TIN TỨC

Lời đồng vọng giữa hai cõi tâm linh

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-07-22 23:10:21
mail facebook google pos stwis
1016 lượt xem

Nhân kỷ niệm ngày Thương binh- Liệt sĩ  27-7:

    Ngày thương binh-liệt sĩ lại đến, tôi nghĩ về biết bao ngời con đã ngã xuống cho Độc lập- Tự do của dân tộc mà nay vẫn còn nằm lại với cỏ cây rừng già nơi chiến trường xưa dãi dầu mưa nắng. Hình như có một nhịp cầu linh cảm khi tôi đọc những bài thơ về đề tài này. Và tôi muốn mượn bài thơ “Gió đất” của cố nhà thơ quân đội Lê Đình Cánh làm một nén tâm nhang tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống trong cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc.

 

Nhà văn Lê Xuân

 

                    GIÓ ĐẤT  

                    Lê Đình Cánh

         Người còn tên. Người mất tên…

  Giãi dầu mưa nắng nằm bên giãi dầu

        Gió sương cỏ dại phai màu

 Nấm mồ liệt sĩ như nhau nấm mồ…

        Vợ nghèo nước mắt chưa khô

         Nẻo đường rơm rạ tìm vô thăm chồng

         Quê nhà mấy bận bão, giông

  Vỡ đê nước ngập trắng đồng lúa xanh

        Mãi lo cơm đủ áo lành

 Còn đâu lúc rỗi để thành Vọng Phu.

       Khói hương như thể mây mù

 Trắng trời lớp lớp lau gù đội tang

       Xạc xào gió lá nguỵ trang

 Gió từ cõi đất gió sang cõi người !

             (Tạp chí VNQĐ số T6 - 1998)

Nhà thơ Lê Đình Cánh

Lời bình của Lê Xuân :

             LỜI ĐỒNG VỌNG GIỮA HAI CÕI TÂM LINH

       Người ta thường nói nhiều tới gió núi, gió biển, gió mùa, gió heo may, gió Lào, gió chướng… còn Lê Đình Cánh, nhà thơ đã một thời khoác áo lính đã có lời đồng vọng  gửi qua Gió đất  làm bức thông điệp giữa hai cõi tâm linh.

     Nhân vật trữ tình của bài thơ là người vợ quê nghèo đang lặng đi như một Vọng Phu trước nấm mồ của chồng giữa muôn vàn nấm mồ trong nghĩa trang liệt sĩ. Câu mở đầu như một tiếng nấc nghẹn:

               Người còn tên. Người mất tên…

Dấu chấm giữa câu lục, chia câu thơ ra làm hai vế như một dấu lặng đen trong bản nhạc làm người đọc lịm đi, cùng với dấu chấm lửng cuối câu, tạo cảm giác của một tiếng thở dài. Chị đang lẩm nhẩm và thầm khấn với cõi hư vô, và chị đã gặp lại người chồng qua  thần giao cách cảm  của sự đồng điệu giữa hai cõi âm dương để giãi bày tâm sự như ngày nào bên nhau.

       Nhưng sự thật phũ phàng, anh đã nằm đó giữa bao đồng đội chưa biết tên:

    Giãi dầu mưa nắng nằm bên giãi dầu?

           Gió sương cỏ dại phai màu

    Nấm mồ liệt sĩ như nhau nấm mồ.

    Lối kết cấu thủ vĩ tương đồng (đầu, cuối giống nhau) của câu hai Giãi dầu mưa nắng nằm bên giãi dầu? Nấm mồ liệt sĩ như nhau nấm mồ vẽ nên một không gian đa chiều. Người vợ khóc chồng và cũng khóc cho bao liệt sĩ khác. Chị quay mặt về bốn phương tám hướng ở đâu cũng chỉ thấy giãi dầu, ở đâu cũng chỉ thấy những nấm mồ như nhau.

     Người chồng như cảm nhận và thấu hiểu nỗi lòng người vợ:

          Vợ nghèo nước mắt chưa khô

    Nẻo đường rơm rạ tìm vô thăm chồng.

Vợ anh nghèo đấy nhưng không nghèo nước mắt. Không biết bao giờ nước mắt chị mới khô? Chị cũng như bao người vợ khác ở những miền quê nghèo Bắc Bộ Nẻo đường rơm rạ tìm vô thăm chồng ở một nghĩa trang nào đó ở miền Trung hay miền Nam… nơi chiến trường ác liệt trong kháng chiến chống Mỹ. Ý thơ đối nhau rất kín, phải giải mã hai lần mới bắt được tín hiệu: người vợ tuy nghèo về vật chất nhưng rất giàu về tình nghĩa. Nước mắt khóc chồng ngày đêm đẫm ướt.      Nhà thơ đã hoá thân vào vai người chồng và người vợ nên mới viết được câu thơ mang ý tình ý nặng sâu như thế! Anh hiện về như đang lắng nghe lời vợ kể:

           Quê nhà mấy bận bão giông

   Vỡ đê nước ngập trắng đồng lúa xanh

        Mãi lo cơm đủ áo lành

    Còn đâu lúc rỗi để thành Vọng Phu. 

