TIN TỨC

Đọc tác phẩm “Âm thanh của cánh” của Thiên Di

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-01-05 10:11:01
mail facebook google pos stwis
1106 lượt xem

NGUYÊN BÌNH

Sau bao nhiêu năm đọc thơ Thiên Di, tôi (Nguyên Bình) có thể quả quyết rằng, tâm hồn của tác giả tập thơ ÂM THANH CỦA CÁNH (ATCC) sở hữu tố chất thi sĩ, tố chất của những nhà thơ sáng tác theo phong cách chủ nghĩa lãng mạn (Romanticism) đích thực.

Xin nói thêm một chút, đó là một phong trào văn học, nghệ thuật và triết học phản ánh những cảm xúc, tâm tư sâu lắng, tự do sáng tạo, với các tác giả tiêu biểu như William Wordsworth, Lord Byron, John Keats, Percy Bysshe Shelley. Họ luôn tìm tòi khám phá cái tôi cá nhân, biểu đạt cá tính và tự do, đề cao trí tưởng tượng và sáng tạo, coi đó là nguồn sức mạnh của nghệ thuật.

Chủ nghĩa lãng mạn đã có ảnh hưởng sâu rộng đến thơ ca và nghệ thuật Việt Nam từ những thập niên 30 của thế kỷ XX, và Thiên Di ngoài thiên bẩm tài năng thi ca lại được kế thừa tài sản quý báu này.

Đọc thơ Thiên Di ta luôn cảm nhận được thi sĩ bộc bạch mà như không nói, như sông trôi mà nước không động, hiện hữu mà như vô hình, nốt nhạc lảnh lót lại hóa ra bụi vàng thinh không. Theo tôi, đó là tự do của thơ, là hơi thở của tâm thức:

Rồi một hôm hiên vắng
Đánh rơi giọt thời gian
Lạc dăm ba nốt nhạc
Bài ca hoá bụi vàng

(Một hôm tôi ghé lại)

Tư duy triết học luôn ẩn hiện trong từng ý thơ, là ánh sáng lấp lánh, là bóng tối vĩnh hằng của cô đơn, lạc loài, là trạng thái mất mát của con người trong dòng chảy nghiệt ngã của thời gian, dù đó là hạt cát im lìm hay là tiếng chim họa mi hót. Thậm chí nhân bản cũng có cảm giác như bị đảo lộn, biến hóa và con người chỉ bấu víu vào chân lý trong vùng suy tưởng ở đáy sâu của ý thức:

Có bao nhiêu hạt cát
Hoá pha lê long lanh
Có bao nhiêu hạt cát
Lăn lăn cuộc đời mòn

(Hạt cát)

Thi sĩ phát hiện ra rằng, bên dưới ánh sáng của ngọn đèn lại là bóng tối, thực tại luôn là “lời biện minh tránh sự thật” nghiệt ngã. Con người của thế kỷ trước, bây giờ và mai sau sẽ mãi là như vậy chăng? Có lẽ tác giả hoài nghi mọi thứ sẽ như thế và lên tiếng cảnh báo cho lương tri:

lời biện minh tránh sự thật
rơi lọt thỏm
bởi nơi tối tăm của thế giới
là dưới ngọn đèn!

(Tiếng họa mi hót)

Vậy thì nhân cách xã hội lấy đâu mà vĩ đại, mà kiên định, khiến thi sĩ có lúc đánh rơi niềm tin, tôi cũng cựa quậy chiếc lồng chật chội của cuộc đời này. Chỉ còn trái tim thơ, trái tim tự do lên tiếng, đó chính là sứ mệnh của thơ:

lòng người nhỏ bé vì những điều cỏn con
trong chiếc lồng chật
con chim lặng câm

[Không Hót]

Đi sâu khảo sát vào thi pháp Thiên Di trong nhiều thi tập và ở ATCC, ở đâu ta cũng nhận ra nhà thơ dụng ngôn tự nhiên, hài hòa, chọn lọc, vững chắc. Chừng như thi ngôn và cảm xúc đã hòa quyện vào nhau nên thơ từ tâm thức bước ra thế giới bên ngoài tự nhiên như ánh sáng, như “âm thanh của cánh” thiên thần. Hay nói cách khác, nhà thơ như một họa sĩ đã thấu cảm sự hòa quyện của sắc màu, một nhạc sĩ biến tấu các nốt nhạc thành thục tạo ra một bản hòa âm tự nhiên. Từ việc nắm bắt những tinh túy của ngôn từ, bút pháp thơ Thiên Di không câu nệ thể loại, truyền thống hay hiện đại, mượt mà hay gai góc.

Đi dọc hành trình thơ, ta thấy có những bài  thơ 5,6,7,8 chữ với vần điệu mượt mà lãng mạn. Cũng không ít những bài thơ thể hiện phong cách hiện đại,  mới mẻ, đầy sức sống thời đại. Ở đó, thi sĩ tự do bộc lộ cái tôi, cái nhìn xuyên suốt thế giới bên trong và bên ngoài:

Hoàng hôn của mùa đông
những cánh tay khẳng khiu vẽ nền trời hiu vắng
than hồng sắp chết
ân tình sót lại dăm lá vàng rơi

(Hoàng hôn mùa đông)

Sức mạnh của thơ tự do là ý từ luôn song hành với tư duy mới, táo bạo, phân liệt, phát tiết thành những tuyên ngôn cá nhân, thể hiện khát vọng đẹp, nhân bản. Ta thấy Thiên Di thể hiện những nét đẹp này trong nhiều bài thơ:

em muốn thay đổi bản đồ thế giới
đốt cháy mọi khoảng cách
giữa chúng ta
em muốn giấu anh trong trái tim em
như một kho báu
khoá cửa
hủy bỏ những liên kết

(Tình yêu đêm nay)

Tác giả cũng dễ dàng giải phẩu tâm linh, nhìn vào tận đáy thẳm của khát vọng, lục tìm trong ngổn ngang ký ức, gắn kết nội tâm với thế giới bên ngoài. Thế cho nên thơ trở nên gần gủi như hơi ấm, bản ngã như thèm muốn, bao la như vòm sao và trở về với sự đợi chờ của tình yêu muôn thuở:

Đêm còn trẻ
như mắt con gái,
nhìn xa xăm tím phía chân trời
đêm…
của vạn ngôi sao
những cái ôm của lụa là mềm và ấm
Đêm …
gương móng vuốt
xé em ra
trong thăm thẳm mù loà
khao khát
em ngước lên bầu trời
tự hỏi...
ngôi sao chờ đợi ai?

(Ai nói cho em... Nơi trái tim anh ở)

Tôi không cho phép mình bỏ qua yếu tố nữ tính và những chuyện tình yêu luôn hiện diện trong thơ thi sĩ Thiên Di. Đó là góc trời lãng mạn của ước mơ hạnh phúc, đó là bước chân dìu dặt, là chung rượu cạn, phím đàn rêu phong, là lời thì thầm của lứa đôi. Ta sẽ bắt gặp trong ATCC hình ảnh các đôi tình nhân mọi thế kỷ, mọi thời đại trong nhiều bài thơ của nàng thơ xinh đẹp:

Bỏ quên góc quán quen ngồi
Ly cà phê đợi một lời... dở dang
Bỏ mình soi bóng sương tan
Bỏ chung rượu cạn phím đàn rêu phong

(Đêm thơm)

Ôi, tuyệt diệu biết bao những đêm như đêm nay, nghe tiếng thở từ trong bức tranh cổ, nghe như giọt sương lay động dưới ánh trăng vàng:

Một đêm trăng đổ dát vàng lá
Lau nhẹ giọt sương tay gió hiền
Đất trời tình tự êm đềm quá
Rụng ánh trăng thu sáng bên thềm…

(Trăng thu sáng bên thềm… )

Và đây, phải chăng là lời ru vang vọng từ lâu đài tình ái trong một chiều serenade:

Sông mây
Dìu dịu êm êm
Gót hài thu đến
Bên thềm lá rơi
Cúc vàng em
Nụ cười tôi
Tinh khôi ta bước xuống đời.
Dâng hương…

(Hồn nhiên em bước xuống đời)

Tình yêu không chỉ là hạnh phúc, mà còn chưa đựng bao điều ray rứt, dằn xé, oán hờn, nỉ non. Những câu thơ tình chinh phục tôi và có lẽ cũng thấm vào đường tm các bạn:

người yêu của tôi
là một giấc mơ
anh ấy như cái bóng
là thiên thần hay quỷ dữ?
kéo tôi vào sâu thẳm…
…đêm khấp khểnh
đêm vật vờ hư thực
đêm trở thành nô lệ giấc mơ

(Người tôi yêu)

Thi nhân, đến một lúc nào đó mặc nhiên sở đắc thiền thị đến với tâm tư và thơ trở nên an nhiên như người dừng chổi lắng nghe sự biến chuyển của chiếc lá vàng:

Ta quét lá vàng
Ngày lên xanh biếc
Niệm xưa luyến tiếc
Mây thản nhiên bay

(Nắng hồng)

Chẳng biết dừng lại ở khúc sông nào trên giải trường giang ÂM THANH CỦA CÁNH. Tôi xin trích dẫn nhà thơ Võ Thị Như Mai viết cho người bạn của mình: “Đó là chuyến du hành cảm xúc qua âm thanh của cánh, cánh hoa nở và rụng, đến cánh buồm chở ước vọng, từ cánh đồng ngát hương, cánh rừng lộng gió đến cánh cửa của thanh âm và cảm xúc đều được nàng thả hồn mình vào để dệt nên những vần thơ mơ mộng, lãng mạn…”

Chúc thi sĩ Thiên Di sung mãn để miệt mài viết tiếp những vần thơ bất tuyệt.
 

Bà Rịa, ngày 20 tháng 9 năm 2024

N.B

Bài viết liên quan

Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm