TIN TỨC

Đọc thơ Lê Quang Sinh | Hữu Thỉnh

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-07-19 14:48:20
mail facebook google pos stwis
960 lượt xem

HỮU THỈNH

Lê Quang Sinh thuộc thế hệ các nhà thơ xuất hiện và trưởng thành sau chiến tranh. Sau khi lấy bằng kĩ sư thuộc Đại học Bách Khoa Hà Nội, anh vào lập nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh một thời gian dài, sau đó anh trở thành cán bộ của Hội Nhà văn Việt Nam. Cho đến nay anh đã in gần mười tập thơ. Anh sống và làm việc ở thành phố, nhưng thơ anh lại chủ yếu viết về nông thôn, đặc biệt là vùng quê của anh. Đó là một vùng quê trung du nằm bên bờ sông Mã. Dòng sông ấy, vùng quê ấy đã đi vào thơ anh với biết bao kỉ niệm thời thơ ấu. Chúng ta đã bắt gặp sông Mã dữ dằn trong thơ Quang Dũng, thì sông Mã trong thơ Lê Quang Sinh lại là con sông hiền hòa, nên thơ với vẻ đẹp kì vĩ:

Sông Mã ơi tạc giữa trời xanh

Em xuống tắm thế mà lau trổ trắng

(Xin làng trồng lại cây đa)


Các nhà thơ Hữu Thỉnh và Lê Quang Sinh

Dòng sông và con người hiện ra như hai vế đối. Đối lại với vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên là vẻ đẹp nên thơ và quyến rũ của con người. Câu thơ của Lê Quang Sinh rất gợi và có sức ám ảnh. Dòng sông đó không chỉ đẹp mà còn là dòng sông bồi đắp, nuôi người:

Dòng sông quê bao mùa trăng tròn khuyết

Câu hò nào chở mẹ nắng chang chang

Truông cát trắng, dây bầu trườn xanh biếc

Dế kêu sương trong túi áo mục đồng

(Những sợi gió)

Cần cù làm lụng là thế nhưng bao năm vẫn không cất đầu lên được. Cái nghèo, cái khó cứ bám riết như một định mệnh.

Cha còng lưng mót sắn trên đồi

Đuôi sắn sót găm mầm gianh độc

Đá núi làng đêm ấy vã mồ hôi

(Những sợi gió)

Viết về quê hương, Lê Quang Sinh không chỉ thấy mặt nghèo khó, mà còn thấy biết bao vẻ đẹp anh hùng. Đó là lòng yêu nước, thương nhà, dũng cảm hi sinh vì nghĩa lớn. Tiếp bước cha anh, biết bao người con đã mạnh bước lên đường cống hiến tuổi xuân ở mọi nẻo chân trời. Họ chấp nhận khó khăn, thử thách và hi sinh thầm lặng như những người anh hùng:

Đứa nằm lại rừng sâu

Đứa ngào vào sông nước

Tiếng gọi mẹ cuối cùng tức tưởi

Cái nhìn cuối cùng hấp hối cơn giông.

Gió ơi, chớ lật cành rụng lá,

Nắng ơi nhạt đi, cho lưng mẹ bớt còng!

Chiến tranh qua rồi đã bao nhiêu năm

Đôi mắt mẹ vẫn không rời phía ngõ

Đôi mắt mẹ nhòa trong trời chiều.

(Đôi mắt mẹ)

“Đôi mắt mẹ vẫn không rời phía ngõ”, nghĩa là cuộc chiến tranh chưa hề kết thúc. Đau đớn là vậy. Mẹ không thể chấp nhận con mẹ đã hy sinh, nó chỉ còn bận việc chi đó chưa về. Câu thơ của Lê Quang Sinh chạm tới nỗi đau sâu thẳm của lòng người. Anh tuy không phải người lính trải qua chiến tranh, nhưng viết về chiến tranh như thế là rất sâu sắc. Tuy những hi sinh, mất mát trong chiến tranh là không gì bù đắp được và không thể nào quên, nhưng cuộc sống đang hồi phục trong hòa bình là không gì cưỡng nổi. Những người lính từ chiến trường trở về mang theo bao khát vọng về hạnh phúc. Những đám cưới sau chiến tranh được tổ chức thật giản dị và cảm động:

Mẹ cười bỏm bẻm miếng trầu

Cha ra đứng đón con dâu tận đò

Một vùng đầy ắp tiếng hò

Tuổi thơ anh bỗng gió lùa đầy vơi.