Chị kể chuyện quê nhà nào là bão giông, nào chuyện vỡ đê nước ngập, nào chuyện lo toan cơm đủ áo lành… Và điều quý hơn ở chị, khác với những nàng Vọng Phu xưa là không hoá đá. Công việc và nỗi đau cứ đan chéo vào nhau, chị vẫn lặng lẽ khóc chồng biết bao đêm không ngủ? Chị như đang kể và pha chút hờn rỗi chân thành với anh:  Còn đâu lúc rỗi để thành Vọng Phu. Chị vẫn ba đảm đang, vẫn lạc quan đợi ngày anh về. Nhưng mãi mãi anh ở lại với rừng già Trường Sơn hay sông nước Cửu Long ?

        Cuộc trò chuyện giữa hai cõi âm dương vụt tắt và ta chỉ thấy khắp trời khói hương nghi ngút, trắng một trời màu tang của ngàn lau xào xạc, những lớp lau rạp xuống theo chiều gió như muôn người đang cúi xuống tưởng niệm các liệt sĩ nơi nghĩa trang:

                Khói hương như thể mây mù

        Trắng trời lớp lớp lau gù đội đang.

    Cách đảo ngữ kết hợp với nhân hoá làm câu thơ mở ra những tầng liên tưởng mới. Giấc mơ hồi tưởng niệm khép lại, cánh cửa của hai cõi tâm linh đã đóng. Lời cầu nguyện của chị như đã thấu trời đất và như có một luồng gió giao cảm đã ứng nghiệm:

      Gió từ cõi đất gió sang cõi người.

Cõi đất cõi người. Hai cõi âm dương cách biệt mà vẫn gần gũi, vẫn đồng vọng.  

     Tục ngữ có câu: Người là hoa của đất  và theo Thánh kinh thì: Thân cát bụi lại trở về cát bụi. Đất mẹ bao dung luôn dang rộng vòng tay ôm ấp chở che cho người sống và cả những người đã khuất. Nhà thơ Trương Hữu Thiêm trong bài: Thái bình đã có từ lâu cũng nói về một người vợ tới viếng chồng tại nghĩa trang Trường Sơn, và chị đã ao ước dù chỉ gặp chồng mấy giây trong cõi tâm linh:

           Thấy đây mà chẳng gặp đây

    Ước gì được thấy mấy giây vợ chồng.

      Nhà thơ Lê Đình Cánh đã hiện thực hoá niềm ước ao của người vợ, đã nhờ Gió đất mang thông điệp tới cõi tâm linh. Bài thơ là lời tưởng niệm, là nỗi đau lắng lại, dồn nén trong tim người vợ liệt sĩ, là lời cầu nguyện thành kính dâng lên hương hồn các liệt sĩ đã vì nước quên thân, vì dân phục vụ (Bác Hồ). Bài thơ như một áng văn tế  trữ tình mà không lụy. Ý thơ sâu kín ẩn trong những câu lục bát tự nhiên, không cần đến sự cách tân cầu kỳ, chứng tỏ một tài hoa về thơ lục bát đã định hình. Lê Đình Cánh đã tạo được một cuộc trò chuyện thật cảm động của người vợ liệt sĩ với  người chồng đã khuất. Đó là lời đồng vọng giữa hai cõi tâm linh./.

                                                  LÊ XUÂN

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Bùi Việt Mỹ - Nhà thơ của bức họa ngoại thành thủ đô
Tôi nhớ đầu năm 1991, Bùi Việt Mỹ về làm Chánh văn phòng Hội Văn Nghệ Hà Nội. Lúc ấy nhà thơ Vũ Quần Phương làm Chủ tịch Hội. Sau đó, nhà thơ Vũ Quần Phương chuyển sang làm Tổng Biên tập báo Người Hà Nội, nhà văn Tô Hoài trở về làm Chủ tịch Hội, cho đến năm 1996, khi nhà thơ Bằng Việt đang công tác ở Ủy ban Thành phố được bầu làm Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội. Văn nghệ Hà Nội có 9 hội chuyên ngành tới hiện giờ.
Xem thêm
Đi tìm đôi mắt theo suốt đời người
Nguồn: Tạp chí Văn nghệ TPHCM
Xem thêm
Nguyên Hùng với nghệ thuật lắp ghép, sắp đặt - hai trong một
Nguồn: Văn nghệ Công an số thứ Năm, ngày 17/10/2024
Xem thêm
Một cây bút nhạy bén, giàu tình
Nguồn: Thời báo Văn học Nghệ thuật
Xem thêm
Nhà thơ Nguyên Hùng với “Ký họa thơ” và “Trăm khúc hát một chữ duyên”
Phát biểu chia sẻ tại buổi ra mắt 2 tập sách Trăm khúc hát một chữ duyên và Ký họa thơ của Nguyên Hùng
Xem thêm
“Nắng dậy thì” Rọi lòng sâu thẳm
Nắng dậy thì là tập thơ thứ 4 trên hành trình sáng tạo của nhà thơ Nguyễn Ngọc Hạnh. Ở tập thơ này, Nguyễn Ngọc Hạnh thể hiện nỗi buồn thẳm sâu của một tâm hồn nhạy cảm, tha thiết yêu thương và đầy niềm trắc ẩn, như nhà thơ tâm sự: “Cho đến tập thơ này, nỗi buồn vẫn là nguồn mạch thơ tôi” (Thay lời mở). Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh biểu hiện nỗi buồn gắn với một vùng quê cụ thể, với tình thân, bạn bè, người yêu, với dòng sông, bến nước, con đò, chợ quê hay cánh đồng làng. Những kỷ niệm thân thương và đau thương cứ “cằn cựa” trong tâm hồn người thơ để có những vần thơ độc đáo, đồng vọng trong lòng người đọc.
Xem thêm
Những vần thơ sáng nghĩa kim bằng
Nhà thơ Trinh Bửu Hoài là người bạn văn tốt của tôi đã quen thân nhau từ năm 1970 khi anh hoạt động văn nghệ ở An Giang. Cách nay hơn 10 năm, sau khi nhà văn quá cố Nguyễn Khai Phong đã vài lần giục tôi làm đơn xin gia nhập Hội Nhà văn Việt Nam cùng với tán thành của nhà thơ đánh kính Trịnh Bửu Hoài. Dù biết ở Cần Thơ mình là người mồ côi, kém tài lại vụng về trong giao tiếp nên ít có bằng hữu tình thâm, năm 1918, tôi vẫn đánh bạo nghe lời những người bạn tốt xin vô Hội Nhà văn Việt Nam với sự giới thiệu nhiệt tình cùng lúc của các nhà văn : Nguyễn Khai Phong, Trịnh Bửu Hoài, Lê Đình Bích, Lương Minh Hinh, Nguyễn Trọng Tín. Mặc dù biết rằng với mình, con đường về La Mã vẫn còn diệu vợi ! Hôm nay, nhà thơ Trịnh Bửu Hoài đã về với cõi Ly Tao bất diệt, tôi viết bài này để ân tình bày tỏ lòng nhớ ơn anh, một thi sĩ tài hoa nhân cách rất tốt với bạn bè.
Xem thêm
Nội trú trong ta một nỗi buồn
Bài viết của nhà thơ Đặng Huy Giang về “Năm ngón chưa đặt tên” của Đinh Nho Tuấn, NXB Hội Nhà văn 2024
Xem thêm
Thấy gì từ “Ký họa thơ” của Nguyên Hùng?
Bài viết của Lê Xuân Lâm, cộng tác viên tích cực của Văn chương TPHCM.
Xem thêm
Mấy điều bất thường xung quanh bài thơ “Màu thời gian” của Đoàn Phú Tứ
Không phải vì tác giả là người viết kịch, có duy nhất một bài thơ được chọn vào sách “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh và Hoài Chân, mà bài thơ này có tính bất thường. Trong sách của Hoài Thanh và Hoài Chân có những tác giả sau chỉ có một bài : Thúc Tề, Đoàn Phú Tứ, Vân Đài, Phan Khắc Khoan, Thâm Tâm, Phan Thanh Phước, Hằng Phương, Mộng Huyền. Có hai tác giả được nói đến mà không trích bài nào trọn vẹn là T.T.KH, và Trần Huyền Trân. Vậy thì bài thơ của Đoàn Phú Tứ bất thường ở chỗ nào?
Xem thêm
Tiểu thuyết “Trưng Nữ Vương” – Bản tráng ca về những Nữ Vương đầu tiên của đất Việt
Bà Trưng quê ở Châu Phong,Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên.Chị em nặng một lời nguyền,Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân…(Đại Nam quốc sử diễn ca)
Xem thêm
Về nương bậu cửa kiếm tìm an yên
Bài viết cho cuộc ra mắt tập thơ “Lục bát chân mây” của Võ Miên Trường
Xem thêm
Nguyễn Minh Tâm với ‘Ấm lạnh pháp đình’
Bài viết của nhà văn Nguyễn Văn Hòa
Xem thêm