TIN TỨC

Đâu là sức mạnh của nghệ thuật?

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-07-15 16:16:26
mail facebook google pos stwis
745 lượt xem

NGUYỄN TRƯỜNG
(Đọc tập truyện ngắn “Bước không qua số phận” của Đỗ Duy Ngọc - Nhà xuất bản Hội Nhà văn 2022)

Tôi quen anh Đỗ Duy Ngọc cũng đã trên ba mươi năm, biết anh là họa sỹ có tài, có tranh đẹp, là “Vua bìa sách” phía Nam; mãi gần đây đọc facebook thấy anh than phiền về một người “đạo” truyện ngắn “ Có một người tên V. Huy” của anh, làm tôi tò mò tìm đọc: Truyện  khá ấn tượng, thảo nào tay thanh niên nọ không cầm lòng đặng. Từ đó tôi tìm đọc truyện của Đỗ Duy Ngọc. Đặc biệt  khi anh gửi cho tôi tập truyện ngắn “Bước không qua số phận” dày gần 300 trang, với 29 truyện, làm tôi vô cùng ngạc nhiên và thích thú.

Đỗ Duy Ngọc là họa sỹ, từng du học bên Pháp, lấy vợ Tây nên “vi vu tiếng Pháp giọng Paris và hơn thế nữa là dùng ngôn ngữ từ Sorbonne ra”. Nghề chính là hội họa, còn viết văn thì theo kiểu “tài tử” thích thì làm nên văn anh hồn nhiên, chủ yếu viết về những trải nghiệm trong đời, đắng cay, ngọt bùi... có cả. Nhưng chính cái tự nhiên như nhiên ấy lại là thế mạnh trong truyện của anh. Phần lớn truyện ngắn của Đỗ Duy Ngọc kể ở ngôi thứ nhất, tác giả xưng tôi. Truyện chủ yếu là viết về số phận của bạn bè từ ngày bé thơ đến kết thúc cuộc đời. Những con người đi qua thời cuộc, chịu tác động của thời cuộc đầy éo le, đầy bão tố, và kết thúc trong bi kịch đẫm nước mắt.

Truyện “Bước không qua số phận” là truyện vừa thì đúng hơn, gồm 9 chương, dày đến hơn 50 trang in. Tác giả xưng tôi, kể về người bạn tên Nhân, một cậu học trò có nhiều tài: Học giỏi, đá banh siêu, đánh cờ tướng cừ, lại võ nghệ thâm hậu. Người ta thường gọi là Siêu Nhân. Người giỏi như thế lại là con của quan Đốc học khá giả, tưởng tương lai rộng mở. Nhưng thầy tướng số phán: “Cậu Nhân tướng tốt, thông minh hơn người, nhưng ánh mắt lộ hung quang, tôi e cậu ấy không học được chữ nhẫn, sẽ phải phạm tội sát nhân, hậu vận xấu lắm”. Quả vậy, được du học ở Paris nước Pháp, Nhân trở thành lãnh tụ sinh viên ủng hộ chế độ Việt Nam Công hòa, mâu thuẫn với Thành, cậu sinh viên phe thiên tả ủng hộ biểu tình chống chiến tranh ở Việt Nam. Trong một trận cãi nhau, Nhân đã bay đến đá gãy cổ Thành. Thành chết ngay lập tức. Nhân bị bắt, rồi bị dẫn độ về Việt Nam để xét xử. Tuy vậy Nhân vẫn là người có bản chất lương thiện. Nhân đáu đớn chứng kiến người vợ tự tử vì cùng đường tủi nhục và khốn khó, trong đó có lỗi của anh vì quá quẫn bách đã bán đi chiếc đàn Piano vốn là vật yêu quý cả đời của vợ, thậm chí cô đã phải đổi  bằng trinh tiết để giữ nó. Chiếc đàn mà trong lần xuất ngoại đi du học, Nhân đã ao ước sẽ kiếm tiền mua cho nàng loại tốt nhất, đắt nhất thế giới. Cuối cùng Nhân cùng có tiền mua được cây đàn mơ ước đem ra mộ vợ, anh đã khóc suốt đêm bên nàng rồi đốt cây đàn để tặng nàng dưới suối vàng. Hình ảnh “Nhân đã bay từ chiếc xe ba gác đẩy hai mẹ  con ngả sấp phía bên kia đường và nhân kẹt đôi chân trên đường rầy, những bánh xe lửa nghiến qua nét bét” thể hiện chất Người còn sót lại trong Nhân, dù anh đã phải trải qua biết bao biến cố đau thương. Cuộc đời Nhân đã xảy ra đúng như số mệnh đã định trước.

Truyện “Có một người tên V. Huy”, “Chuyện chú A Tỷ và Tiểu Thanh”, “Alain De Lai”, “Ba thằng bạn”, “Một chuyện xóm cụt”... Đều có chung mô típ những người thân, những người bạn của tác giả vốn nghèo khó, phải trải qua biết bao bi kịch của cuộc đời, nhưng dầu vậy họ vẫn giữ được thiện lương, biết sống và hy sinh vì người khác, những nét đẹp trong tính cách điển hình người Nam bộ.

Những truyện nói trên đều được viết bằng thi pháp hiện thực nghiêm ngặt. Tuy vậy trong tập truyện ta cũng bắt gặp một vài truyện ảnh hưởng của dòng văn học hiện thực huyền ảo, đó là truyện “Người đi trên trời” và “Ảo ảnh”. Truyện “ Ảo ảnh”, kể về nhân vật tên Hân, vào thời  bao cấp, đất nước còn chìm trong nạn thiếu đói: “Hân đói, cả xã hội nghèo, thiếu ăn, ai cũng gầy với đôi mắt thất thần và cái bụng lép kẹp, chẳng ai giúp được ai”. Bữa đó Hân đói lắm rồi, từ sáng đến chiều không có tí gì vào bụng. Hân trông thấy bà cụ bán bánh ít nhân đậu mà nhiều lần anh từng mua, giá như có được cái bánh ấy thì... Nhưng bây giờ Hân không còn tiền, bà cụ chỉ có chục cái bánh bày trên cái thúng đã cũ như con người cụ. Bà cụ nghèo, vốn liếng chẳng bao nhiêu. Ý không định nhưng chân Hân cứ bước đến bên thúng bánh của cụ. Cuối cùng Hân cũng thốt nên lời: “Cụ ơi hôm nay cháu không còn tiền, cụ cho cháu thiếu được không”. Bà cụ ngần ngừ chép miệng: “Khổ thế cơ à! Ối giời, thời thế gì mà ai cũng khổ thế này? Khổ đã khổ rồi, cậu cứ xơi bánh đi, hôm nào có tiền gửi cho tôi cũng được, trông cậu xanh quá, chắc đói lắm rồi hử?”. Hân ăn hai cái bánh, tối đó bụng mới đỡ réo sôi, đêm mới ngủ được. Hôm sau anh đi Biên Hòa mấy ngày, trở về Hân không thấy bà cụ ngồi ở góc đường đó nữa. Bữa nhớ bữa quên, anh vẫn chưa trả được tiền cho cụ. Rồi anh vượt biên, sang Mỹ, làm ăn khá dần, trong một lần về Sài Gòn anh đi tìm cụ bán bánh năm xưa, tìm khăp khắp nơi, hỏi thăm rất nhiều người, vẫn không ai biết bà cụ, mà cũng đã hơn hai mươi năm rồi còn gì. Một đêm anh nằm mơ thấy có anh xe ôm gần ngã tư nơi năm xưa bà cụ ngồi bán bánh, biết bà cụ. Anh lại ra ngã tư tìm và đúng như giấc mơ, anh xe ôm là con rể cụ. Anh chở Hân về nhà, vật đập vào mắt Hân là trên bàn thờ di ảnh của cụ. Anh vét hết số tiền còn lại để lên bàn thờ cụ mà khấn: “Món nợ này con suốt đời nợ cụ, mong cụ siêu thoát mà tha lỗi cho con”. Khi trở ra, bỗng nhìn thấy cụ đang ngồi bên đường như năm xưa vẫn ngồi, anh vội băng qua đường tiến về phía cụ thì bị một chiếc xe bus băng ngang che tầm mắt. Khi anh bước qua bên kia đường thì không còn thấy bà cụ nữa. Truyện nhuốm sương khói huyền ảo nhưng có lý. Anh sinh viên Hân và bà cụ đều rơi vào cảnh huống quá nghèo khổ, nhưng họ không đánh mất lương tâm và lòng nhân ái. Chỉ hai cái bánh như bữa cơm phiếu mẫu, nhưng anh sinh viên nghèo nhớ mãi và lúc đã có tiền cũng không còn cách nào để trả ơn. Truyện làm ta xúc động.

Truyện “Người đi trên trời” lại là tình huống khác. Nhân vật chính không biết cha mẹ là ai, lớn lên trong cô nhi viện, cũng được học hành tử tế, ra trường làm giáo viên. Nhưng cuộc đời hắn gặp toàn chuyện xui xẻo: Hắn bị mất việc, bị mất xe máy, vợ thì ngoại tình mang hết của cải theo trai. Hắn bị đẩy vào bước đường cùng, toan tự tử : “Hắn đứng trên thềm balcon rồi nhảy xuống trần gian lộn xộn phía dưới. Ra khỏi khoảng không, hai chân hắn quơ quào trong không khí như bản năng sinh tồn và rồi hắn cảm thấy như đang đi trên mặt đất, hai chân chạm vào không khí nhưng lại vững chãi như đứng trên nền nhà. Hắn bước đi, những bước chân chẳng khác chi đang đi trên đường. Hắn ý thức rằng điều huyền ảo đó chính là sự thật. Hắn đã đạt được giấc mơ của quá khứ”. Từ đây hắn “Xa cách mặt đất đầy đầy khói bụi, là thoát cảnh chen lấn của trần gian, là một mình một cõi khi mọi người phải luồn lách mà sống”. Điều kỳ diệu đến với hắn chỉ có thế, hắn không những không mang đến điều có ích cho hắn, cho xã hội mà còn chuốc lấy đầy những phiền toái: Hắn phải trốn tránh các nhà báo, các máy quay phim rình hắn để chộp nhứng pô ảnh, những thước phim nhằm thỏa mãn tính hiếu kỳ của người đời. Thậm chí hắn bị bắt vào đồn công an vì nghi ngờ có âm mưu gì đó. Cuối cùng hắn làm một cú nhảy vào không khí, nhưng điều kỳ diệu đã không xảy ra, hắn bị ngã gãy chân, phải nằm bệnh viện, phải ngồi xe lăn, hết còn đi trên trời, thậm chí đi dưới đất cũng không xong. Truyện như ngầm triết lý, người ta với ước mơ cỏn con thì dù có điều kỳ diệu đưa đến cũng vẫn là người vô tích sự.

Đỗ Duy Ngọc cũng có vài truyện ngắn luận đề. Đó là truyện “Con nhồng” và “Chuyện chú chim họa my còi cọc”. Truyện ngắn Con nhồng, kể về một người tuổi cao sang định cư tại Pháp, nhớ quê hương, thèm nghe tiếng Việt nên tham gia vào cộng đồng người Việt. Nhưng “Mấy tổ chức này lung tung quá, có nhiều khuynh hướng chính trị quá, lại cứ cãi nhau như mỗ bò, tranh giành danh hão... nên anh rút lui dần”. Anh quen một bà cụ có con nhồng biết nói tiếng Việt, dù chỉ một câu “Trời ơi”, thì vẫn là thứ tiếng anh cần nghe. Thấy anh thích, bà cụ tặng lại anh con chim. Anh hàng ngày chăm sóc cho nó, dạy nó nói thêm một vài tiếng Việt. Trong một lần phải đi qua Mỹ một tháng, anh nhờ người  hàng xóm chăm sóc con nhồng. Khi về thì con chim đã bị người Mỹ dạy nó nói “Oh my god” thay cho tiếng “Trời ơi”, “Hello” thay cho “ Xin chào”. “Anh điên tiết nhìn hắn với cặp mắt tóe lửa. Tao chỉ muốn nó nói tiếng Việt, mày hiểu chưa, tao không muốn nó nói tiếng Mỹ... Anh chỉ cần nó nói tiếng dân tộc anh, quê hương xa tít của anh để anh thấy gần gũi với quê nhà...Lão thủy thủ già không hiểu điều đó, lão đâu có ý niệm quê hương, lão buồn ói khi nói về đất nước của lão, không có chút đồng cảm trong chuyện này thì làm sao để giải thích.” Lão cho chim ăn hamburger có thịt, chim khoái nghe lời lão, lão cho chim uống rượu Whisky. Anh chỉ cho chim uống nước lã, ăn bánh Croissant. Bây giờ nó chào Hello khi muốn ăn, nó kêu Whisky khi muốn uống nên anh không làm sao dạy nó nói “Trời ơi” được nữa. Bất lực, anh đành thả con chim “ Trời ơi” về trời, bởi nó đã quên tiếng Việt rồi. Câu chuyện hẳn là không phải chuyện chim, một ẩn dụ thú vị về con người.

“Chuyện chú chim họa my còi cọc” thì có vẻ ngược với suy nghĩ thông thường của nhiều người. Linh nhận về nuôi con chim họa my mới ra ràng, yếu lẩy bẩy, một phần sống, mười phần chết,  anh dùng nhiều công sức vào chăm sóc cho chim, dần dần chú chim cũng sống sót, lớn lên, nhưng bởi xuất phát điểm quá nhỏ bé, còi cọc nên con chim không to như những chú họa my thông thường. Bù lại chú hót rất hay. Linh yêu chú lắm, anh càng dành nhiều thời gian chăm sóc cho chim. Nhưng một bữa chị Hai của Linh đến chơi, thấy chú chim bị giam trong lồng tội nghiệp, chị khuyên Linh nên giải phóng cho chim được tự do. Chị Hai là người tu đạo, rất có lòng từ bi. Nhưng Linh không chịu, bởi anh gắn bó với chim như người bạn nhiều thời gian rồi. Anh cũng thích tiếng hót của chim. Con chim cũng rất quý mến Linh. Một lần Linh đi công tác về thì không thấy chim trong lồng nữa, chị Hai đã thả chim ra. Tội nghiệp con chim, quen được chăm sóc đầy đủ từ lúc mới ra ràng, cho nó ra tự nhiên thì làm sao sống được. Con chim lại tìm về nhà, đập cánh bên ngoài cửa sổ đã đóng chặt trong đêm mưa gió. Rồi Linh tìm thấy xác con chim ở trong vườn. “Trong chúng ta đôi lúc cứ nghĩ làm việc thiện, thật ra đang làm việc ác, mỗi người, mỗi sinh vật đều có cách sống riêng của nó. Cách sống đó tạo ra từ hoàn cảnh, từ thói quen. Anh bắt người ta ra khỏi thói quen đôi lúc anh trở thành kẻ sát nhân”. Tưởng không cần phải bàn thêm vì câu chuyện của tác giả đã thể hiện hết những gì cần nói rồi.

Trong tập truyện, thỉnh thoảng gặp nhưng “cặp đôi hoàn hảo” như thế. Đỗ Duy Ngọc thường dùng phương pháp kể chuyện hơn là dựng truyện, nhưng vì sao truyện của anh hấp dẫn người đọc từ đầu đến cuối, từ truyện này sang truyện kia? Phải chăng bởi tại anh có vốn sống vô cùng phong phú nên đan truyện bằng những sợi dây lấp lánh sắc màu của chi tiết. Như trong truyện “Bước không qua số phận” tác giả kể về Nhân, nhưng chi tiết rất thật, rất độc đáo: “Học chung lớp với Nhân, càng ngày tôi càng thấy hắn giỏi, nhất là những môn toán, lý, hóa. Thầy dạy môn toán tên Thanh, thầy dạy rất hay, học trò rất mê. Thầy Thanh lúc nào áo quần cũng chải chuốt, tóc chải dầu bóng lưỡng, cách đi giọng nói rất điệu. Thầy hay cho làm toán chạy, tức là thầy đọc đề xong, trong năm hoặc bảy phút sau thầy chỉ nhận mười bài giải nộp nhanh nhất. Nếu giải đúng thầy cho điểm tối đa, còn giải sai thì khỏi có điểm. Nhân luôn luôn là người giải bài nhanh và đúng nhất. Khi nào hắn nộp trễ hơn một chút thì có nghĩa hắn giải bài toán đó bằng hai cách khác nhau. Lúc lên bảng giải toán hình học, hắn vẽ hình bằng tay trái còn tay phải ghi lời giải. Thầy Thanh nể hắn lắm, gặp thầy nào thầy Thanh cũng ca ngợi Nhân. Thầy còn bảo với Nhân là vào giờ của thầy, hắn không cần ghi chép, muốn làm gì thì làm. Các thầy dạy môn lý, hóa cũng bảo hắn thế.”

Còn về truyện “Có một người tên V. Huy”, phải có kiến thức khá sâu rộng về ngôn ngữ lẫn ngoại ngữ mới tả được nhân vật của mình: “Hắn là một thằng thông minh, rất thông minh. Và cũng uyên bác, rất uyên bác. Tôi là người rất ngạo mạn, ít khen ai và cũng ít nể ai, luôn khinh khi những thằng tiến sĩ dỏm nhiều như quân Nguyên chạy đầy đường. Nhưng gặp hắn, quen hắn, biết hắn thì tôi phải khen ngợi hắn thật lòng. Hắn nói tiếng Anh như dân xuất thân từ Oxford, đúng giọng và ngữ điệu. Hắn vi vu tiếng Pháp giọng Paris và hơn thế nữa là dùng ngôn ngữ từ Sorbonne ra. Hắn nói tiếng Ý như mưa rào và tiếng Nga thì thôi rồi, nghe không khác gì Putin. Hắn cũng giỏi tiếng Hán, viết thư pháp như múa, đặc biệt là chữ thảo, đọc toàn sách cổ văn, đọc tiếng Đức ầm ầm như bão tố. Ngoài ra hắn còn giỏi tiếng Bồ Đào Nha, đọc kinh Phật bằng tiếng Pali và nói thông thuộc tiếng Khmer. Hay nhất là dù hắn có mười mấy năm ở nước ngoài, có bằng Tiến sĩ ở Nga nhưng lại nói tiếng Việt rất chuẩn, tròn vành rõ chữ và dùng từ thì không chê vào đâu được. Nói một cách khách quan, xét về mặt ngôn ngữ, hắn là thằng trùm thiên hạ.”

Tại sao tác giả lại đặt tên cho thiên truyện dài nhất, hay nhất cũng là tên cho cả tập: “Bước không qua số phận”?  Có vẻ như Đỗ Duy Ngọc chịu ảnh hưởng của thuyết nhân quả, nghiệp báo của nhà Phật? Nhưng khi đọc truyện ta thấy không phải vậy, hình như ông muốn mô tả về thời cuộc mà mỗi con người phải trải qua, đúng như nhà thơ Éptusencô đã nói “Mỗi số phận chứa một phần lịch sử”. Bởi vậy ta không ngạc nhiên khi hầu hết các truyện của Đỗ Duy Ngọc đều trải qua hai thời kỳ, trước và sau ngày đất nước thống nhất. Con người sống qua hai thời kỳ, hai chế độ đó số phận ra sao... chính là nội dung của cuốn sách muốn gửi gắm. Bởi muốn truyền tải được tối đa những tư tưởng, Đỗ Duy Ngọc đã chọn cách viết chân thật, trước hết thuyết phục độc giả tin vào điều mình kể, khi tin người ta dễ đồng cảm với tác giả, qua đó lay động được trái tim người đọc. Đó cũng chính là sức mạnh của nghệ thuật.

(Bài đăng trên Văn nghệ số 29 ra ngày 16/7/2022)

Bài viết liên quan

Xem thêm
Những trang văn phảng phất mùi thuốc súng
Bài tham luận của nhà văn Đỗ Viết Nghiệm
Xem thêm
Di cảo thơ Chế Lan Viên: Khi thơ là thuốc, là lời kinh kệ
Chế Lan Viên là người mà sự nghĩ ngợi vận vào thơ như thể thơ cũng là thuốc, thơ chẩn ra được cái bệnh đau của kiếp người, và “Có vào nỗi đau mới có ích cho người”.
Xem thêm
Cảm hứng sinh thái trong thơ Đặng Bá Tiến
 Là một nhà báo, nhà thơ mấy chục năm gắn bó với vùng đất Đắk Lắk, Đặng Bá Tiến đã sáng tác thành công về thiên nhiên, con người và văn hoá Tây Nguyên với nhiều tác phẩm: Lời chân thành với cỏ (Thơ, 2009), Rừng cổ tích (Trường ca, 2012), Hồn cẩm hương (Thơ, 2017), Linh hồn tiếng hú (Thơ, 2020). Anh là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Tây Nguyên đương đại, một nhà thơ “thứ thiệt”[1] có bản sắc riêng, thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo. Nổi bật trong sáng tác của anh là những tác phẩm viết về rừng, về sinh thái văn hoá và nhân văn.      
Xem thêm
Sức bền của ngòi bút
Nguồn: Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 116, ngày 21/3/2024
Xem thêm
Nguyễn Bính ở phương Nam
Nguyễn Bính (1918-1966), tên thật là Nguyễn Trọng Bính (có lúc tên Nguyễn Bính Thuyết), quê ở Nam Định nhưng sống khắp ba miền đất nước. Ông có phong cách một nhà thơ lãng tử, sáng tác về chủ đề tình cảm làng quê và tình yêu, tổ quốc. Thơ tình cảm mộc mạc của ông được rất nhiều người thuộc. Tác phẩm gồm 26 thi tập trong đó có : + 1 kịch thơ : Bóng giai nhân (1942): + 3 truyện thơ : Truyện Tỳ Bà (1942); Trong bóng cờ bay (1957); Tiếng trống đêm xuân (1958): + 1 vở chèo : Người lái đò sông Vỹ (1964) và rất nhiều bài thơ nổi tiếng của ông được nhạc sĩ phổ thành ca khúc : Tiểu đoàn 307 (Nguyễn Hữu Trí phổ nhạc, Quốc Hương ca);  Cô hái mơ (Phạm Duy); Ghen (Trọng Khương), Cô lái đò (Nguyễn Đình Phúc); Chân quê (Minh Quang). Hiện nay, nhiều thành phố có những con đường mang tên ông. Nhà thơ Nguyễn Bính nhận được giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (2000) cùng với Hoài Thanh, Bùi Đức Ái, Nguyễn Quang Sáng, …
Xem thêm
“Đánh thức mình bằng chân lý vô ngôn”
Tôi biết Nguyễn Minh Thuận (nguyên Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Tư pháp Đắk Lắk) làm thơ đã lâu, dễ hơn ba chục năm trước, thỉnh thoảng anh vẫn đọc cho tôi nghe và rải rác anh cho đăng trên facebook Trương Thị Hiền - vợ anh (TS, giảng viên Trường Đại học Tây Nguyên).
Xem thêm
Đọc “Thơ mười năm” của Hoàng Đình Quang
Bài viết của nhà thơ Trần Quang Khánh
Xem thêm
Hoàng hôn chín – chín mọng yêu thương
Về tập thơ in chung của Võ Miên Trường và Triệu Kim Loan
Xem thêm
Thơ Phan Hoàng trong hành trình ngược lối – Tiểu luận của Mai Thị Liên Giang
Tập thơ “Chất vấn thói quen” của Phan Hoàng từng nhận được nhận Giải thưởng Hội Nhà văn TPHCM và Tặng thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012, sau đó tập thơ này được trao Giải thưởng Nghệ thuật Danube năm 2023 của Hungary. Ngoài ra tập trường ca “Bước gió truyền kỳ” của ông cũng được Ủy ban nhân dân TPHCM trao Giải thưởng Văn học Nghệ thuật TPHCM 5 năm lần thứ II. Để hiểu thêm về hành trình sáng tạo thi ca của nhà thơ Phan Hoàng, xin trân trọng giới thiệu bài viết của nhà lý luận phê bình văn học Mai Thị Liên Giang.
Xem thêm
Những giải mã thú vị, khoa học của một người đọc tri âm
Với kiến văn sâu rộng, sự nghiên cứu cẩn trọng mang tính học thuật cao, khai thác nhiều vấn đề tri thức lý luận mới mẻ; Trần Hoài Anh đã đem đến những trang viết tinh tế, khai mở nhiều điều lý thú và bổ ích.
Xem thêm
Hồn xuân trong thơ Hồ Chí Minh
Nhà thơ Trung Quốc Viên Ưng đã nhận định sâu sắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một trí tuệ lớn, một dũng khí lớn, một tâm hồn lớn”.
Xem thêm
“Trung thực và quả cảm” trong sáng tác và phê bình văn học, nghệ thuật
Bài viết của nhà thơ Mai Nam Thắng trên Văn nghệ số 4/2024
Xem thêm
Nguyễn Quang Thiều với ‘Nhật ký người xem đồng hồ’
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa về tập thơ Nhật ký người xem đồng hồ của Nguyễn Quang Thiều
Xem thêm
Nửa lo giá chợ nửa ngây vì trời
Nguồn: Báo Văn nghệ số 4, ra ngày 27/1/2024.
Xem thêm
Dòng kinh yêu thương
Tháng 8 năm 1969, chương trình Thi văn Về Nguồn góp tiếng trên Đài phát thanh Cần Thơ vừa tròn một tuổi. Nhân dịp nầy, cơ sở xuất bản về Nguồn ấn hành đặc san kỷ niệm. Đặc san tập họp sáng tác của bằng hữu khắp nơi, với các thể loại như thơ, truyện, kịch… và phần ghi nhận sinh hoạt văn học nghệ thuật ở miền Tây trong một năm qua. Trong đặc san này, chúng tôi in một sáng tác của nhà thơ Ngũ Lang (Nguyễn Thanh) viết ngày 24/8/1969, gởi về từ Vị Thanh (Chương Thiện), có tựa đề “Đưa em xuôi thuyền trên kinh Xà No” Hơn nửa thế kỷ trôi qua với bao nhiêu biến động, ngay cả tác giả bài thơ chắc cũng không còn nhớ. Xin được chép lại trọn bài thơ của anh đã đăng trong Đặc san kỷ niệm Đệ nhất chu niên Chương trình Thi văn Về Nguồn, phát hành vào tháng 8 năm 1969.
Xem thêm
Minh Anh, người đánh thức thế giới
từng chữ từng chữ/ rơi vào từng dòng từng dòng/ chúng chụp lấy những khoảnh khắc/ đẹp não nùng/ không thể rời khỏi con tim/ cách duy nhất để tự nó đừng nở rộ quá mức/ vượt khỏi ký ức của ta/ là hãy viết xuống (Sự kỳ lạ của nghệ thuật viết).
Xem thêm
Ta sẽ không như cốc trà nguội cuối ngày
Bài viết của Nguyên Bình về tập thơ Vọng thiên hà của Hoa Mai.
Xem thêm
Con người Chí Phèo
Cái chết của Chí phèo như bản cáo trạng về xã hội thực dân nửa phong kiến thối rữa, nhàu nát, là tiếng kêu oan khốc thấu tận trời xanh của những kiếp người “siêu khổ”.
Xem thêm