(Về quê)

Từ thực tiễn ở làng mình Lê Quang Sinh mở rộng tầm nhìn để tiếp cận với hiện thực lớn lao của đất nước. Anh tỏ ra cảm thông sâu sắc với những người vợ mất chồng phải chịu đựng những năm tháng lẻ loi đầy thương cảm. Câu thơ có nhiều xa xót mang được tiếng nức nở nội tâm

Lại một chiều cùng năm tháng mất anh

Đêm thương chị nuốt vào mình nước mắt

Lấy công việc làm niềm vui thường nhật

Mượn lo toan lấp khoảng trống đời mình

Chị tôi ngồi soi bóng xuống chị tôi.

(Chị)

“Chị tôi ngồi soi bóng xuống chị tôi” là một câu thơ có sáng tạo. Tác giả biết giấu đi những chữ cô đơn, hiu quạnh, đau đớn để tạo ra một pho tượng sống. Câu thơ thật xúc tích mà nói được sự hi sinh lớn lao của những người vợ liệt sĩ. Một số chị khác cũng trải qua những thử thách ác liệt trong chiến tranh, nhưng may mắn hơn là tìm thấy hạnh phúc trong hòa bình. Lê Quang Sinh viết về một nữ du kích ở Đồng bằng sông Cửu Long rất cảm động

Giặc treo đầu giải thưởng

Săn lùng chị khắp nơi

Bom đạn và chất độc

Mưu ma và sói người.

Ác liệt và hiểm nguy không làm chị nao núng. Chị bám trụ, đánh giặc, bám dân, bám đất. Gian khổ mấy, đau thương mấy cũng không hề rơi nước mắt. Nhưng khi hòa bình lập lại, lần đầu tiên nghe tiếng trẻ con khóc, nhất là đó lại là đứa con mình dứt ruột sinh ra, chị đã không cầm nổi nước mắt

Trở về, được làm mẹ

Vòng tay chị mênh mông

Lần đầu nghe trẻ khóc

Mắt chị bỗng lòa dần.

(Người du kích ấy)

Lê Quang Sinh rất có ý thức về đổi mới thơ. Đổi mới Thơ theo anh trước hết là đổi mới từ trong tâm hồn, trong cảm xúc. Đó là sự đổi mới của cách nhìn, cách cảm với hiện thực, làm cho thơ gần với đời sống hơn, độc đáo mà khái quát, mới mẻ nhưng vẫn gần gũi với cách cảm nghĩ của dân tộc. Làm được như vậy đương nhiên là rất khó. Lê Quang Sinh biết tựa vào cảm xúc. Từ cảm xúc câu thơ biến hóa vô thường, cách nói trở nên mới mẻ, nhiều tầng vỉa, tạo nên những hiệu ứng bất ngờ

Tôi xới tung ký ức – Gia tài mình cất giữ

Cái trinh nguyên – Nức nở

Niềm đam mê như chiếc lá bay vèo

Có gì đó ngổn ngang, vội vã

bỗng tưng bừng như gương mặt đang yêu

(Những mảnh vỡ cảm xúc)

Nhân vật trữ tình trong thơ Lê Quang Sinh là một cái tôi thoáng rộng, ẩn hiện muôn màu. Nó biến hóa giữa tình và cảnh, giữa vốn sống và trải nghiệm, tạo ra sự bịn rịn chan chứa tình người. Người đọc bị lôi cuốn bởi cách nói, nó làm mềm hoá chất liệu của đời sống để chỉ còn bện chặt bởi tình người

Anh phải lòng căn nhà gỗ liêu xiêu

Xôi nếp bết tay, rêu rừng ngọt đũa

Anh phải lòng đêm sương trăng tỏ

Em mặn nồng ấm áp biết bao nhiêu

(Lời yêu gửi lại hoa rừng)

Có lúc thơ anh thu về một cách sống. Đó là sự dâng hiến. Đem cho là hành động cao cả nhất. Đó là thái độ vị tha, là quên mình vì người khác

Sống bao dung anh thành gã thợ cày

Đem phóng khoáng ươm mầm xanh kiêu hãnh

Anh là dòng sông cho nỗi nhớ xa quê

Là tiếng gà trưa xao xác lối về.

(Dòng sông cho nỗi nhớ xa quê)

Đó là những câu thơ đẹp nói về nhân cách. Người biết đem cho là người giàu có nhất. Cử chỉ đó làm cho người ta lớn lên. Lê Quang Sinh có một thái độ dứt khoát về lối sống nhân nghĩa. Đó là mạch cảm hứng xuyên suốt trong thơ anh. Nó nâng gót thơ anh trên mọi nẻo đường. Nó làm cho tâm hồn anh rộng mở và lộng lẫy, say đắm khi nghĩ về hạnh phúc. Đây chính là giá trị nhân bản của phương Đông, khác hẳn với cách sống của phương Tây lấy cá nhân làm trung tâm, coi hạnh phúc là giành giật và chiếm đoạt. Ngày nay, trong sự vận động của cơ chế thị trường chúng ta, hàng ngày được chứng kiến bao cảnh đau lòng xuất phát từ lối sống giành giật, chụp giựt, làm hao mòn truyền thống đạo đức tốt đẹp hàng nghìn năm của dân tộc ta. Trong bối cảnh đó, ta càng thêm quý cách cảm, cách nghĩ của Lê Quang Sinh trong bài “Hoa bấn đường làng”

Về với vườn xưa, ổi nhà chín rụng

Cứ thương ông thăm thẳm cuối chân trời

Đến cây chuối cũng dài thêm mấy nải

Tiếng cuốc đồng chập choạng dính chùm đôi

Với một quan niệm đúng đắn về mối quan hệ giữa người với người, thơ Lê Quang Sinh luôn nặng tình khi viết về thiên nhiên và tình yêu. Thiên nhiên trong thơ Lê Quang Sinh là một thế giới sống động ấm áp tình người. Nhà thơ đã thả hồn ra cùng cây cối, mở lòng để cảm nhận được hết vẻ đẹp của đất trời. Anh thấy thiên nhiên luôn thấm nhuần ý nghĩa cao cả về sinh tồn, mang đậm vẻ đẹp nhân tính:

Bỏ quên mà cỏ vẫn xanh

Bởi tôi say đắm mà thành tương tư

Dòng sông bảng lảng sương mù

Tiếng chim lạc cả mùa thu mất rồi!

(Với cỏ)

Thực ra tác giả viết về cỏ nhưng cũng là viết về người, về thế giới người

- Có gì ấm áp tin yêu

mà bông giấy vỡ đỏ chiều, cỏ ơi

- Yếu mềm cũng ngọn cỏ tươi

từ trong tro lại bật chồi cỏ lên

- Vết thương đất, cỏ vá liền

đất đai có cỏ mà nên trường tồn

(Với cỏ)

“Với cỏ” là một bài thơ hay, bởi vì ở đó có bao nhiêu tình người. Bài thơ viết về thiên nhiên mà mang được ý nghĩa xã hội thật sâu sắc. Tác giả đã gửi bao tâm sự vào cỏ, nhờ cỏ nói lên những khắc khoải của lòng anh.

Trực tiếp đối diện với lòng mình, tác giả đã không tránh khỏi những phút cô đơn. Tiếc nuối vì tuổi trẻ đã đi qua, cuốn theo biết bao nhiêu kỉ niệm. Câu thơ đượm vẻ tâm sự trước biết bao nhiêu xô dạt, mất còn

Câu thơ tình viết vội

Tuổi thần tiên qua rồi

Biết bao nhiêu trang giấy

Giờ chỉ còn gió thôi

(Sài Gòn, một đêm tháng hai)

Gió ấy, thổi lộng vào tâm tư, làm nên những trận bão lòng. Tác giả có những câu thơ rất gợi với ngổn ngang nỗi niềm nhân thế. Dùng tĩnh để nói động, dùng ngoại cảnh để bày tỏ nội tâm , là việc từ xưa cổ nhân đã làm. Lê Quang Sinh vẫn dựa theo lối ấy nhưng có nhiều sáng tạo, để nói cái mênh mang của kiếp người

Lặng lẽ bạn vẫn ngồi

Rượu đêm vơi một nửa

Lặng lẽ tôi cứ ngồi

Trăng mòn dần trước cửa.

(Sài Gòn, một đêm tháng hai)

Là một người đa cảm, tâm hồn Lê Quang Sinh rất dễ rung lên trước những va chạm với đời sống. Anh rất cố gắng tìm ra cách nói riêng để tạo hiệu quả cho thơ. Đọc thơ anh người ta dễ bị cuốn hút bởi cách nói, cách tạo tứ, lập ý, lập câu. Đó là những dấu ấn riêng để lại những ấn tượng thẩm mỹ khó quên

Mở đầu bài “Giai điệu Bến En” anh viết

Nấn ná chút có đôi lời với nước

Sợ rồi xa mây trắng có loang màu

Nấn ná chút đợi tóc em ủ mượt

Con ong vàng sà xuống sắc hoa ngâu

Trong bài “Ghen” anh cảm nhận

Em sóng sánh như sông Hương ngày hội

Vườn nhà ai hoa cỏ thản nhiên mời

Còn trong bài “Một ngày xa em”, anh thổ lộ

Hè chẳng thể giấu mình lên chùm phượng

Hoa đỏ cành vì có kẻ đang yêu.

Đến bài “Cảm tác”, tác giả hạ bút

Ai gieo trời đất vào lan trắng

Để rối đường hương một khúc quanh

Tác giả nhiều lần nói đến cỏ, mỗi lần đều có phát hiện mới

Ngửa bàn tay hứng giọt sương đọng mật

Cỏ có gì tha thiết dưới chân đê

Trong bài “Thủy” tác giả đã có cách nói sáng tạo

Gió là gì để một chiều hư thực

Sao hoàng hôn cứ tím cả hoàng hôn

Là một người nặng lòng với quê hương, nay mỗi lần về thăm quê, tác giả không tránh khỏi những ngậm ngùi vì sự sa sút những giá trị truyền thống

Con về nhà nếp cũ cứ vơi đi

Chim làm tổ dưới ống luồng sau trái

(Cánh đồng lồng lộng)

Trong ngày hội trường, tác giả làm ta cảm động vì sự gặp lại người thầy cũ

Đội nắng tứ phương vẫn lội ruộng về làng

Trò tóc bạc ôm thầy tóc bạc

Thôi thì cứ mặc cho nước mắt

Thêm một lần được khô ướt về nhau

(Bên tán xà cừ)

Thơ Lê Quang Sinh vừa quen vừa lạ. Cảm xúc trữ tình trong thơ anh thật đa dạng và nhiều biến hoá. Anh rất có ý thức đi tìm cách nói mới, và trong nhiều trường hợp anh đã thành công, để lại những dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc. Cái mới trong thơ anh trước hết là cái mới trong tâm hồn, trong mạch cảm nghĩ trữ tình mang đậm vẻ đẹp truyền thống. Sau gần 50 năm sáng tạo, Lê Quang Sinh đã trở thành một nhà thơ sung sức và có nhiều tiềm lực, mọi chiêm nghiệm, tìm tòi đang đi vào độ chín, hứa hẹn những thành công mới, xứng đáng với sự mong đợi của bạn đọc.

Hà Nội 21/6/2022.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Tiểu thuyết “Trưng Nữ Vương” – Bản tráng ca về những Nữ Vương đầu tiên của đất Việt
Bà Trưng quê ở Châu Phong,Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên.Chị em nặng một lời nguyền,Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân…(Đại Nam quốc sử diễn ca)
Xem thêm
Về nương bậu cửa kiếm tìm an yên
Bài viết cho cuộc ra mắt tập thơ “Lục bát chân mây” của Võ Miên Trường
Xem thêm
Nguyễn Minh Tâm với ‘Ấm lạnh pháp đình’
Bài viết của nhà văn Nguyễn Văn Hòa
Xem thêm
Bồi hồi, thổn thức, bâng khuâng…
Bài viết cảm nhận của nhà thơ Hoa Ngọc Dung
Xem thêm
Bàn về tính lý luận trong các bài giảng của thầy và bài viết của trò hiện nay
Lý luận văn học Lý luận văn học (LLVH) là bộ môn nghiên cứu văn học ở bình diện lý thuyết khái quát nhằm tìm ra những quy luật chung nhất về văn học. Trong đó bao gồm sự nghiên cứu bản chất của sáng tác văn học, chức năng xã hội-thẩm mỹ của văn học, đồng thời xác định phương pháp lý luận và phân tích văn học. Lý luận văn học tồn tại như một môn học độc lập ở một số trường đại học; nó cũng là một phân môn cho sinh viên và học sinh THPT thế hệ trước. Cho dù độc lập hay là phân môn của môn Ngữ văn thì vai trò của LLVH là vô cùng lớn.
Xem thêm
“Lời của gió” - Lời của nước mắt, nụ cười
Tôi may mắn được người anh, người đồng nghiệp quý mến - Nhà thơ, Nhà báo Trần Thế Tuyển gửi bản thảo trường ca “Lời của gió” với tin nhắn giản dị, mộc mạc “Gửi chú đọc và thẩm cho anh”. Đọc thì đương nhiên rồi, nhưng không dám “thẩm”. Mấy lời sau đây tôi viết với tư cách là bạn đọc, là người em của Nhà thơ Trần Thế Tuyển.
Xem thêm
Không gian thiền tịnh và buông xả trong thơ Nguyễn Thị Sơn
Chùm thơ 4 bài: Thiền, Tịnh, Buông, Nhàn của nhà thơ Nguyễn Thị Sơn đã khái quát một không gian thơ mang tính tâm linh cho riêng mình, ở đó mỗi bài đều chứa đựng những tầng ý nghĩa sâu sắc về tâm trạng và trải nghiệm của con người. Những bài thơ này thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc và trí tuệ, giữa thiên nhiên và tâm hồn. Mỗi bài thơ là một khía cạnh khác nhau của sự tìm kiếm sự an lạc và bình yên trong cuộc sống.
Xem thêm
Dòng sông tâm thức của Elena trong “Hạt bụi lênh đênh”
Trong những câu chuyện đan xen giữa thể loại tùy bút và truyện ngắn và tôi chọn 7 bài viết trong “Hạt bụi lênh đênh” để nói về “dòng sông tâm thức” của Elena đã trải qua .
Xem thêm
Nỗi buồn trổ bông và tình mẹ trong thơ Nguyễn Minh Ngọc Hà
Nguyễn Minh Ngọc Hà sinh năm 1985 tại vùng đất An Sơn thuộc thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương. Nơi đây vốn là chiến khu cách mạng hào hùng trong hai cuộc kháng chiến và là một phần của Vườn trái cây đặc sản Lái Thiêu nổi tiếng. Có lẽ đặc điểm, truyền thống quê hương đã sớm chắp cánh cho hồn thơ của chị. Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, trong đầu cô cựu học sinh lớp chuyên toán của trường trung học phổ thông chuyên Hùng Vương luôn phảng phất âm điệu của thi ca. Sau khi tốt nghiệp chuyên ngành Tài chính - Ngân hàng tại trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh rồi vào làm việc tại một ngân hàng lớn chưa bao lâu, như duyên phận đã định trước, Nguyễn Minh Ngọc Hà “rẽ bước”, chọn nghề tự do để có thời gian dành cho văn chương nghệ thuật
Xem thêm
So sánh bài thơ Cây đánh đu của Lê Thánh Tông và bài thơ Đánh đu của Hồ Xuân Hương
ĐÁNH ĐUTám cột khen ai khéo khéo trồngNgười thì lên đánh kẻ ngồi trôngGiai du gối hạc khom khom cậtGái uốn lưng ong ngửa ngửa lòngBốn mảnh quần hồng bay phấp phớiHai hàng chân ngọc duỗi song songChơi xuân đã biết xuân chăng tá?Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không
Xem thêm
Chân dung đẹp từ nét vẽ của thơ
Nguồn: Thời báo Văn học Nghệ thuật, ngày 22/8/2024
Xem thêm
Nhịp điệu của sức bền
1. Trong nhiều tác phẩm và bài viết trao đổi, Mai Văn Phấn thường nhắc đến quan niệm viết (và sáng tạo nghệ thuật nói chung) như một hành động kiến tạo không gian khác – khác với người khác và khác với chính mình, xem đấy như kim chỉ nam cho quá trình tìm tòi của ông. Đấy là một ý tưởng dễ được chia sẻ (và dễ biến thành các tuyên ngôn to tát) nhưng rất khó để hiện thực hoá, bởi nó buộc người viết phải ý thức đầy đủ về bản chất sáng tạo, biết liên tục đổi mới, hoặc nói cách khác, biết phủ định và tự phủ định. Càng ngày, khi càng đi xa và đạt nhiều thành tựu hơn, Mai Văn Phấn càng thấy rõ áp lực của việc phải khác trong thực hành sáng tạo. Nhưng đồng thời, việc viết trong áp lực (chủ yếu xuất phát từ đòi hỏi của ông với chính bản thân) đã hình thành ở tác giả này một tinh thần và thái độ thực tế mà ta có thể nói đơn giản như sau: muốn viết khác thì phải đọc sâu, đọc rộng. Có lẽ vì vậy, sau nhiều tác phẩm thơ liên tiếp xuất bản trong và ngoài nước, Mai Văn Phấn chọn nhịp bước chậm lại và rẽ sang phê bình với tập Không gian khác (2016) và mới đây nhất, là Nhịp điệu vẽ lối đi (2024).
Xem thêm
Hoa thơm, trái ngọt của lòng yêu thương
Nguồn: Thời báo Văn học - Nghệ thuật số ra ngày 15/8/2024
Xem thêm
Đọc thơ Trần Mai Hường
Bài viết của nhà văn Tuấn Trần
Xem thêm