TIN TỨC

Chiến tranh như là nó đã xảy ra

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-09-20 11:00:20
mail facebook google pos stwis
1200 lượt xem

Sương Nguyệt Minh

(Nhân đọc tiểu thuyết “Từ giờ thứ 6 đến giờ thứ 9” của Nguyễn Một - NXB Hội Nhà văn, tháng 6 năm 2023)

Bìa sách Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín

 

Chiến tranh như là nó đã xảy ra, và vẫn tiếp tục xảy ra không bao giờ dứt!

Cảm giác rất thật khi đọc từng con chữ của Nguyễn Một. Tràn ngập tiểu thuyết “Từ giờ thứ 6 đến giờ thứ 9” là không khí chiến tranh đậm đặc, căng cứng, đôi khi đến nghẹt thở. Không khí chiến tranh trong tác phẩm không chỉ đặc quánh ở các đoạn miêu tả sa trường chiến trận, và cả ở phía sau. Phía sau là: “… những lệnh tổng động viên hay đôn quân ban ra,… các ca khúc gọi là phản chiến của Trịnh Công Sơn được phát liên tục ở các quán cà phê,… báo chí cứ lặp đi lặp lại những tên gọi như “Đại lộ kinh hoàng”, cùng những câu thơ:“…Mai kia trong những ngày ngưng chiến. Ta chắc rằng không thể yêu ai. Nhà thương điên nếu còn chỗ trống. Xin chiếc giường; cho thân xác tàn phai…”; của Nguyễn Bắc Sơn được chuyền tay nhau... thì chiến tranh không còn mơ hồ hay xa xôi đối với người dân thị xã nữa…”. Phía sau mà tràn ngập những lời hát, lời thơ đầy không khí chiến trận, chết chóc, chán nản: “Tây Ninh nắng nung người mà trận địa loang máu tươi...”; “Bạn bè anh theo lớp tuổi ra đi, dăm đứa thân nghe tiếng chẳng trở về...”; Ta hỏng Tú tài, ta hụt tình yêu, thi hỏng mất rồi ta đợi ngày đi, đau lòng ta muốn khóc...”. Phía sau mà vẫn thấy chết chóc: Những đoàn xe chở tử sĩ, những đoàn xe chở lính người Việt, lính Mỹ, Đại Hàn, Phi Luật Tân và cả lính Thái Lan chạy sầm sập trên các đường phố”. 

Chiến tranh đeo bám từng con người cá nhân, xộc vào cả trường học, ngõ phố, xóm nhỏ làng quê, xông vào từng gia đình ở phía sau tưởng như rất đỗi bình thường. Họ đến “xóm Sở Mỹ” để nhặt rác Mỹ hoặc làm công trong các sở làm của quân đội Mỹ… Mỗi buổi chiều, bọn trẻ mang theo xô đứng chờ lính Mỹ đổ xúp thừa để mang về nuôi heo, hoặc bán cho các nhà nuôi heo. Đôi khi trong các thùng xúp ấy có cả đồng hồ, bút máy… mà nhiều người làm công đánh cắp bỏ vào nhưng chiều chưa lấy kịp. Người lớn thì nhặt phế liệu bán lại”.

Hiện thực chiến tranh của Nguyễn Một không chỉ phân tuyến bên này bên kia với những hủy diệt tương tàn, mà đan xen, chồng chéo, nhằng nhịt, mờ nhòa, thậm chí có lúc không biết đâu mà lần. Người này cứ tưởng là “chính nghĩa quốc gia”, hóa ra không phải, mà là “lý tưởng cộng sản”. Người kia là học trò, là đại gia lại hóa ra người cách mạng. Người kia là nông dân, là lính cách mạng hóa ra lại chiêu hồi, chỉ điểm cho lính quốc gia khui hầm bí mật…, sống bên cạnh nhau mà không biết ai là “ta”, ai là “địch”. Chẳng biết đâu mà lần. Người em đi lính quốc gia đem thuốc trụ sinh và kim tiên về cho cha để tiêm người anh lính quân giải phóng bị thương phần mềm, viên đạn xuyên qua đùi đang giấu dưới hầm để khỏi nhiễm trùng. Lành vết thương, người anh lại trở về đơn vị. Để rồi trong một trận giao tranh sau buổi gặt đầu trên động ruồng quê hương, anh và em đối mặt nhau… Để rồi, cũng gia đình này, bố mẹ cùng lúc chôn hai người con đi lính quốc gia, một người con đi lính quân giải phóng. Mất mát như nhau, được hưởng tiền tuất, tiền trợ cấp hàng tháng của bên kia, và sau bố mẹ lại được hưởng của bên này. Những đứa con ở hai trận tuyến bắn giết lẫn nhau, và khi chết đều được thờ cúng chung một bàn thờ, an táng trong cùng nghĩa địa dòng họ. Chiến tranh, bên nọ bắn giết bên kia, nhưng chiến tranh cũng là cơ hội để những người nông dân bình thường thanh toán nhau bởi oán thù. Mặc nhiên, những cái chết vô lý mà không vô lý này cũng là một hiện thực chiến tranh của Việt Nam…

Nhà văn Nguyễn Một trả lời báo chí

Có quá nhiều cái chết trong “Từ giờ thứ 6 đến giờ thứ 9”.  Bố mẹ ông Điền, bố mẹ ông Xí đi chợ chết bởi máy bay thả bom. Ông Nguyễn Xí chết bởi “bất ngờ viên đạn từ đâu bắn tới không rõ, xuyên qua đầu từ sau ót trổ ra trước làm nứt toác cả mặt”. Con ông là Nguyễn Đó chiêu hồi, dẫn lính quốc gia đi khui hầm bí mật cũng bị chết khi đêm về, bí mật viếng mộ cha, mà không biết ai giết. 12 người Việt Cộng chui hầm bí mật… chết. “Ông bà Quản Trạm mất tích trên đường chạy trốn”; “Cha mẹ của bà Thu cũng chết thảm trong trận Mậu Thân ở Huế”; Bố mẹ Trang… chết… Cái chết nào cũng khổ. Cái chết nào cũng thương tâm. Không kể hết.

Nhưng, qua “giờ thứ 9” rồi mà chiến tranh vẫn còn tiếp diễn. “Hết chiến tranh, hết chết chóc…”, không phải thế. Chiến tranh chưa ngừng vẫn tiếp diễn, chỉ có điều nó xảy ra với một hình thái mới. Bom đạn còn sót lại… chết. Lòng người ly tán… thì vẫn còn xung đột và… chết. Người cha có 2 con đi lính VNCH và 1 con đi lính cách mạng bị chết, ông lại bất hòa với người con cả là cán bộ cách mạng. Ly tán ngay từ trong gia đình, cha con. Hai dòng họ, gia đình vốn trước đây sống chết san sẻ cả tình cảm và vật chất trong bom đạn, thì kết thúc chiến tranh lại không nhìn mặt nhau. Chết chóc, thù hận triền miên như thế…

Người chết thì cũng chết rồi, nhưng tất cả những người đi qua chiến tranh thì đều bị thương tật. Kẻ bị tàn tật thân xác, người bị tật nguyền tâm hồn. Vợ chồng ông thiếu tá Trần Văn Duy và bà Thu bị mất nhà. Diễm mất nhà, mất người yêu, phải di tản. Sơn mất người yêu, lấy vợ vì sự sắp đặt của anh hai, làm đến vụ trưởng, vợ bỏ. Người yêu là Trần Văn Tâm bị báo tử, Trang gá vào người lính Mỹ, đẻ con mắt xanh tóc vàng, cuộc đời vạ vật làm đĩ khổ sở, ê chề. Hùng biệt động, sau là công an, bị bắt vì tổ chức cho người vượt biên, bị tử hình. Anh Hai đi lính Quân giải phóng bị thương mất cả bộ hạ, rồi bị chất độc da cam, chết khi không còn mặn mà với lý tưởng suốt đời đeo đuổi...

Cuộc chiến kết thúc, lại mở ra một cuộc chiến mới. Thế mới biết hậu quả của chiến tranh nó dữ dội, triền miên, dai dẳng và tác hại khủng khiếp biết chừng nào.

***

Lấy nhân vật trốn lính là Sơn và mối tình học trò với Diễm làm cốt truyện. Sơn chia tay những con trâu - con Cò, con Xe, con Xanh, con Pháo vào thị xã Thủ Biên - miền Nam trọ học, để rồi rớt tú tài, phải đi trốn quân dịch và mối tình của anh đặt trong bối cảnh xã hội thời chiến rộng lớn, bề bộn, ngổn ngang sự kiện, nhân vật. Rất nhiều câu chuyện chiến tranh qua lời kể của Sơn, của Diễm, của các nhân vật, của tác giả nữa, Nguyễn Một có tham vọng dựng lại một cuộc chiến tranh tương tàn, khốc liệt theo quan niệm, và cái nhìn của riêng ông. Có thể nói “Từ giờ thứ 6 đến giờ thứ 9” là nghệ thuật chuyển đổi điểm nhìn chiến tranh. Với tư cách nhà văn, ông nhìn chiến tranh bằng con mắt của thi sĩ Hoàng: “… cuộc chiến chúng ta chán chường như tiểu thuyết của Remarque hơn là nỗi buồn của Camus!”. Nhân vật Sơn trốn lính và hành trình trốn lính cũng là cái cớ để nhà văn trình bày quan niệm về chiến tranh. Ông còn sắm vai thi sĩ Hoàng nhìn thấy: “… con quái vật mang tên “chiến tranh” rồi đây sẽ nuốt chửng tất cả bạn bè anh!”. Ông không chỉ nhìn thấy mà còn xây dựng thành hình tượng nghệ thuật anh em ruột thịt cùng một nhà tương tàn, đối mặt nã súng vào nhau trong cuộc chiến, chết cùng nhau và người lính chung sự lo hậu sự cho lính cả hai bên. Cái nhìn nhân đạo cũng là cái nhìn hiện thực bất bình thường trong chiến tranh Việt Nam.

Nguyễn Một không chỉ nhìn chiến tranh bằng điểm nhìn nghệ thuật của nhà văn, mà ông còn nhìn chiến tranh bằng cái nhìn của người nông dân bình thường - người mẹ người cha chân lấm tay bùn. Bà Kha Ly: “Tôi cũng có hai đứa con theo Quốc gia, hai đứa theo Việt cộng; tôi yêu thương tất cả các con!”. Cho nên, bà lấy thuốc nam chữa cho hàng trăm lính Bắc Việt bị sốt rét quật ngã bằng tấm lòng người mẹ có con đi lính cả hai bên. Còn ông Hai Ruộng chồng bà - người nông dân thợ cày thì đã thấy cuộc chiến tranh cần phải đến lúc chấm dứt: “Ai thắng cũng được, miễn chiến tranh kết thúc là được rồi! Chết chóc thương tật khiếp quá!”. Người nông dân Hai Ruộng lựa chọn để đứa con trai cuối cùng chưa đến tuổi cầm súng đi trốn quân dịch để không theo Mỹ, cũng không theo Quốc gia, chẳng theo Cộng sản, không theo ai cả, chỉ giữ mạng sống để lo hương hỏa cha ông, tổ tiên. “Bằng mọi cách phải trốn lính, không được đi lính với bất kỳ bên nào!”. Cái nhìn này là riêng tư, là khao khát nỗi dõi tông đường rất văn hóa truyền thống, tâm linh.

Có thể nói Nguyễn Một (và cả người biên tập nữa) như một diễn viên xiếc đi chênh vênh trên sợi dây thừng vắt qua vực sâu xung đột của hai ý thức hệ và cũng là tiêu chí xuất bản cần thiết. Nếu ngả về phía bên này một chút, nghiêng bên kia một tí đều sẽ thành cực đoan, giáo điều, chủ quan. Tác giả rất điềm tĩnh và tỉnh táo biết giữ thăng bằng và bước qua một cách ngoạn mục. Cách viết “đi giữa hai làn đạn” này không phải là “dĩ hòa vi quý”, chọn lối an toàn, mà chỉ là thủ pháp nghệ thuật và cách nhìn, cách giải quyết nội dung câu chuyện quá phức tạp, lớn lao. Không thế, không xuất bản được! Cho nên, tiểu thuyết này sẽ được bên “ta” cũng yêu mà bên “địch” cũng quý. Đó là cái nhìn thân phận con người bên này hay phía bên kia đều ở góc độ con người bình thường - con người bình thường bị con ngáo ộp chiến tranh nuốt chửng, mà không có cách gì thoát nổi. Dĩ nhiên là cái nhìn nhân đạo của một nhà văn độ lượng, nhân từ. Không thế, không xuất bản được!

Vẫn lối viết “rời rạc”, “tản mạn”, thậm chí “lỏng”, giằng dịt, rậm rạp… vốn là cái tạng của Nguyễn Một trong văn xuôi mà dễ nhận thấy nhất là truyện ngắn, tiểu thuyết. Ở tiểu thuyết “Từ giờ thứ 6 đến giờ thứ 9” mới nhất này, Nguyễn Một không dùng thủ pháp huyền ảo như “Ngược mặt trời”, “Đất trời vần vũ” mà là kéo hồi ức hiện thực về trang sách. Một hiện thực chiến tranh miên man, đan xen, chồng chéo, có chỗ tưởng như là rối mù…, để rồi rạng dần, sáng rõ và ngã ngũ. Đọc trang viết nào cũng thấy một tấm lòng chân thành, dù tác giả viết về tình yêu học đường lãng mạn, hoặc làng quê A Đông, hay nỗi đau xót xa của thân phận người trong chiến tranh. Đọc chương nào cũng thấy một giọng nói thầm thì, đôi khi thủ thỉ dù là khi đối thoại xung đội, hay miêu tả cảnh sắc, con người nhỏ bé bị chiến tranh hủy diệt, ly tán, hay đoàn tụ,… Nguyễn Một như dòng sông Đồng Nai độ lượng, nhân từ chảy dọc miền đất đau thương, cảm và hiểu, và ứng xử với con người, mong muốn con người dù bầm dập, mất mát trong chinh chiến điêu linh cũng đi đến cái kết nhân ái, có hậu: Trần Văn Tâm còn sống trở về sống vợ chồng với Trang. Gia đình ông Hai Ruộng và bà Kha Ly tưởng như tuyệt tự vì con cái chết chóc, tật nguyền vô sinh vì chiến tranh, thì cuối cùng lại có đứa cháu nối dõi là con của Sơn và Diễm. Hàn gắn vết thương chiến tranh, gắn kết những mảnh vỡ số phận nhân vật là những trang viết dạt dào tình yêu thương con người ở cuối tiểu thuyết đã làm cho tác phẩm bớt ảm đạm, thê lương và làm cho người đọc hy vọng, tin vào những tốt đẹp đã và diễn ra thời hậu chiến.

Tôi thật sự mừng vì tiểu thuyết chiến tranh “Từ giờ thứ 6 đến giờ thứ 9” của Nguyễn Một ra mắt bạn đọc. Mừng cho bạn có sức sáng tạo lớn, lại mừng cho người viết văn chúng ta. Mừng cho Nhà xuất bản Hội Nhà văn có con mắt xanh tinh tường và đầy bản lĩnh để biên tập và cấp phép in. Nhưng, cũng mừng cho ngành xuất bản chấp nhận để cuốn sách của Nguyễn Một ra đời, bắt đầu một đời sống, một số phận riêng của nó. Tôi tin rằng cuốn sách cũng có linh hồn, nó đang vui mừng vì đã được đến với thế giới chúng ta. Tôi cũng hi vọng sẽ có “một thời đại xuất bản mới” xuất hiện trong nền văn học mới.

S.N.M

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Mỹ cảm của kiểu tự sự trong suốt trong tập tản văn “Nỗi buồn trong suốt” của Nguyễn Đức Phú Thọ
Tản văn là một thể loại dễ tiếp cận với mọi mặt của đời sống thông qua những lát cắt hiện thực, nhưng trung tâm tinh thần của thể loại này lại là cái tôi tư tưởng, cảm xúc của người nghệ sĩ. Tản văn vừa đậm chất trữ tình, vừa mang bản chất tự sự. Mỗi tác phẩm là một cách diễn giải về “Thế giới như tôi thấy”, đồng thời cũng là một tấm gương phản chiếu cấu trúc nội tâm của nhà văn.
Xem thêm
Cảm nhận thơ Trần Xuân Hóa từ một góc nhìn đa cảm
Bài viết của nhà thơ CCB Trần Trí Thông
Xem thêm
Hơi thở đất quê trong miền nhớ của Huỳnh Khang
Chủ đề và nội dung trong MIỀN NHỚ xoay quanh ký ức quê hương, tình mẫu tử, nghĩa làng nghĩa xóm, thiên nhiên, tình yêu đôi lứa, nỗi buồn mất mát, cùng những triết lý đời thường.
Xem thêm
Tiếng văn từ phía “bạn nguồn”
Nguyễn Minh Sơn, Hồ Tấn Vũ và Nguyễn Thị Như Hiền là ba cây bút thuộc thế hệ 7X và 9X
Xem thêm
Về trên dặm trường thiên lý “Miền Ô châu”
Tiếp theo các cuốn tản văn Sông vẫn chảy đời sông (NXB Thanh Niên 2023), Bốn mùa thương nhớ (NXB Thanh Niên 2024), nhà văn Nguyễn Linh Giang vừa ra mắt cuốn tản văn mới: “Miền Ô Châu” (NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2025).
Xem thêm
Thơ ca chào đón Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Cách mạng tháng Tám - 1945 thành công, mở ra trang sử vàng chói lọi cho dân tộc. Bác Hồ đọc “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập. Hai tiếng Việt Nam vang lên đầy phấn khởi, tự hào trên trường quốc tế, đã khơi nguồn, làm bừng dậy biết bao cảm hứng về thơ ca, nhạc, họa thật mới mẻ, mãnh liệt và sôi nổi, làm không khí văn nghệ đổi sắc thay da. Từ đây nền văn học của ta chỉ còn duy nhất một trào lưu là văn học cách mạng.
Xem thêm
Hồi hộp trước “phút bù giờ” của Minh Đan
Ngôn ngữ của Minh Đan đôi lúc không còn chỉ là ký tự để giải nghĩa, mà là vật liệu có tâm hồn – biết khít lại, giãn ra, để tạo hình tượng và âm thanh.
Xem thêm
Phát triển
Nội dung quyết định hình thức. Xét cả quá trình văn học lâu dài, các hình thức tác phẩm kế tiếp nhau xuất hiện, tác động vào nền văn học, góp phần tạo ra phát triển văn chương. Bài viết chỉ đề cập đến chủ đề này của cuốn sách.
Xem thêm
Vẻ đẹp tình người và nỗi niềm ưu tư trong thơ Phạm Nguyên Thạch
Một trong những cánh én đầu đàn của văn học An Giang - nhà thơ Phạm Nguyên Thạch, anh sinh năm 1948, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật An Giang và hiện là Chi hội trưởng Chi hội Nhà văn Việt Nam tỉnh An Giang. Anh sáng tác từ trước năm 1975. Từ đó đến nay, nhà thơ đã có những tác phẩm tạo tiếng vang được xuất bản: “Ngôi nhà lợp ngói âm dương” (Văn Nghệ AG, 1986); “Theo tình” (VNAG, 1994); “Gió” (NXB Trẻ, 1999); “Thị trấn đá” (VNAG, 2002); “Cỏ lá quẩn quanh” (VNAG, 2006); “Mưa ảo” (NXB Hội Nhà văn, 2019).
Xem thêm
Nghiên cứu truyện Nam Cao theo góc nhìn thi pháp
Bằng cách ghi nhận từ các bài nghiên cứu, lời giới thiệu, chắt lọc những ý kiến nho nhỏ, có khi chỉ một vài nhận xét liên quan, có thể đưa ra một cách nhìn về tình hình nghiên cứu truyện ngắn Nam Cao trên góc độ thi pháp học hiện đại.
Xem thêm
Nguyễn Thành Phong – Nhà thơ tài hoa trữ tình, quan chiêm ngoại vi và nội hàm tự sự luận cảm của thơ Việt Nam thời kỳ đổi mới
Trữ tình và tự sự là những khái niệm của thơ, ngoại diên và nội hàm là những khái niệm của logic học. Ngoại vi là một phần của ngoại diên chỉ các đối tượng có phạm vi nhất định và chỉ định. Trong thơ, nó là các địa danh, hoặc các nhân vật trữ tình, các không thời gian xác định, tạo nguồn cảm hứng. Ngoại vi nhỏ hơn ngoại diên. Nội hàm là nội dung thuộc tính bên trong cả chủ quan và khách quan của sự vật, hiện tượng. Trữ tình nói bằng cảm xúc, gắn với bộc lộ chủ thể. Tự sự kể lại, tả lại khách thể. Phàm lệ mấy câu để bài viết này đỡ cảm thấy gượng ép, mong được đồng cảm.
Xem thêm
Hãy sống như những người đã chết - Một nhan đề độc đáo
Lúc đi học, thầy cô từng bảo nhan đề là tên của tác phẩm, còn có cách gọi khác là đầu đề, là cái tít chung của một văn bản. Nhan đề (đầu đề) thường do người viết đặt ra - như người bố, người mẹ đặt tên cho đứa con của mình; nhưng cũng có khi do người khác (cán bộ biên tập) đặt hộ, hoặc đổi tên đi cho hay, cho phù hợp với chủ đề của tác phẩm.
Xem thêm
Inrasara: Tác phẩm văn chương, từ tốt & hay đến lớn
Tại tọa đàm cùng tên do Hội Nhà văn TPHCM tổ chức, nhà thơ – nhà phê bình Inrasara đã mang đến những luận điểm sắc sảo, giàu trải nghiệm, mở ra cách nhìn mới về sự cộng hưởng giữa sáng tác và tiếp nhận, để văn chương thực sự chạm tới và ở lại lâu dài trong lòng người đọc.
Xem thêm
Văn học Đổi mới, một cách nhận diện
Cho đến nay, cụm từ “Văn học Đổi mới đã được sử dụng khá rộng rãi. Từ trong nhà trường đến ngoài xã hội, từ báo chí đến các các cơ quan truyền hình, đài phát thanh, trong các bài nói chuyện hay phát biểu của các nhà sáng tác, phê bình văn học, nó được xuất hiện một cách tự nhiên giống như một thuật ngữ đã được định hình.
Xem thêm
Phù sa tâm hồn qua “Ký ức bão!” của Lương Duy Cường
Những ngày đầu tháng Tám, tôi có chuyến đi miền Trung vào đúng dịp trời như rút ruột để nắng, đến nỗi chỉ cần thêm một giọt bỏng sẽ vỡ cả thinh không. Để mấy ngày sau trở về nhà, trong giấc mơ, quờ tay, tôi vẫn chạm vào bỏng rát. Người ta nói, trước những cơn thiên tai, nắng thường đi trước để dọn đường.
Xem thêm
Đói và sự thức tỉnh mình
Đọc ĐÓI của Đỗ Thành Đồng ngay trong phút thứ 59 và chuẩn bị bước qua con số 0. Nhìn lên góc giấy, hóa ra đây là trang thứ 59 LỤC BÁT ĐỜI. Có những sự tự nhiên, ngẫm cũng hay.
Xem thêm
Tác phẩm hay –Từ tiếp nhận và sáng tác
Có những câu hỏi tưởng chừng giản dị nhưng khiến người cầm bút trăn trở cả đời: Thế nào là một tác phẩm hay?
Xem thêm
Cảm thức quê hương, từ những tản văn đậm hồn quê
Ai đó từng nói: “Trong vũ trụ có nhiều kỳ quan, nhưng kỳ quan tuyệt phẩm nhất đó là trái tim người mẹ”. Tình yêu của mẹ đẹp đẽ, thiêng liêng và bao la chẳng có bến bờ. Có mẹ, ta như có tất cả. Khi mẹ vắng xa cuộc sống sẽ đầy nỗi buồn thương, chán chường, tiếc nuối… Thời gian có chờ đợi ai bao giờ…
Xem thêm
Ký ức bóng mùa qua hay là cảm thức thời gian trong thơ Cao Ngọc Thắng
Cao Ngọc Thắng đã thực sự ám ảnh và thao thức về thời gian, không ngừng đi tìm thời gian đã mất để phục sinh những ký ức gần và ký ức xa trên hành trình tâm linh sự sống.
Xem thêm
Văn học các dân tộc thiểu số sau ngày đất nước thống nhất và hướng đi mới trong kỉ nguyên số
Văn học hiện đại các dân tộc thiểu số sau gần một thế kỉ hình thành và phát triển, đến nay đã có gần 1500 hội viên ở các loại hình nghệ thuật. Các thế hệ nhà văn dân tộc thiểu số đã đạt được những thành tựu và ghi dấu ấn độc đáo trong nền văn học nước nhà.
Xem thêm