TIN TỨC

Đâu là sức mạnh của nghệ thuật?

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-07-15 15:59:12
mail facebook google pos stwis
1702 lượt xem

NGUYỄN TRƯỜNG
(Đọc tập truyện ngắn “Bước không qua số phận” của Đỗ Duy Ngọc - Nhà xuất bản Hội Nhà văn 2022)

Tôi quen anh Đỗ Duy Ngọc cũng đã trên ba mươi năm, biết anh là họa sỹ có tài, có tranh đẹp, là “Vua bìa sách” phía Nam; mãi gần đây đọc facebook thấy anh than phiền về một người “đạo” truyện ngắn “ Có một người tên V. Huy” của anh, làm tôi tò mò tìm đọc: Truyện  khá ấn tượng, thảo nào tay thanh niên nọ không cầm lòng đặng. Từ đó tôi tìm đọc truyện của Đỗ Duy Ngọc. Đặc biệt  khi anh gửi cho tôi tập truyện ngắn “Bước không qua số phận” dày gần 300 trang, với 29 truyện, làm tôi vô cùng ngạc nhiên và thích thú.

Đỗ Duy Ngọc là họa sỹ, từng du học bên Pháp, lấy vợ Tây nên “vi vu tiếng Pháp giọng Paris và hơn thế nữa là dùng ngôn ngữ từ Sorbonne ra”. Nghề chính là hội họa, còn viết văn thì theo kiểu “tài tử” thích thì làm nên văn anh hồn nhiên, chủ yếu viết về những trải nghiệm trong đời, đắng cay, ngọt bùi... có cả. Nhưng chính cái tự nhiên như nhiên ấy lại là thế mạnh trong truyện của anh. Phần lớn truyện ngắn của Đỗ Duy Ngọc kể ở ngôi thứ nhất, tác giả xưng tôi. Truyện chủ yếu là viết về số phận của bạn bè từ ngày bé thơ đến kết thúc cuộc đời. Những con người đi qua thời cuộc, chịu tác động của thời cuộc đầy éo le, đầy bão tố, và kết thúc trong bi kịch đẫm nước mắt.

Truyện “Bước không qua số phận” là truyện vừa thì đúng hơn, gồm 9 chương, dày đến hơn 50 trang in. Tác giả xưng tôi, kể về người bạn tên Nhân, một cậu học trò có nhiều tài: Học giỏi, đá banh siêu, đánh cờ tướng cừ, lại võ nghệ thâm hậu. Người ta thường gọi là Siêu Nhân. Người giỏi như thế lại là con của quan Đốc học khá giả, tưởng tương lai rộng mở. Nhưng thầy tướng số phán: “Cậu Nhân tướng tốt, thông minh hơn người, nhưng ánh mắt lộ hung quang, tôi e cậu ấy không học được chữ nhẫn, sẽ phải phạm tội sát nhân, hậu vận xấu lắm”. Quả vậy, được du học ở Paris nước Pháp, Nhân trở thành lãnh tụ sinh viên ủng hộ chế độ Việt Nam Công hòa, mâu thuẫn với Thành, cậu sinh viên phe thiên tả ủng hộ biểu tình chống chiến tranh ở Việt Nam. Trong một trận cãi nhau, Nhân đã bay đến đá gãy cổ Thành. Thành chết ngay lập tức. Nhân bị bắt, rồi bị dẫn độ về Việt Nam để xét xử. Tuy vậy Nhân vẫn là người có bản chất lương thiện. Nhân đáu đớn chứng kiến người vợ tự tử vì cùng đường tủi nhục và khốn khó, trong đó có lỗi của anh vì quá quẫn bách đã bán đi chiếc đàn Piano vốn là vật yêu quý cả đời của vợ, thậm chí cô đã phải đổi  bằng trinh tiết để giữ nó. Chiếc đàn mà trong lần xuất ngoại đi du học, Nhân đã ao ước sẽ kiếm tiền mua cho nàng loại tốt nhất, đắt nhất thế giới. Cuối cùng Nhân cùng có tiền mua được cây đàn mơ ước đem ra mộ vợ, anh đã khóc suốt đêm bên nàng rồi đốt cây đàn để tặng nàng dưới suối vàng. Hình ảnh “Nhân đã bay từ chiếc xe ba gác đẩy hai mẹ  con ngả sấp phía bên kia đường và nhân kẹt đôi chân trên đường rầy, những bánh xe lửa nghiến qua nét bét” thể hiện chất Người còn sót lại trong Nhân, dù anh đã phải trải qua biết bao biến cố đau thương. Cuộc đời Nhân đã xảy ra đúng như số mệnh đã định trước.

