TIN TỨC

Đọc thơ Lê Quang Sinh | Hữu Thỉnh

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-07-19 14:30:06
mail facebook google pos stwis
1671 lượt xem

HỮU THỈNH

Lê Quang Sinh thuộc thế hệ các nhà thơ xuất hiện và trưởng thành sau chiến tranh. Sau khi lấy bằng kĩ sư thuộc Đại học Bách Khoa Hà Nội, anh vào lập nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh một thời gian dài, sau đó anh trở thành cán bộ của Hội Nhà văn Việt Nam. Cho đến nay anh đã in gần mười tập thơ. Anh sống và làm việc ở thành phố, nhưng thơ anh lại chủ yếu viết về nông thôn, đặc biệt là vùng quê của anh. Đó là một vùng quê trung du nằm bên bờ sông Mã. Dòng sông ấy, vùng quê ấy đã đi vào thơ anh với biết bao kỉ niệm thời thơ ấu. Chúng ta đã bắt gặp sông Mã dữ dằn trong thơ Quang Dũng, thì sông Mã trong thơ Lê Quang Sinh lại là con sông hiền hòa, nên thơ với vẻ đẹp kì vĩ:

Sông Mã ơi tạc giữa trời xanh

Em xuống tắm thế mà lau trổ trắng

(Xin làng trồng lại cây đa)


Các nhà thơ Hữu Thỉnh và Lê Quang Sinh

Dòng sông và con người hiện ra như hai vế đối. Đối lại với vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên là vẻ đẹp nên thơ và quyến rũ của con người. Câu thơ của Lê Quang Sinh rất gợi và có sức ám ảnh. Dòng sông đó không chỉ đẹp mà còn là dòng sông bồi đắp, nuôi người:

Dòng sông quê bao mùa trăng tròn khuyết

Câu hò nào chở mẹ nắng chang chang

Truông cát trắng, dây bầu trườn xanh biếc

Dế kêu sương trong túi áo mục đồng

(Những sợi gió)

Cần cù làm lụng là thế nhưng bao năm vẫn không cất đầu lên được. Cái nghèo, cái khó cứ bám riết như một định mệnh.

Cha còng lưng mót sắn trên đồi

Đuôi sắn sót găm mầm gianh độc

Đá núi làng đêm ấy vã mồ hôi

(Những sợi gió)

Viết về quê hương, Lê Quang Sinh không chỉ thấy mặt nghèo khó, mà còn thấy biết bao vẻ đẹp anh hùng. Đó là lòng yêu nước, thương nhà, dũng cảm hi sinh vì nghĩa lớn. Tiếp bước cha anh, biết bao người con đã mạnh bước lên đường cống hiến tuổi xuân ở mọi nẻo chân trời. Họ chấp nhận khó khăn, thử thách và hi sinh thầm lặng như những người anh hùng:

Đứa nằm lại rừng sâu

Đứa ngào vào sông nước

Tiếng gọi mẹ cuối cùng tức tưởi

Cái nhìn cuối cùng hấp hối cơn giông.

Gió ơi, chớ lật cành rụng lá,

Nắng ơi nhạt đi, cho lưng mẹ bớt còng!

Chiến tranh qua rồi đã bao nhiêu năm

Đôi mắt mẹ vẫn không rời phía ngõ

Đôi mắt mẹ nhòa trong trời chiều.

(Đôi mắt mẹ)

“Đôi mắt mẹ vẫn không rời phía ngõ”, nghĩa là cuộc chiến tranh chưa hề kết thúc. Đau đớn là vậy. Mẹ không thể chấp nhận con mẹ đã hy sinh, nó chỉ còn bận việc chi đó chưa về. Câu thơ của Lê Quang Sinh chạm tới nỗi đau sâu thẳm của lòng người. Anh tuy không phải người lính trải qua chiến tranh, nhưng viết về chiến tranh như thế là rất sâu sắc. Tuy những hi sinh, mất mát trong chiến tranh là không gì bù đắp được và không thể nào quên, nhưng cuộc sống đang hồi phục trong hòa bình là không gì cưỡng nổi. Những người lính từ chiến trường trở về mang theo bao khát vọng về hạnh phúc. Những đám cưới sau chiến tranh được tổ chức thật giản dị và cảm động:

Mẹ cười bỏm bẻm miếng trầu

Cha ra đứng đón con dâu tận đò

Một vùng đầy ắp tiếng hò

Tuổi thơ anh bỗng gió lùa đầy vơi.

(Về quê)

Từ thực tiễn ở làng mình Lê Quang Sinh mở rộng tầm nhìn để tiếp cận với hiện thực lớn lao của đất nước. Anh tỏ ra cảm thông sâu sắc với những người vợ mất chồng phải chịu đựng những năm tháng lẻ loi đầy thương cảm. Câu thơ có nhiều xa xót mang được tiếng nức nở nội tâm

Lại một chiều cùng năm tháng mất anh

Đêm thương chị nuốt vào mình nước mắt

Lấy công việc làm niềm vui thường nhật

Mượn lo toan lấp khoảng trống đời mình

Chị tôi ngồi soi bóng xuống chị tôi.

(Chị)

“Chị tôi ngồi soi bóng xuống chị tôi” là một câu thơ có sáng tạo. Tác giả biết giấu đi những chữ cô đơn, hiu quạnh, đau đớn để tạo ra một pho tượng sống. Câu thơ thật xúc tích mà nói được sự hi sinh lớn lao của những người vợ liệt sĩ. Một số chị khác cũng trải qua những thử thách ác liệt trong chiến tranh, nhưng may mắn hơn là tìm thấy hạnh phúc trong hòa bình. Lê Quang Sinh viết về một nữ du kích ở Đồng bằng sông Cửu Long rất cảm động

Giặc treo đầu giải thưởng

Săn lùng chị khắp nơi

Bom đạn và chất độc

Mưu ma và sói người.

Ác liệt và hiểm nguy không làm chị nao núng. Chị bám trụ, đánh giặc, bám dân, bám đất. Gian khổ mấy, đau thương mấy cũng không hề rơi nước mắt. Nhưng khi hòa bình lập lại, lần đầu tiên nghe tiếng trẻ con khóc, nhất là đó lại là đứa con mình dứt ruột sinh ra, chị đã không cầm nổi nước mắt

Trở về, được làm mẹ

Vòng tay chị mênh mông

Lần đầu nghe trẻ khóc

Mắt chị bỗng lòa dần.

(Người du kích ấy)

Lê Quang Sinh rất có ý thức về đổi mới thơ. Đổi mới Thơ theo anh trước hết là đổi mới từ trong tâm hồn, trong cảm xúc. Đó là sự đổi mới của cách nhìn, cách cảm với hiện thực, làm cho thơ gần với đời sống hơn, độc đáo mà khái quát, mới mẻ nhưng vẫn gần gũi với cách cảm nghĩ của dân tộc. Làm được như vậy đương nhiên là rất khó. Lê Quang Sinh biết tựa vào cảm xúc. Từ cảm xúc câu thơ biến hóa vô thường, cách nói trở nên mới mẻ, nhiều tầng vỉa, tạo nên những hiệu ứng bất ngờ

Tôi xới tung ký ức – Gia tài mình cất giữ

Cái trinh nguyên – Nức nở

Niềm đam mê như chiếc lá bay vèo

Có gì đó ngổn ngang, vội vã

bỗng tưng bừng như gương mặt đang yêu

(Những mảnh vỡ cảm xúc)

Nhân vật trữ tình trong thơ Lê Quang Sinh là một cái tôi thoáng rộng, ẩn hiện muôn màu. Nó biến hóa giữa tình và cảnh, giữa vốn sống và trải nghiệm, tạo ra sự bịn rịn chan chứa tình người. Người đọc bị lôi cuốn bởi cách nói, nó làm mềm hoá chất liệu của đời sống để chỉ còn bện chặt bởi tình người

Anh phải lòng căn nhà gỗ liêu xiêu

Xôi nếp bết tay, rêu rừng ngọt đũa

Anh phải lòng đêm sương trăng tỏ

Em mặn nồng ấm áp biết bao nhiêu

(Lời yêu gửi lại hoa rừng)

Có lúc thơ anh thu về một cách sống. Đó là sự dâng hiến. Đem cho là hành động cao cả nhất. Đó là thái độ vị tha, là quên mình vì người khác

Sống bao dung anh thành gã thợ cày

Đem phóng khoáng ươm mầm xanh kiêu hãnh

Anh là dòng sông cho nỗi nhớ xa quê

Là tiếng gà trưa xao xác lối về.

(Dòng sông cho nỗi nhớ xa quê)

Đó là những câu thơ đẹp nói về nhân cách. Người biết đem cho là người giàu có nhất. Cử chỉ đó làm cho người ta lớn lên. Lê Quang Sinh có một thái độ dứt khoát về lối sống nhân nghĩa. Đó là mạch cảm hứng xuyên suốt trong thơ anh. Nó nâng gót thơ anh trên mọi nẻo đường. Nó làm cho tâm hồn anh rộng mở và lộng lẫy, say đắm khi nghĩ về hạnh phúc. Đây chính là giá trị nhân bản của phương Đông, khác hẳn với cách sống của phương Tây lấy cá nhân làm trung tâm, coi hạnh phúc là giành giật và chiếm đoạt. Ngày nay, trong sự vận động của cơ chế thị trường chúng ta, hàng ngày được chứng kiến bao cảnh đau lòng xuất phát từ lối sống giành giật, chụp giựt, làm hao mòn truyền thống đạo đức tốt đẹp hàng nghìn năm của dân tộc ta. Trong bối cảnh đó, ta càng thêm quý cách cảm, cách nghĩ của Lê Quang Sinh trong bài “Hoa bấn đường làng”

Về với vườn xưa, ổi nhà chín rụng

Cứ thương ông thăm thẳm cuối chân trời

Đến cây chuối cũng dài thêm mấy nải

Tiếng cuốc đồng chập choạng dính chùm đôi

Với một quan niệm đúng đắn về mối quan hệ giữa người với người, thơ Lê Quang Sinh luôn nặng tình khi viết về thiên nhiên và tình yêu. Thiên nhiên trong thơ Lê Quang Sinh là một thế giới sống động ấm áp tình người. Nhà thơ đã thả hồn ra cùng cây cối, mở lòng để cảm nhận được hết vẻ đẹp của đất trời. Anh thấy thiên nhiên luôn thấm nhuần ý nghĩa cao cả về sinh tồn, mang đậm vẻ đẹp nhân tính:

Bỏ quên mà cỏ vẫn xanh

Bởi tôi say đắm mà thành tương tư

Dòng sông bảng lảng sương mù

Tiếng chim lạc cả mùa thu mất rồi!

(Với cỏ)

Thực ra tác giả viết về cỏ nhưng cũng là viết về người, về thế giới người

- Có gì ấm áp tin yêu

mà bông giấy vỡ đỏ chiều, cỏ ơi

- Yếu mềm cũng ngọn cỏ tươi

từ trong tro lại bật chồi cỏ lên

- Vết thương đất, cỏ vá liền

đất đai có cỏ mà nên trường tồn

(Với cỏ)

“Với cỏ” là một bài thơ hay, bởi vì ở đó có bao nhiêu tình người. Bài thơ viết về thiên nhiên mà mang được ý nghĩa xã hội thật sâu sắc. Tác giả đã gửi bao tâm sự vào cỏ, nhờ cỏ nói lên những khắc khoải của lòng anh.

Trực tiếp đối diện với lòng mình, tác giả đã không tránh khỏi những phút cô đơn. Tiếc nuối vì tuổi trẻ đã đi qua, cuốn theo biết bao nhiêu kỉ niệm. Câu thơ đượm vẻ tâm sự trước biết bao nhiêu xô dạt, mất còn

Câu thơ tình viết vội

Tuổi thần tiên qua rồi

Biết bao nhiêu trang giấy

Giờ chỉ còn gió thôi

(Sài Gòn, một đêm tháng hai)

Gió ấy, thổi lộng vào tâm tư, làm nên những trận bão lòng. Tác giả có những câu thơ rất gợi với ngổn ngang nỗi niềm nhân thế. Dùng tĩnh để nói động, dùng ngoại cảnh để bày tỏ nội tâm , là việc từ xưa cổ nhân đã làm. Lê Quang Sinh vẫn dựa theo lối ấy nhưng có nhiều sáng tạo, để nói cái mênh mang của kiếp người

Lặng lẽ bạn vẫn ngồi

Rượu đêm vơi một nửa

Lặng lẽ tôi cứ ngồi

Trăng mòn dần trước cửa.

(Sài Gòn, một đêm tháng hai)

Là một người đa cảm, tâm hồn Lê Quang Sinh rất dễ rung lên trước những va chạm với đời sống. Anh rất cố gắng tìm ra cách nói riêng để tạo hiệu quả cho thơ. Đọc thơ anh người ta dễ bị cuốn hút bởi cách nói, cách tạo tứ, lập ý, lập câu. Đó là những dấu ấn riêng để lại những ấn tượng thẩm mỹ khó quên

Mở đầu bài “Giai điệu Bến En” anh viết

Nấn ná chút có đôi lời với nước

Sợ rồi xa mây trắng có loang màu

Nấn ná chút đợi tóc em ủ mượt

Con ong vàng sà xuống sắc hoa ngâu

Trong bài “Ghen” anh cảm nhận

Em sóng sánh như sông Hương ngày hội

Vườn nhà ai hoa cỏ thản nhiên mời

Còn trong bài “Một ngày xa em”, anh thổ lộ

Hè chẳng thể giấu mình lên chùm phượng

Hoa đỏ cành vì có kẻ đang yêu.

Đến bài “Cảm tác”, tác giả hạ bút

Ai gieo trời đất vào lan trắng

Để rối đường hương một khúc quanh

Tác giả nhiều lần nói đến cỏ, mỗi lần đều có phát hiện mới

Ngửa bàn tay hứng giọt sương đọng mật

Cỏ có gì tha thiết dưới chân đê

Trong bài “Thủy” tác giả đã có cách nói sáng tạo

Gió là gì để một chiều hư thực

Sao hoàng hôn cứ tím cả hoàng hôn

Là một người nặng lòng với quê hương, nay mỗi lần về thăm quê, tác giả không tránh khỏi những ngậm ngùi vì sự sa sút những giá trị truyền thống

Con về nhà nếp cũ cứ vơi đi

Chim làm tổ dưới ống luồng sau trái

(Cánh đồng lồng lộng)

Trong ngày hội trường, tác giả làm ta cảm động vì sự gặp lại người thầy cũ

Đội nắng tứ phương vẫn lội ruộng về làng

Trò tóc bạc ôm thầy tóc bạc

Thôi thì cứ mặc cho nước mắt

Thêm một lần được khô ướt về nhau

(Bên tán xà cừ)

Thơ Lê Quang Sinh vừa quen vừa lạ. Cảm xúc trữ tình trong thơ anh thật đa dạng và nhiều biến hoá. Anh rất có ý thức đi tìm cách nói mới, và trong nhiều trường hợp anh đã thành công, để lại những dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc. Cái mới trong thơ anh trước hết là cái mới trong tâm hồn, trong mạch cảm nghĩ trữ tình mang đậm vẻ đẹp truyền thống. Sau gần 50 năm sáng tạo, Lê Quang Sinh đã trở thành một nhà thơ sung sức và có nhiều tiềm lực, mọi chiêm nghiệm, tìm tòi đang đi vào độ chín, hứa hẹn những thành công mới, xứng đáng với sự mong đợi của bạn đọc.

Hà Nội 21/6/2022.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm