TIN TỨC

Đọc thơ Lê Quang Sinh | Hữu Thỉnh

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-07-19 14:30:06
mail facebook google pos stwis
1767 lượt xem

HỮU THỈNH

Lê Quang Sinh thuộc thế hệ các nhà thơ xuất hiện và trưởng thành sau chiến tranh. Sau khi lấy bằng kĩ sư thuộc Đại học Bách Khoa Hà Nội, anh vào lập nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh một thời gian dài, sau đó anh trở thành cán bộ của Hội Nhà văn Việt Nam. Cho đến nay anh đã in gần mười tập thơ. Anh sống và làm việc ở thành phố, nhưng thơ anh lại chủ yếu viết về nông thôn, đặc biệt là vùng quê của anh. Đó là một vùng quê trung du nằm bên bờ sông Mã. Dòng sông ấy, vùng quê ấy đã đi vào thơ anh với biết bao kỉ niệm thời thơ ấu. Chúng ta đã bắt gặp sông Mã dữ dằn trong thơ Quang Dũng, thì sông Mã trong thơ Lê Quang Sinh lại là con sông hiền hòa, nên thơ với vẻ đẹp kì vĩ:

Sông Mã ơi tạc giữa trời xanh

Em xuống tắm thế mà lau trổ trắng

(Xin làng trồng lại cây đa)


Các nhà thơ Hữu Thỉnh và Lê Quang Sinh

Dòng sông và con người hiện ra như hai vế đối. Đối lại với vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên là vẻ đẹp nên thơ và quyến rũ của con người. Câu thơ của Lê Quang Sinh rất gợi và có sức ám ảnh. Dòng sông đó không chỉ đẹp mà còn là dòng sông bồi đắp, nuôi người:

Dòng sông quê bao mùa trăng tròn khuyết

Câu hò nào chở mẹ nắng chang chang

Truông cát trắng, dây bầu trườn xanh biếc

Dế kêu sương trong túi áo mục đồng

(Những sợi gió)

Cần cù làm lụng là thế nhưng bao năm vẫn không cất đầu lên được. Cái nghèo, cái khó cứ bám riết như một định mệnh.

Cha còng lưng mót sắn trên đồi

Đuôi sắn sót găm mầm gianh độc

Đá núi làng đêm ấy vã mồ hôi

(Những sợi gió)

Viết về quê hương, Lê Quang Sinh không chỉ thấy mặt nghèo khó, mà còn thấy biết bao vẻ đẹp anh hùng. Đó là lòng yêu nước, thương nhà, dũng cảm hi sinh vì nghĩa lớn. Tiếp bước cha anh, biết bao người con đã mạnh bước lên đường cống hiến tuổi xuân ở mọi nẻo chân trời. Họ chấp nhận khó khăn, thử thách và hi sinh thầm lặng như những người anh hùng:

Đứa nằm lại rừng sâu

Đứa ngào vào sông nước

Tiếng gọi mẹ cuối cùng tức tưởi

Cái nhìn cuối cùng hấp hối cơn giông.

Gió ơi, chớ lật cành rụng lá,

Nắng ơi nhạt đi, cho lưng mẹ bớt còng!

Chiến tranh qua rồi đã bao nhiêu năm

Đôi mắt mẹ vẫn không rời phía ngõ

Đôi mắt mẹ nhòa trong trời chiều.

(Đôi mắt mẹ)

“Đôi mắt mẹ vẫn không rời phía ngõ”, nghĩa là cuộc chiến tranh chưa hề kết thúc. Đau đớn là vậy. Mẹ không thể chấp nhận con mẹ đã hy sinh, nó chỉ còn bận việc chi đó chưa về. Câu thơ của Lê Quang Sinh chạm tới nỗi đau sâu thẳm của lòng người. Anh tuy không phải người lính trải qua chiến tranh, nhưng viết về chiến tranh như thế là rất sâu sắc. Tuy những hi sinh, mất mát trong chiến tranh là không gì bù đắp được và không thể nào quên, nhưng cuộc sống đang hồi phục trong hòa bình là không gì cưỡng nổi. Những người lính từ chiến trường trở về mang theo bao khát vọng về hạnh phúc. Những đám cưới sau chiến tranh được tổ chức thật giản dị và cảm động:

Mẹ cười bỏm bẻm miếng trầu

Cha ra đứng đón con dâu tận đò

Một vùng đầy ắp tiếng hò

Tuổi thơ anh bỗng gió lùa đầy vơi.

(Về quê)

Từ thực tiễn ở làng mình Lê Quang Sinh mở rộng tầm nhìn để tiếp cận với hiện thực lớn lao của đất nước. Anh tỏ ra cảm thông sâu sắc với những người vợ mất chồng phải chịu đựng những năm tháng lẻ loi đầy thương cảm. Câu thơ có nhiều xa xót mang được tiếng nức nở nội tâm

Lại một chiều cùng năm tháng mất anh

Đêm thương chị nuốt vào mình nước mắt

Lấy công việc làm niềm vui thường nhật

Mượn lo toan lấp khoảng trống đời mình

Chị tôi ngồi soi bóng xuống chị tôi.

(Chị)

“Chị tôi ngồi soi bóng xuống chị tôi” là một câu thơ có sáng tạo. Tác giả biết giấu đi những chữ cô đơn, hiu quạnh, đau đớn để tạo ra một pho tượng sống. Câu thơ thật xúc tích mà nói được sự hi sinh lớn lao của những người vợ liệt sĩ. Một số chị khác cũng trải qua những thử thách ác liệt trong chiến tranh, nhưng may mắn hơn là tìm thấy hạnh phúc trong hòa bình. Lê Quang Sinh viết về một nữ du kích ở Đồng bằng sông Cửu Long rất cảm động

Giặc treo đầu giải thưởng

Săn lùng chị khắp nơi

Bom đạn và chất độc

Mưu ma và sói người.

Ác liệt và hiểm nguy không làm chị nao núng. Chị bám trụ, đánh giặc, bám dân, bám đất. Gian khổ mấy, đau thương mấy cũng không hề rơi nước mắt. Nhưng khi hòa bình lập lại, lần đầu tiên nghe tiếng trẻ con khóc, nhất là đó lại là đứa con mình dứt ruột sinh ra, chị đã không cầm nổi nước mắt

Trở về, được làm mẹ

Vòng tay chị mênh mông

Lần đầu nghe trẻ khóc

Mắt chị bỗng lòa dần.

(Người du kích ấy)

Lê Quang Sinh rất có ý thức về đổi mới thơ. Đổi mới Thơ theo anh trước hết là đổi mới từ trong tâm hồn, trong cảm xúc. Đó là sự đổi mới của cách nhìn, cách cảm với hiện thực, làm cho thơ gần với đời sống hơn, độc đáo mà khái quát, mới mẻ nhưng vẫn gần gũi với cách cảm nghĩ của dân tộc. Làm được như vậy đương nhiên là rất khó. Lê Quang Sinh biết tựa vào cảm xúc. Từ cảm xúc câu thơ biến hóa vô thường, cách nói trở nên mới mẻ, nhiều tầng vỉa, tạo nên những hiệu ứng bất ngờ

Tôi xới tung ký ức – Gia tài mình cất giữ

Cái trinh nguyên – Nức nở

Niềm đam mê như chiếc lá bay vèo

Có gì đó ngổn ngang, vội vã

bỗng tưng bừng như gương mặt đang yêu

(Những mảnh vỡ cảm xúc)

Nhân vật trữ tình trong thơ Lê Quang Sinh là một cái tôi thoáng rộng, ẩn hiện muôn màu. Nó biến hóa giữa tình và cảnh, giữa vốn sống và trải nghiệm, tạo ra sự bịn rịn chan chứa tình người. Người đọc bị lôi cuốn bởi cách nói, nó làm mềm hoá chất liệu của đời sống để chỉ còn bện chặt bởi tình người

Anh phải lòng căn nhà gỗ liêu xiêu

Xôi nếp bết tay, rêu rừng ngọt đũa

Anh phải lòng đêm sương trăng tỏ

Em mặn nồng ấm áp biết bao nhiêu

(Lời yêu gửi lại hoa rừng)

Có lúc thơ anh thu về một cách sống. Đó là sự dâng hiến. Đem cho là hành động cao cả nhất. Đó là thái độ vị tha, là quên mình vì người khác

Sống bao dung anh thành gã thợ cày

Đem phóng khoáng ươm mầm xanh kiêu hãnh

Anh là dòng sông cho nỗi nhớ xa quê

Là tiếng gà trưa xao xác lối về.

(Dòng sông cho nỗi nhớ xa quê)

Đó là những câu thơ đẹp nói về nhân cách. Người biết đem cho là người giàu có nhất. Cử chỉ đó làm cho người ta lớn lên. Lê Quang Sinh có một thái độ dứt khoát về lối sống nhân nghĩa. Đó là mạch cảm hứng xuyên suốt trong thơ anh. Nó nâng gót thơ anh trên mọi nẻo đường. Nó làm cho tâm hồn anh rộng mở và lộng lẫy, say đắm khi nghĩ về hạnh phúc. Đây chính là giá trị nhân bản của phương Đông, khác hẳn với cách sống của phương Tây lấy cá nhân làm trung tâm, coi hạnh phúc là giành giật và chiếm đoạt. Ngày nay, trong sự vận động của cơ chế thị trường chúng ta, hàng ngày được chứng kiến bao cảnh đau lòng xuất phát từ lối sống giành giật, chụp giựt, làm hao mòn truyền thống đạo đức tốt đẹp hàng nghìn năm của dân tộc ta. Trong bối cảnh đó, ta càng thêm quý cách cảm, cách nghĩ của Lê Quang Sinh trong bài “Hoa bấn đường làng”

Về với vườn xưa, ổi nhà chín rụng

Cứ thương ông thăm thẳm cuối chân trời

Đến cây chuối cũng dài thêm mấy nải

Tiếng cuốc đồng chập choạng dính chùm đôi

Với một quan niệm đúng đắn về mối quan hệ giữa người với người, thơ Lê Quang Sinh luôn nặng tình khi viết về thiên nhiên và tình yêu. Thiên nhiên trong thơ Lê Quang Sinh là một thế giới sống động ấm áp tình người. Nhà thơ đã thả hồn ra cùng cây cối, mở lòng để cảm nhận được hết vẻ đẹp của đất trời. Anh thấy thiên nhiên luôn thấm nhuần ý nghĩa cao cả về sinh tồn, mang đậm vẻ đẹp nhân tính:

Bỏ quên mà cỏ vẫn xanh

Bởi tôi say đắm mà thành tương tư

Dòng sông bảng lảng sương mù

Tiếng chim lạc cả mùa thu mất rồi!

(Với cỏ)

Thực ra tác giả viết về cỏ nhưng cũng là viết về người, về thế giới người

- Có gì ấm áp tin yêu

mà bông giấy vỡ đỏ chiều, cỏ ơi

- Yếu mềm cũng ngọn cỏ tươi

từ trong tro lại bật chồi cỏ lên

- Vết thương đất, cỏ vá liền

đất đai có cỏ mà nên trường tồn

(Với cỏ)

“Với cỏ” là một bài thơ hay, bởi vì ở đó có bao nhiêu tình người. Bài thơ viết về thiên nhiên mà mang được ý nghĩa xã hội thật sâu sắc. Tác giả đã gửi bao tâm sự vào cỏ, nhờ cỏ nói lên những khắc khoải của lòng anh.

Trực tiếp đối diện với lòng mình, tác giả đã không tránh khỏi những phút cô đơn. Tiếc nuối vì tuổi trẻ đã đi qua, cuốn theo biết bao nhiêu kỉ niệm. Câu thơ đượm vẻ tâm sự trước biết bao nhiêu xô dạt, mất còn

Câu thơ tình viết vội

Tuổi thần tiên qua rồi

Biết bao nhiêu trang giấy

Giờ chỉ còn gió thôi

(Sài Gòn, một đêm tháng hai)

Gió ấy, thổi lộng vào tâm tư, làm nên những trận bão lòng. Tác giả có những câu thơ rất gợi với ngổn ngang nỗi niềm nhân thế. Dùng tĩnh để nói động, dùng ngoại cảnh để bày tỏ nội tâm , là việc từ xưa cổ nhân đã làm. Lê Quang Sinh vẫn dựa theo lối ấy nhưng có nhiều sáng tạo, để nói cái mênh mang của kiếp người

Lặng lẽ bạn vẫn ngồi

Rượu đêm vơi một nửa

Lặng lẽ tôi cứ ngồi

Trăng mòn dần trước cửa.

(Sài Gòn, một đêm tháng hai)

Là một người đa cảm, tâm hồn Lê Quang Sinh rất dễ rung lên trước những va chạm với đời sống. Anh rất cố gắng tìm ra cách nói riêng để tạo hiệu quả cho thơ. Đọc thơ anh người ta dễ bị cuốn hút bởi cách nói, cách tạo tứ, lập ý, lập câu. Đó là những dấu ấn riêng để lại những ấn tượng thẩm mỹ khó quên

Mở đầu bài “Giai điệu Bến En” anh viết

Nấn ná chút có đôi lời với nước

Sợ rồi xa mây trắng có loang màu

Nấn ná chút đợi tóc em ủ mượt

Con ong vàng sà xuống sắc hoa ngâu

Trong bài “Ghen” anh cảm nhận

Em sóng sánh như sông Hương ngày hội

Vườn nhà ai hoa cỏ thản nhiên mời

Còn trong bài “Một ngày xa em”, anh thổ lộ

Hè chẳng thể giấu mình lên chùm phượng

Hoa đỏ cành vì có kẻ đang yêu.

Đến bài “Cảm tác”, tác giả hạ bút

Ai gieo trời đất vào lan trắng

Để rối đường hương một khúc quanh

Tác giả nhiều lần nói đến cỏ, mỗi lần đều có phát hiện mới

Ngửa bàn tay hứng giọt sương đọng mật

Cỏ có gì tha thiết dưới chân đê

Trong bài “Thủy” tác giả đã có cách nói sáng tạo

Gió là gì để một chiều hư thực

Sao hoàng hôn cứ tím cả hoàng hôn

Là một người nặng lòng với quê hương, nay mỗi lần về thăm quê, tác giả không tránh khỏi những ngậm ngùi vì sự sa sút những giá trị truyền thống

Con về nhà nếp cũ cứ vơi đi

Chim làm tổ dưới ống luồng sau trái

(Cánh đồng lồng lộng)

Trong ngày hội trường, tác giả làm ta cảm động vì sự gặp lại người thầy cũ

Đội nắng tứ phương vẫn lội ruộng về làng

Trò tóc bạc ôm thầy tóc bạc

Thôi thì cứ mặc cho nước mắt

Thêm một lần được khô ướt về nhau

(Bên tán xà cừ)

Thơ Lê Quang Sinh vừa quen vừa lạ. Cảm xúc trữ tình trong thơ anh thật đa dạng và nhiều biến hoá. Anh rất có ý thức đi tìm cách nói mới, và trong nhiều trường hợp anh đã thành công, để lại những dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc. Cái mới trong thơ anh trước hết là cái mới trong tâm hồn, trong mạch cảm nghĩ trữ tình mang đậm vẻ đẹp truyền thống. Sau gần 50 năm sáng tạo, Lê Quang Sinh đã trở thành một nhà thơ sung sức và có nhiều tiềm lực, mọi chiêm nghiệm, tìm tòi đang đi vào độ chín, hứa hẹn những thành công mới, xứng đáng với sự mong đợi của bạn đọc.

Hà Nội 21/6/2022.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm