vật làm đĩ khổ sở, ê chề. Hùng biệt động, sau là công an, bị bắt vì tổ chức cho người vượt biên, bị tử hình. Anh Hai đi lính Quân giải phóng bị thương mất cả bộ hạ, rồi bị chất độc da cam, chết khi không còn mặn mà với lý tưởng suốt đời đeo đuổi...

Cuộc chiến kết thúc, lại mở ra một cuộc chiến mới. Thế mới biết hậu quả của chiến tranh nó dữ dội, triền miên, dai dẳng và tác hại khủng khiếp biết chừng nào.

***

Lấy nhân vật trốn lính là Sơn và mối tình học trò với Diễm làm cốt truyện. Sơn chia tay những con trâu - con Cò, con Xe, con Xanh, con Pháo vào thị xã Thủ Biên - miền Nam trọ học, để rồi rớt tú tài, phải đi trốn quân dịch và mối tình của anh đặt trong bối cảnh xã hội thời chiến rộng lớn, bề bộn, ngổn ngang sự kiện, nhân vật. Rất nhiều câu chuyện chiến tranh qua lời kể của Sơn, của Diễm, của các nhân vật, của tác giả nữa, Nguyễn Một có tham vọng dựng lại một cuộc chiến tranh tương tàn, khốc liệt theo quan niệm, và cái nhìn của riêng ông. Có thể nói “Từ giờ thứ 6 đến giờ thứ 9” là nghệ thuật chuyển đổi điểm nhìn chiến tranh. Với tư cách nhà văn, ông nhìn chiến tranh bằng con mắt của thi sĩ Hoàng: “… cuộc chiến chúng ta chán chường như tiểu thuyết của Remarque hơn là nỗi buồn của Camus!”. Nhân vật Sơn trốn lính và hành trình trốn lính cũng là cái cớ để nhà văn trình bày quan niệm về chiến tranh. Ông còn sắm vai thi sĩ Hoàng nhìn thấy: “… con quái vật mang tên “chiến tranh” rồi đây sẽ nuốt chửng tất cả bạn bè anh!”. Ông không chỉ nhìn thấy mà còn xây dựng thành hình tượng nghệ thuật anh em ruột thịt cùng một nhà tương tàn, đối mặt nã súng vào nhau trong cuộc chiến, chết cùng nhau và người lính chung sự lo hậu sự cho lính cả hai bên. Cái nhìn nhân đạo cũng là cái nhìn hiện thực bất bình thường trong chiến tranh Việt Nam.

Nguyễn Một không chỉ nhìn chiến tranh bằng điểm nhìn nghệ thuật của nhà văn, mà ông còn nhìn chiến tranh bằng cái nhìn của người nông dân bình thường - người mẹ người cha chân lấm tay bùn. Bà Kha Ly: “Tôi cũng có hai đứa con theo Quốc gia, hai đứa theo Việt cộng; tôi yêu thương tất cả các con!”. Cho nên, bà lấy thuốc nam chữa cho hàng trăm lính Bắc Việt bị sốt rét quật ngã bằng tấm lòng người mẹ có con đi lính cả hai bên. Còn ông Hai Ruộng chồng bà - người nông dân thợ cày thì đã thấy cuộc chiến tranh cần phải đến lúc chấm dứt: “Ai thắng cũng được, miễn chiến tranh kết thúc là được rồi! Chết chóc thương tật khiếp quá!”. Người nông dân Hai Ruộng lựa chọn để đứa con trai cuối cùng chưa đến tuổi cầm súng đi trốn quân dịch để không theo Mỹ, cũng không theo Quốc gia, chẳng theo Cộng sản, không theo ai cả, chỉ giữ mạng sống để lo hương hỏa cha ông, tổ tiên. “Bằng mọi cách phải trốn lính, không được đi lính với bất kỳ bên nào!”. Cái nhìn này là riêng tư, là khao khát nỗi dõi tông đường rất văn hóa truyền thống, tâm linh.

Có thể nói Nguyễn Một (và cả người biên tập nữa) như một diễn viên xiếc đi chênh vênh trên sợi dây thừng vắt qua vực sâu xung đột của hai ý thức hệ và cũng là tiêu chí xuất bản cần thiết. Nếu ngả về phía bên này một chút, nghiêng bên kia một tí đều sẽ thành cực đoan, giáo điều, chủ quan. Tác giả rất điềm tĩnh và tỉnh táo biết giữ thăng bằng và bước qua một cách ngoạn mục. Cách viết “đi giữa hai làn đạn” này không phải là “dĩ hòa vi quý”, chọn lối an toàn, mà chỉ là thủ pháp nghệ thuật và cách nhìn, cách giải quyết nội dung câu chuyện quá phức tạp, lớn lao. Không thế, không xuất bản được! Cho nên, tiểu thuyết này sẽ được bên “ta” cũng yêu mà bên “địch” cũng quý. Đó là cái nhìn thân phận con người bên này hay phía bên kia đều ở góc độ con người bình thường - con người bình thường bị con ngáo ộp chiến tranh nuốt chửng, mà không có cách gì thoát nổi. Dĩ nhiên là cái nhìn nhân đạo của một nhà văn độ lượng, nhân từ. Không thế, không xuất bản được!

Vẫn lối viết “rời rạc”, “tản mạn”, thậm chí “lỏng”, giằng dịt, rậm rạp… vốn là cái tạng của Nguyễn Một trong văn xuôi mà dễ nhận thấy nhất là truyện ngắn, tiểu thuyết. Ở tiểu thuyết “Từ giờ thứ 6 đến giờ thứ 9” mới nhất này, Nguyễn Một không dùng thủ pháp huyền ảo như “Ngược mặt trời”, “Đất trời vần vũ” mà là kéo hồi ức hiện thực về trang sách. Một hiện thực chiến tranh miên man, đan xen, chồng chéo, có chỗ tưởng như là rối mù…, để rồi rạng dần, sáng rõ và ngã ngũ. Đọc trang viết nào cũng thấy một tấm lòng chân thành, dù tác giả viết về tình yêu học đường lãng mạn, hoặc làng quê A Đông, hay nỗi đau xót xa của thân phận người trong chiến tranh. Đọc chương nào cũng thấy một giọng nói thầm thì, đôi khi thủ thỉ dù là khi đối thoại xung đội, hay miêu tả cảnh sắc, con người nhỏ bé bị chiến tranh hủy diệt, ly tán, hay đoàn tụ,… Nguyễn Một như dòng sông Đồng Nai độ lượng, nhân từ chảy dọc miền đất đau thương, cảm và hiểu, và ứng xử với con người, mong muốn con người dù bầm dập, mất mát trong chinh chiến điêu linh cũng đi đến cái kết nhân ái, có hậu: Trần Văn Tâm còn sống trở về sống vợ chồng với Trang. Gia đình ông Hai Ruộng và bà Kha Ly tưởng như tuyệt tự vì con cái chết chóc, tật nguyền vô sinh vì chiến tranh, thì cuối cùng lại có đứa cháu nối dõi là con của Sơn và Diễm. Hàn gắn vết thương chiến tranh, gắn kết những mảnh vỡ số phận nhân vật là những trang viết dạt dào tình yêu thương con người ở cuối tiểu thuyết đã làm cho tác phẩm bớt ảm đạm, thê lương và làm cho người đọc hy vọng, tin vào những tốt đẹp đã và diễn ra thời hậu chiến.

Tôi thật sự mừng vì tiểu thuyết chiến tranh “Từ giờ thứ 6 đến giờ thứ 9” của Nguyễn Một ra mắt bạn đọc. Mừng cho bạn có sức sáng tạo lớn, lại mừng cho người viết văn chúng ta. Mừng cho Nhà xuất bản Hội Nhà văn có con mắt xanh tinh tường và đầy bản lĩnh để biên tập và cấp phép in. Nhưng, cũng mừng cho ngành xuất bản chấp nhận để cuốn sách của Nguyễn Một ra đời, bắt đầu một đời sống, một số phận riêng của nó. Tôi tin rằng cuốn sách cũng có linh hồn, nó đang vui mừng vì đã được đến với thế giới chúng ta. Tôi cũng hi vọng sẽ có “một thời đại xuất bản mới” xuất hiện trong nền văn học mới.

S.N.M

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm