TIN TỨC

Chuyện về các liệt sĩ hy sinh trước thềm giải phóng

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-10-11 09:29:20
mail facebook google pos stwis
1913 lượt xem

HƯỞNG ỨNG  CUỘC THI "ĐỀN ƠN ĐÁP NGHĨA"                      

TIỂU LINH

“Máu của các liệt sĩ đã làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ chói…” - Hơn 5 năm đồng hành với các Đội Quy tập liệt sĩ, các cựu chiến binh (CCB), các nhân chứng và cả các thân nhân liệt sĩ trên mọi miền Tổ quốc, câu nói của Bác Hồ luôn vang lên trong tôi như một lời nhắc nhớ về những người con đất Việt đã ngã xuống cho sự bình yên hôm nay. Chẳng có nỗi đau nào lớn hơn khi đường tới hòa bình chỉ còn những bước rất ngắn nhưng các bác đã không có cơ hội được nhìn thấy cờ hoa rức rỡ đường phố Sài Gòn. Đó là câu chuyện của các liệt sĩ thuộc Tiểu đoàn Vận tải 701, Bộ Tham mưu, Quân đoàn 1.

ĐI QUA CHIẾN TRANH MỚI THẤU TÌNH ĐỒNG ĐỘI

Tháng 4/1975, Tiểu đoàn vận tải 701 (d701) Bộ Tham mưu, Quân đoàn 1 (QĐ1) tham gia chở khí tài chuẩn bị cho chiến dịch giải phóng Sài Gòn. Ngày 22/4, khi tới địa bàn xã Đăng Nghĩa, huyện Bù Đăng, tỉnh Phước Long (nay là xã Nghĩa Trung, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước), chiếc xe bị ném bom, bốn đồng chí hy sinh. Do sự khẩn cấp của công việc, các anh chỉ kịp an táng đồng đội của mình ngay bên đường rồi tiếp tục hành quân về Sài Gòn.

Sơ đồ mộ chi an táng các liệt sĩ.

Bốn liệt sĩ được an táng theo thứ tự: Phần mộ thứ nhất của liệt sĩ Vũ Ngọc Hùng, mộ thứ hai của liệt sĩ Vũ Hữu Thi, mộ thứ ba mang tên liệt sĩ Phạm Văn Khâm và phần mộ liệt sĩ Trần Văn Châu ở vị trí cuối cùng. Các anh đều cùng quê Thanh Hóa.

Ngày 28/5/1975, sau khi hoàn thành nhiệm vụ, các đồng chí của d701 quay ra Bắc. Khi đến nơi an táng 4 đồng đội, các anh đã vẽ lại sơ đồ mộ chí và bàn giao cho chính quyền địa phương, người tiếp nhận và ký biên bản là ông Nguyễn Hường - Chủ tịch Ủy ban Nhân dân (UBND) xã Đăng Nghĩa. Chiến tranh kết thúc, dù phải bắt tay xây dựng đất nước, song công tác quy tập liệt sĩ vẫn được Đảng, Nhà nước và Quân đội đặc biệt quan tâm. Trên khắp cả nước, các phần mộ liệt sĩ lần lượt được tổ chức quy tập và đưa về an táng tại Nghĩa trang liệt sĩ (NTLS), liệt sĩ hy sinh ở đâu sẽ quy tập về NTLS của địa phương đó. Vì vậy, phần mộ của 4 liệt sĩ d701 của QĐ1 cũng được cất bốc và đem về an táng tại NTLS Phước Long. Tuy nhiên, do sơ suất của cán bộ quy tập nên trong phần đơn vị của các liệt sĩ được ghi chú là QK1. Chính vì sự nhầm lẫn này mà đội ngũ cán bộ Chính sách của QĐ1 đã nhiều lần vào Bình Phước tìm kiếm nhưng không có kết quả, dù trong tay họ có đầy đủ hồ sơ liệt sĩ và sơ đồ mộ chí. Cuối năm 2014, Ban Chính sách -  QĐ1 đã gửi toàn bộ hồ sơ của 4 liệt sĩ cho Hội Cựu chiến binh (CCB) tình nguyện tỉnh Bình Phước, đề nghị hỗ trợ tìm kiếm.

CCB Vũ Đình Luật cùng các CCB Đoàn CCB tỉnh Bình Phước trong một hành trình tìm kiếm liệt sĩ.

Là một trong những người đầu tiên tiếp nhận hồ sơ của 4 liệt sĩ d701QĐ1, CCB Vũ Đình Luật đã quay lại những mốc địa giới cũ để xác minh chính xác vị trí xã Đăng Nghĩa. Sau đó, ông được biết xã Đăng Nghĩa nay đã đổi tên thành xã Nghĩa Trung. Tiếp tục hành trình tìm kiếm các nhân chứng, ông nhận thông tin sau khi quy tập đưa về nghĩa trang thì không ai nắm được chuyển về đâu. Và thật bất ngờ, các liệt sĩ đều được đưa về an táng tại NTLS thị xã Phước Long, vị trí bốn phần mộ vẫn không thay đổi. Khi đứng trước các liệt sĩ, ông đã thốt lên thành tiếng: “Các anh đang ở đây mà sao thử thách chúng tôi nhiều thế. Tôi đi tìm mãi…”. Dù biết những người lính dưới bao tấc đất kia chẳng thể nghe nhưng ông vẫn muốn được chia sẻ với họ những cảm xúc của mình lúc ấy.

Hơn 2 năm rong ruổi khắp các NTLS của thị xã Phước Long, để rồi khi đứng trước những phần mộ ấy, ông lại thấy sự thử thách 2 năm của mình thật xứng đáng. Mỗi khi nhớ lại khoảnh khắc ấy, CCB Vũ Đình Luật đều rơi nước mắt vì xúc động: “Chỉ ai đã từng bước qua chiến tranh, mới thấu hiểu tình đồng đội”.

NHỮNG CUỘC TRÙNG PHÙNG CẢM ĐỘNG

Tôi nhớ, hôm ấy là một ngày đầu đông năm 2016, ngày Hà Nội đón đợt lạnh tái tê. CCB Vũ Đình Luật gọi điện cho tôi từ Bình Phước và nói trong niềm xúc động: “Cháu ơi, cuối cùng chú đã tìm được các liệt sĩ của Tiểu đoàn vận tải 701 rồi, ngay trong NTLS huyện Phước Long. Các anh ấy ở ngay trước mắt mà bao năm nay đồng đội vẫn mải miết đi tìm. Người ta nhầm QĐ1 thành QK1 cháu ạ, chỉ sai một tí ấy thôi mà cuộc tìm kiếm phải kéo dài gần 40 năm”. Vậy là sau 2 năm vất vả ngược xuôi, người lính già ấy đã có thể mãn nguyện khi tìm được phần mộ của các liệt sĩ.

CCB Vũ Đình Luật gặp gỡ các nhân chứng để tìm kiếm thông tin cho các liệt sĩ.

Mấy ngày sau, tôi nhận được hồ sơ của các liệt sĩ d701 kèm bức thư tay của CCB Vũ Đình Luật. Trong thư, ông có nguyện vọng nhờ tôi cùng đồng hành để tìm kiếm thân nhân cho 4 liệt sĩ. Trong mọi cuộc tìm kiếm thì hành trình tìm người thân liệt sĩ lúc nào cũng đơn giản nhất bởi chỉ cần có địa chỉ, dù ở đâu trên mảnh đất này chúng tôi cũng cố gắng tìm được. Và chuyến đi tìm thân nhân cho các liệt sĩ d701 thuộc QĐ1 cũng không ngoại lệ. Khi chúng tôi về đến Thanh Hóa, Phòng Người có Công, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội đã cung cấp cho tôi hồ sơ đầy đủ của 4 liệt sĩ và người đang thờ cúng các liệt sĩ. Không mất nhiều thời gian, chúng tôi đã liên hệ được cả 4 thân nhân. Tuy nhiên, chỉ có thân nhân liệt sĩ Vũ Ngọc Hùng và thân nhân liệt sĩ Trần Văn Châu muốn đưa các bác về quê hương, gia đình liệt sĩ Vũ Hữu Thi và liệt sĩ Phạm Văn Khâm muốn các ông ở lại cùng đồng đội ở NTLS thị xã Phước Long.

Thân nhân liệt sĩ Trần Văn Châu đón chúng tôi trong căn nhà nhỏ ở xã Đông Khê, huyện Đông Sơn. Trên ban thờ, bên cạnh di ảnh bố mẹ được chụp cẩn thận thì di ảnh liệt sĩ chỉ được vẽ lại theo mô tả của các anh chị em trong gia đình. Nghe tin tìm được phần mộ của em trai, bà Trần Thị Bang thắp nén nhang trước di ảnh liệt sĩ, mắt ngấn nước. “Thương em nhiều lắm. Mấy chục năm giờ mới biết tin em. Vừa cưới vợ chưa kịp có con thì ra trận. Dẫu chiến tranh ác liệt nhưng vẫn lạc quan động viên mọi người. Thế rồi tin em hy sinh bay về, mẹ già khóc thương tiễn con, nhìn sang con dâu vừa qua tuổi đôi mươi, chẳng nhẽ vờ võ vậy cả đời?” - Bà Bang nói với tôi mà như nói với chính mình.

Khi nghe tin đã tìm được phần mộ của chồng cũ, bà Lê Thị Thú rất xúc động. Gần 40 năm trước khi nghe tin chồng hy sinh, bà vô cùng đau khổ. Chính mẹ chồng là người động viên bà đi bước nữa chứ không muốn con dâu góa bụa và cô đơn một đời. Các anh chị em nhà chồng động viên, cuối cùng bà đồng ý. Dù có chồng mới nhưng bà vẫn chưa bao giờ quên trách nhiệm của mình với gia đình liệt sĩ Trần Văn Châu. Gia đình chồng mới cũng trân trọng những ký ức đẹp đẽ của bà với gia đình liệt sĩ và cùng bà giữ gìn tình cảm ấy.

Đón nhận tin về phần mộ của anh trai ở NTLS thị xã Phước Long, ông Vũ Văn Cường hết sức ngỡ ngàng. Thực tế, ông đã có rất nhiều chuyến đi tìm liệt sĩ Vũ Ngọc Hùng ở rất nhiều nghĩa trang nhưng càng đi càng vô vọng. Cho đến khi ngỡ như phải bỏ cuộc thì lại có thông tin. “Giấy báo tử chỉ ghi là hy sinh mặt trận phía Nam nên bao năm qua tôi cứ đi tìm theo cảm tính. Tôi còn không biết anh hy sinh ở Phước Long” - Ông Cường nói xong, úp tấm sơ đồ vào mặt mình, người rung lên.

TRỞ VỀ…

Khi mọi thông tin đã khớp nối với nhau, tôi lên đường vào Bình Phước để cùng Đoàn CCB Tình nguyện tỉnh Bình Phước tổ chức đưa các liệt sĩ trở về quê nhà. Rới NTLS huyện Phước Long để thắp hương cho các liệt sĩ, CCB Vũ Đình Luật đã chờ tôi ở đó, ông chỉ vào hai lá cờ Tổ quốc và rất nhiều hoa cúc mà Đoàn CCB tỉnh Bình Phước chuẩn bị cho 2 liệt sĩ mà mỉm cười và khẽ nói: “Đây là giây phút hạnh phúc nhất của những người lính già”.

CCB Vũ Đình Luật và các CCB tỉnh Bình Phước tiễn đưa các liệt sĩ D701.

Trước khi rời Phước Long, tôi cùng CCB Vũ Đình Luật đi dọc những hàng mộ ở NTLS Thị xã Phước Long, nơi an nghỉ của hàng ngàn liệt sĩ khắp cả nước. Nhiều phần mộ chưa biết tên, một số khác thiếu thông tin nên chưa kết nối được với người thân. Những ngôi mộ có đủ thông tin thì gia đình lựa chọn để các liệt sĩ ở đây cùng đồng đội... Dù đã tìm được người thân cho các liệt sĩ hay chưa thì với người dân thị xã Phước Long, các liệt sĩ đều là những người con của quê hương họ, là một phần của mảnh đất này.

Sau gần 40 năm ngày những người lính anh dũng quả cảm nằm lại nơi đây, mảnh đất Phước Long giờ đã thay da đổi thịt, cuộc sống mới đã và đang hiện rõ hình hài qua từng con đường tôi đi qua, trên từng gương mặt mà tôi đã gặp.

Trên chuyến xe từ Nam ra Bắc, mỗi khi đoàn chúng tôi dừng lại nghỉ chân, người dân hai bên đường chẳng ai bảo ai, đều bước tới thắp nhang cho các liệt sĩ. Tôi nhớ mãi hình ảnh một người lính già, vừa đặt hai bông hoa lên hai chiếc tiểu sành phủ cờ Tổ quốc vừa thủ thỉ: “Các anh hy sinh cho tôi được sống, chúng tôi sẽ luôn nhớ về các anh, nhớ về quá khứ để nhắc mình sống thật ý nghĩa”.

Khi bước đến thắp hương cho các liệt sĩ, nhìn lá cờ đỏ sao vàng phủ trên những chiếc tiểu nhỏ, tôi nhớ về bác mình - Liệt sĩ Nguyễn Văn Cừ, hy sinh ở Kon Tum nhưng đến nay vẫn chưa tìm được hài cốt. Tôi đã đi khắp chiến trường Tây Nguyên để tìm bác nhưng không có kết quả. Thời gian quá lâu, địa hình thay đổi, ngay cả khi cầm trên tay tọa độ nơi bác hy sinh nhưng tôi cũng không thể xác định được phần mộ bác ở đâu. Hơn 50 năm, ngoại tôi đã không thể chờ được con trai về.

Mỗi người lính nằm xuống hay có những người bỏ lại một phần lại một phần thân thể nơi chiến trường đều là một ánh hào quang soi tỏ hơn con đường chúng ta đi hôm nay, nhắc nhở chúng ta cùng nhau xây dựng đất nước, để xứng đáng với sự hy sinh của cha ông mình.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Sương rơi trên lá non - Tản văn Hồng Loan
Có những đoạn đời, ta đi qua như kẻ mộng du giữa những vết xước của chính mình. Mỗi ngày trôi, ta tưởng mình vẫn sống, nhưng kỳ thực chỉ là đang lặp lại những hơi thở cũ, nhạt nhòa và vô nghĩa. Tổn thương không chỉ làm ta đau, nó khiến ta lãng quên, quên mất rằng mình từng có một tâm hồn trong trẻo, từng biết rung động trước điều nhỏ bé nhất trong đời.
Xem thêm
Người gieo hạt yêu thương – Tản văn Chu Thị Phương Thảo
Nhắc đến quãng đời học trò, tôi không thể quên hình ảnh cô giáo Trương Hoàng Oanh – người đã dìu dắt tôi suốt những năm cấp hai. Với tôi, cô không chỉ là một người thầy, mà còn là người mẹ thứ hai, người để lại trong lòng tôi những ký ức không thể phai mờ. Cho đến hôm nay, mỗi khi nhắm mắt lại, tôi vẫn thấy rõ ánh mắt hiền từ của cô, vẫn nghe giọng nói trầm ấm khi cô gọi tôi bằng cái tên thân thương: “Nhím” – cái tên gắn bó với tôi như một phần ký ức ngọt ngào của tuổi học trò.
Xem thêm
Những người con đất Quảng - Bút ký Phùng Chí Cường
Ngày 20 tháng 7 năm 1954 hiệp định Giơnevơ được ký kết, chấm dứt gần 100 năm người Pháp đặt ách đô hộ lên đất nước ta. Nhưng ngay sau khi chữ ký chưa ráo mực, thì đế quốc Mỹ đã nhảy vào miền Nam hất cẳng Pháp, đưa con bài Ngô Đình Diệm về Sài Gòn để lập ra chính quyền bù nhìn thân Mỹ, chúng rắp tâm chia cắt lâu dài đất nước ta. Năm đó, nhiều cán bộ miền Nam đã ra Bắc tập kết, để lại quê nhà, gia đình vợ con và những người thân, rồi họ cùng nhau mòn mỏi trông chờ ngày đoàn tụ. Tới ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, hai miền Nam - Bắc mới được sum họp một nhà. Vậy trong hơn 20 năm xa cách ấy những người ở lại miền Nam, dưới sự đàn áp điên cuồng của đế quốc Mỹ cùng bè lũ tay sai, họ đã phải sống ra sao? Chúng ta hãy đi tìm câu trả lời:
Xem thêm
Từ dòng Lam đến Vàm Cỏ Đông
Một đêm diễn đặc biệt tại Nhà Văn hóa Thanh niên, với tên gọi “Giai điệu từ những vần thơ”, trong chuỗi chương trình “Những ngày Văn học Nghệ thuật TP.HCM”...
Xem thêm
Nha Trang – Viên ngọc xanh, từ hoài niệm đến khát vọng – Bút ký Nguyễn Phú Thành
Thành phố Nha Trang, thuộc tỉnh Khánh Hoà được mệnh danh là “Viên Ngọc Xanh” của bờ biển Đông, không chỉ là điểm đến lý tưởng cho những ai yêu thích biển đảo mà còn là nơi lưu giữ những hoài niệm và khát vọng của xứ sở. Đồng thời, Nha Trang cũng hội tụ vẻ đẹp của lịch sử văn hóa và, du lịch biển làm nên vẻ đẹp hiếm có làm say đắm lòng người.
Xem thêm
Ở nơi tận cùng con nước – Bút ký Hồng Sương
Nắng tắt bên sông Long Xuyên, vỡ thành từng mảnh nhỏ trong làn hơi nước mỏng tang. Thành phố vào giờ tan tầm, người xe chen nhau, nhưng trong nhịp hối hả ấy, có điều gì thật đỗi dịu dàng, thân quen. Tôi ngồi bên bờ hồ, tay cầm ly nước, ngắm nhìn đám lục bình trôi trên mặt nước xiết. Xa xa, những chiếc ghe đánh cá lặng lẽ như những kiếp người trôi giữa dòng đời, bền bỉ đi tìm cái sống trong mênh mang nước bạc.
Xem thêm
“Từ Bến Nhà Rồng đến Ba Đình” – Phần 2
Đây không chỉ là cuộc hành trình theo dòng lịch sử, mà còn là cuộc trở về trong tâm tưởng – nơi mỗi bước chân đều in dấu biết ơn, tự hào và khát vọng được góp phần làm đẹp thêm dáng hình Tổ quốc.
Xem thêm
Không còn bao lâu nữa!
Tùy bút của Trần Đôn
Xem thêm
Tuổi thơ, mùa bão lụt và quê hương thương khó
Câu chuyện của hai nhà giáo Phạm Phú Phong (Khoa Ngữ văn, Trường ĐH Khoa học - ĐH Huế) và Huỳnh Như Phương (Khoa Văn học, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQG TP. HCM)
Xem thêm
Với nhà văn Đoàn Thạch Biền
Làm một cuộc khảo sát bỏ túi với các anh chị và các bạn thế hệ 6X, 7X, 8X, 9X rằng người nào ảnh hưởng trong việc viết văn làm báo của mình nhất, đều nhận được câu trả lời: Nhà văn Đoàn Thạch Biền!
Xem thêm
Đoản khúc thời gian - Tản văn Hoàng Xuân
Trời tháng 10 bầm dập những đoản khúc, lúc mưa, lúc nắng, lúc lại dỗi hờn vừa mưa vừa nắng. Lòng tôi lại chông chênh nhớ về quá khứ. Quá khứ của những cơn gió lạnh đầu đông, của tiết trời giao mùa vương vấn, phảng phất xem lẫn một miền ký ức. Bao giờ tiết trời giao mùa cũng thế, làm cho con người có nhiều nỗi nhớ nhung, và cũng có nhiều cảm xúc dâng trào.
Xem thêm
Trên chuyến xe cuối ngày - Tản văn của Võ Văn Bảo Quốc
Ngày cuối tuần của một chiều cuối thu. Trong làn không khí se se lạnh của khoảng giao mùa, tôi trở về căn trọ nhỏ sau một ngày học đầy uể oải. Nhìn quanh căn phòng chỉ có mỗi mình, thoáng chốc trong lòng dâng lên chút cô đơn, lặng lẽ xen lẫn cảm giác tủi thân nơi đất khách quê người.
Xem thêm
Đồng bào vẫn đang kêu cứu!
Ghi chép của nhà văn Hội An
Xem thêm
Giấc mộng Kinh đô và khát vọng người viết
Bài đăng Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số đặc biệt, 9/10/2025
Xem thêm
Nhớ mãi tác giả “Nhánh lan rừng”
Bài của Đại tá nhà thơ Trần Thế Tuyển
Xem thêm
Hương sắc mùa thu trên đèo Khau Phạ – Bút ký Phan Anh
Ngược quốc lộ 32, giữa nắng thu vàng óng ả, chúng tôi đến với xứ sở vùng cao Mù Cang Chải của núi ngàn Tây Bắc, theo tiếng bản địa của người H’Mông Mù Cang Chải có nghĩa là vùng đất gỗ khô. Nơi ấy có những đỉnh núi mờ sương cùng với vực sâu thăm thẳm. Những núi đá cao ngất quanh năm được mây sương bao phủ ấy cũng từng được nhiều người ví von tựa như nơi “đất trời gặp gỡ” và nổi tiếng với con đèo Khau Phạ, một con đèo cũng từng được liệt vào hàng trứ danh ở Việt Nam, nằm trong nhóm “tứ đại đỉnh đèo” (bốn con đèo hùng vĩ nhất, cao nhất, dài nhất, nguy hiểm nhất: đèo Mã Pí Lèng - tỉnh Tuyên Quang, đèo Ô Quy Hồ, Đèo Khau Phạ - tỉnh Lào Cai và đèo Pha Đin - nằm giữa hai tỉnh Sơn La và Điện Biên).
Xem thêm
Tuổi bốn mươi, một mùa lặng lẽ nở hoa – Tản văn Hồng Loan
Bốn mươi. Một chiều thu nào đó, trong làn nắng nhàn nhạt xuyên qua tán lá, chợt nghe ai đó gọi mình là “cô”, như một lời đánh thức dịu dàng. Mình khựng lại, không phải vì buồn, chỉ là một khoảnh khắc nhận ra: tuổi trẻ đã khẽ khàng rời đi, như cơn gió cuối hạ, nhẹ tênh nhưng đủ để làm lòng người thổn thức.
Xem thêm