Truyện “Có một người tên V. Huy”, “Chuyện chú A Tỷ và Tiểu Thanh”, “Alain De Lai”, “Ba thằng bạn”, “Một chuyện xóm cụt”... Đều có chung mô típ những người thân, những người bạn của tác giả vốn nghèo khó, phải trải qua biết bao bi kịch của cuộc đời, nhưng dầu vậy họ vẫn giữ được thiện lương, biết sống và hy sinh vì người khác, những nét đẹp trong tính cách điển hình người Nam bộ.

Những truyện nói trên đều được viết bằng thi pháp hiện thực nghiêm ngặt. Tuy vậy trong tập truyện ta cũng bắt gặp một vài truyện ảnh hưởng của dòng văn học hiện thực huyền ảo, đó là truyện “Người đi trên trời” và “Ảo ảnh”. Truyện “ Ảo ảnh”, kể về nhân vật tên Hân, vào thời  bao cấp, đất nước còn chìm trong nạn thiếu đói: “Hân đói, cả xã hội nghèo, thiếu ăn, ai cũng gầy với đôi mắt thất thần và cái bụng lép kẹp, chẳng ai giúp được ai”. Bữa đó Hân đói lắm rồi, từ sáng đến chiều không có tí gì vào bụng. Hân trông thấy bà cụ bán bánh ít nhân đậu mà nhiều lần anh từng mua, giá như có được cái bánh ấy thì... Nhưng bây giờ Hân không còn tiền, bà cụ chỉ có chục cái bánh bày trên cái thúng đã cũ như con người cụ. Bà cụ nghèo, vốn liếng chẳng bao nhiêu. Ý không định nhưng chân Hân cứ bước đến bên thúng bánh của cụ. Cuối cùng Hân cũng thốt nên lời: “Cụ ơi hôm nay cháu không còn tiền, cụ cho cháu thiếu được không”. Bà cụ ngần ngừ chép miệng: “Khổ thế cơ à! Ối giời, thời thế gì mà ai cũng khổ thế này? Khổ đã khổ rồi, cậu cứ xơi bánh đi, hôm nào có tiền gửi cho tôi cũng được, trông cậu xanh quá, chắc đói lắm rồi hử?”. Hân ăn hai cái bánh, tối đó bụng mới đỡ réo sôi, đêm mới ngủ được. Hôm sau anh đi Biên Hòa mấy ngày, trở về Hân không thấy bà cụ ngồi ở góc đường đó nữa. Bữa nhớ bữa quên, anh vẫn chưa trả được tiền cho cụ. Rồi anh vượt biên, sang Mỹ, làm ăn khá dần, trong một lần về Sài Gòn anh đi tìm cụ bán bánh năm xưa, tìm khăp khắp nơi, hỏi thăm rất nhiều người, vẫn không ai biết bà cụ, mà cũng đã hơn hai mươi năm rồi còn gì. Một đêm anh nằm mơ thấy có anh xe ôm gần ngã tư nơi năm xưa bà cụ ngồi bán bánh, biết bà cụ. Anh lại ra ngã tư tìm và đúng như giấc mơ, anh xe ôm là con rể cụ. Anh chở Hân về nhà, vật đập vào mắt Hân là trên bàn thờ di ảnh của cụ. Anh vét hết số tiền còn lại để lên bàn thờ cụ mà khấn: “Món nợ này con suốt đời nợ cụ, mong cụ siêu thoát mà tha lỗi cho con”. Khi trở ra, bỗng nhìn thấy cụ đang ngồi bên đường như năm xưa vẫn ngồi, anh vội băng qua đường tiến về phía cụ thì bị một chiếc xe bus băng ngang che tầm mắt. Khi anh bước qua bên kia đường thì không còn thấy bà cụ nữa. Truyện nhuốm sương khói huyền ảo nhưng có lý. Anh sinh viên Hân và bà cụ đều rơi vào cảnh huống quá nghèo khổ, nhưng họ không đánh mất lương tâm và lòng nhân ái. Chỉ hai cái bánh như bữa cơm phiếu mẫu, nhưng anh sinh viên nghèo nhớ mãi và lúc đã có tiền cũng không còn cách nào để trả ơn. Truyện làm ta xúc động.

Truyện “Người đi trên trời” lại là tình huống khác. Nhân vật chính không biết cha mẹ là ai, lớn lên trong cô nhi viện, cũng được học hành tử tế, ra trường làm giáo viên. Nhưng cuộc đời hắn gặp toàn chuyện xui xẻo: Hắn bị mất việc, bị mất xe máy, vợ thì ngoại tình mang hết của cải theo trai. Hắn bị đẩy vào bước đường cùng, toan tự tử : “Hắn đứng trên thềm balcon rồi nhảy xuống trần gian lộn xộn phía dưới. Ra khỏi khoảng không, hai chân hắn quơ quào trong không khí như bản năng sinh tồn và rồi hắn cảm thấy như đang đi trên mặt đất, hai chân chạm vào không khí nhưng lại vững chãi như đứng trên nền nhà. Hắn bước đi, những bước chân chẳng khác chi đang đi trên đường. Hắn ý thức rằng điều huyền ảo đó chính là sự thật. Hắn đã đạt được giấc mơ của quá khứ”. Từ đây hắn “Xa cách mặt đất đầy đầy khói bụi, là thoát cảnh chen lấn của trần gian, là một mình một cõi khi mọi người phải luồn lách mà sống”. Điều kỳ diệu đến với hắn chỉ có thế, hắn không những không mang đến điều có ích cho hắn, cho xã hội mà còn chuốc lấy đầy những phiền toái: Hắn phải trốn tránh các nhà báo, các máy quay phim rình hắn để chộp nhứng pô ảnh, những thước phim nhằm thỏa mãn tính hiếu kỳ của người đời. Thậm chí hắn bị bắt vào đồn công an vì nghi ngờ có âm mưu gì đó. Cuối cùng hắn làm một cú nhảy vào không khí, nhưng điều kỳ diệu đã không xảy ra, hắn bị ngã gãy chân, phải nằm bệnh viện, phải ngồi xe lăn, hết còn đi trên trời, thậm chí đi dưới đất cũng không xong. Truyện như ngầm triết lý, người ta với ước mơ cỏn con thì dù có điều kỳ diệu đưa đến cũng vẫn là người vô tích sự.

Đỗ Duy Ngọc cũng có vài truyện ngắn luận đề. Đó là truyện “Con nhồng” và “Chuyện chú chim họa my còi cọc”. Truyện ngắn Con nhồng, kể về một người tuổi cao sang định cư tại Pháp, nhớ quê hương, thèm nghe tiếng Việt nên tham gia vào cộng đồng người Việt. Nhưng “Mấy tổ chức này lung tung quá, có nhiều khuynh hướng chính trị quá, lại cứ cãi nhau như mỗ bò, tranh giành danh hão... nên anh rút lui dần”. Anh quen một bà cụ có con nhồng biết nói tiếng Việt, dù chỉ một câu “Trời ơi”, thì vẫn là thứ tiếng anh cần nghe. Thấy anh thích, bà cụ tặng lại anh con chim. Anh hàng ngày chăm sóc cho nó, dạy nó nói thêm một vài tiếng Việt. Trong một lần phải đi qua Mỹ một tháng, anh nhờ người  hàng xóm chăm sóc con nhồng. Khi về thì con chim đã bị người Mỹ dạy nó nói “Oh my god” thay cho tiếng “Trời ơi”, “Hello” thay cho “ Xin chào”. “Anh điên tiết nhìn hắn với cặp mắt tóe lửa. Tao chỉ muốn nó nói tiếng Việt, mày hiểu chưa, tao không muốn nó nói tiếng Mỹ... Anh chỉ cần nó nói tiếng dân tộc anh, quê hương xa tít của anh để anh thấy gần gũi với quê nhà...Lão thủy thủ già không hiểu điều đó, lão đâu có ý niệm quê hương, lão buồn ói khi nói về đất nước của lão, không có chút đồng cảm trong chuyện này thì làm sao để giải thích.” Lão cho chim ăn hamburger có thịt, chim khoái nghe lời lão, lão cho chim uống rượu Whisky. Anh chỉ cho chim uống nước lã, ăn bánh Croissant. Bây giờ nó chào Hello khi muốn ăn, nó kêu Whisky khi muốn uống nên anh không làm sao dạy nó nói “Trời ơi” được nữa. Bất lực, anh đành thả con chim “ Trời ơi” về trời, bởi nó đã quên tiếng Việt rồi. Câu chuyện hẳn là không phải chuyện chim, một ẩn dụ thú vị về con người.

“Chuyện chú chim họa my còi cọc” thì có vẻ ngược với suy nghĩ thông thường của nhiều người. Linh nhận về nuôi con chim họa my mới ra ràng, yếu lẩy bẩy, một phần sống, mười phần chết,  anh dùng nhiều công sức vào chăm sóc cho chim, dần dần chú chim cũng sống sót, lớn lên, nhưng bởi xuất phát điểm quá nhỏ bé, còi cọc nên con chim không to như những chú họa my thông thường. Bù lại chú hót rất hay. Linh yêu chú lắm, anh càng dành nhiều thời gian chăm sóc cho chim. Nhưng một bữa chị Hai của Linh đến chơi, thấy chú chim bị giam trong lồng tội nghiệp, chị khuyên Linh nên giải phóng cho chim được tự do. Chị Hai là người tu đạo, rất có lòng từ bi. Nhưng Linh không chịu, bởi anh gắn bó với chim như người bạn nhiều thời gian rồi. Anh cũng thích tiếng hót của chim. Con chim cũng rất quý mến Linh. Một lần Linh đi công tác về thì không thấy chim trong lồng nữa, chị Hai đã thả chim ra. Tội nghiệp con chim, quen được chăm sóc đầy đủ từ lúc mới ra ràng, cho nó ra tự nhiên thì làm sao sống được. Con chim lại tìm về nhà, đập cánh bên ngoài cửa sổ đã đóng chặt trong đêm mưa gió. Rồi Linh tìm thấy xác con chim ở trong vườn. “Trong chúng ta đôi lúc cứ nghĩ làm việc thiện, thật ra đang làm việc ác, mỗi người, mỗi sinh vật đều có cách sống riêng của nó. Cách sống đó tạo ra từ hoàn cảnh, từ thói quen. Anh bắt người ta ra khỏi thói quen đôi lúc anh trở thành kẻ sát nhân”. Tưởng không cần phải bàn thêm vì câu chuyện của tác giả đã thể hiện hết những gì cần nói rồi.

Trong tập truyện, thỉnh thoảng gặp nhưng “cặp đôi hoàn hảo” như thế. Đỗ Duy Ngọc thường dùng phương pháp kể chuyện hơn là dựng truyện, nhưng vì sao truyện của anh hấp dẫn người đọc từ đầu đến cuối, từ truyện này sang truyện kia? Phải chăng bởi tại anh có vốn sống vô cùng phong phú nên đan truyện bằng những sợi dây lấp lánh sắc màu của chi tiết. Như trong truyện “Bước không qua số phận” tác giả kể về Nhân, nhưng chi tiết rất thật, rất độc đáo: “Học chung lớp với Nhân, càng ngày tôi càng thấy hắn giỏi, nhất là những môn toán, lý, hóa. Thầy dạy môn toán tên Thanh, thầy dạy rất hay, học trò rất mê. Thầy Thanh lúc nào áo quần cũng chải chuốt, tóc chải dầu bóng lưỡng, cách đi giọng nói rất điệu. Thầy hay cho làm toán chạy, tức là thầy đọc đề xong, trong năm hoặc bảy phút sau thầy chỉ nhận mười bài giải nộp nhanh nhất. Nếu giải đúng thầy cho điểm tối đa, còn giải sai thì khỏi có điểm. Nhân luôn luôn là người giải bài nhanh và đúng nhất. Khi nào hắn nộp trễ hơn một chút thì có nghĩa hắn giải bài toán đó bằng hai cách khác nhau. Lúc lên bảng giải toán hình học, hắn vẽ hình bằng tay trái còn tay phải ghi lời giải. Thầy Thanh nể hắn lắm, gặp thầy nào thầy Thanh cũng ca ngợi Nhân. Thầy còn bảo với Nhân là vào giờ của thầy, hắn không cần ghi chép, muốn làm gì thì làm. Các thầy dạy môn lý, hóa cũng bảo hắn thế.”

Còn về truyện “Có một người tên V. Huy”, phải có kiến thức khá sâu rộng về ngôn ngữ lẫn ngoại ngữ mới tả được nhân vật của mình: “Hắn là một thằng thông minh, rất thông minh. Và cũng uyên bác, rất uyên bác. Tôi là người rất ngạo mạn, ít khen ai và cũng ít nể ai, luôn khinh khi những thằng tiến sĩ dỏm nhiều như quân Nguyên chạy đầy đường. Nhưng gặp hắn, quen hắn, biết hắn thì tôi phải khen ngợi hắn thật lòng. Hắn nói tiếng Anh như dân xuất thân từ Oxford, đúng giọng và ngữ điệu. Hắn vi vu tiếng Pháp giọng Paris và hơn thế nữa là dùng ngôn ngữ từ Sorbonne ra. Hắn nói tiếng Ý như mưa rào và tiếng Nga thì thôi rồi, nghe không khác gì Putin. Hắn cũng giỏi tiếng Hán, viết thư pháp như múa, đặc biệt là chữ thảo, đọc toàn sách cổ văn, đọc tiếng Đức ầm ầm như bão tố. Ngoài ra hắn còn giỏi tiếng Bồ Đào Nha, đọc kinh Phật bằng tiếng Pali và nói thông thuộc tiếng Khmer. Hay nhất là dù hắn có mười mấy năm ở nước ngoài, có bằng Tiến sĩ ở Nga nhưng lại nói tiếng Việt rất chuẩn, tròn vành rõ chữ và dùng từ thì không chê vào đâu được. Nói một cách khách quan, xét về mặt ngôn ngữ, hắn là thằng trùm thiên hạ.”

Tại sao tác giả lại đặt tên cho thiên truyện dài nhất, hay nhất cũng là tên cho cả tập: “Bước không qua số phận”?  Có vẻ như Đỗ Duy Ngọc chịu ảnh hưởng của thuyết nhân quả, nghiệp báo của nhà Phật? Nhưng khi đọc truyện ta thấy không phải vậy, hình như ông muốn mô tả về thời cuộc mà mỗi con người phải trải qua, đúng như nhà thơ Éptusencô đã nói “Mỗi số phận chứa một phần lịch sử”. Bởi vậy ta không ngạc nhiên khi hầu hết các truyện của Đỗ Duy Ngọc đều trải qua hai thời kỳ, trước và sau ngày đất nước thống nhất. Con người sống qua hai thời kỳ, hai chế độ đó số phận ra sao... chính là nội dung của cuốn sách muốn gửi gắm. Bởi muốn truyền tải được tối đa những tư tưởng, Đỗ Duy Ngọc đã chọn cách viết chân thật, trước hết thuyết phục độc giả tin vào điều mình kể, khi tin người ta dễ đồng cảm với tác giả, qua đó lay động được trái tim người đọc. Đó cũng chính là sức mạnh của nghệ thuật.

(Bài đăng trên Văn nghệ số 29 ra ngày 16/7/2022)

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm