TIN TỨC

Lời đồng vọng giữa hai cõi tâm linh

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-07-22 22:32:42
mail facebook google pos stwis
1234 lượt xem

Nhân kỷ niệm ngày Thương binh- Liệt sĩ  27-7:

    Ngày thương binh-liệt sĩ lại đến, tôi nghĩ về biết bao ngời con đã ngã xuống cho Độc lập- Tự do của dân tộc mà nay vẫn còn nằm lại với cỏ cây rừng già nơi chiến trường xưa dãi dầu mưa nắng. Hình như có một nhịp cầu linh cảm khi tôi đọc những bài thơ về đề tài này. Và tôi muốn mượn bài thơ “Gió đất” của cố nhà thơ quân đội Lê Đình Cánh làm một nén tâm nhang tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống trong cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc.

 

Nhà văn Lê Xuân

 

                    GIÓ ĐẤT  

                    Lê Đình Cánh

         Người còn tên. Người mất tên…

  Giãi dầu mưa nắng nằm bên giãi dầu

        Gió sương cỏ dại phai màu

 Nấm mồ liệt sĩ như nhau nấm mồ…

        Vợ nghèo nước mắt chưa khô

         Nẻo đường rơm rạ tìm vô thăm chồng

         Quê nhà mấy bận bão, giông

  Vỡ đê nước ngập trắng đồng lúa xanh

        Mãi lo cơm đủ áo lành

 Còn đâu lúc rỗi để thành Vọng Phu.

       Khói hương như thể mây mù

 Trắng trời lớp lớp lau gù đội tang

       Xạc xào gió lá nguỵ trang

 Gió từ cõi đất gió sang cõi người !

             (Tạp chí VNQĐ số T6 - 1998)

Nhà thơ Lê Đình Cánh

Lời bình của Lê Xuân :

             LỜI ĐỒNG VỌNG GIỮA HAI CÕI TÂM LINH

       Người ta thường nói nhiều tới gió núi, gió biển, gió mùa, gió heo may, gió Lào, gió chướng… còn Lê Đình Cánh, nhà thơ đã một thời khoác áo lính đã có lời đồng vọng  gửi qua Gió đất  làm bức thông điệp giữa hai cõi tâm linh.

     Nhân vật trữ tình của bài thơ là người vợ quê nghèo đang lặng đi như một Vọng Phu trước nấm mồ của chồng giữa muôn vàn nấm mồ trong nghĩa trang liệt sĩ. Câu mở đầu như một tiếng nấc nghẹn:

               Người còn tên. Người mất tên…

Dấu chấm giữa câu lục, chia câu thơ ra làm hai vế như một dấu lặng đen trong bản nhạc làm người đọc lịm đi, cùng với dấu chấm lửng cuối câu, tạo cảm giác của một tiếng thở dài. Chị đang lẩm nhẩm và thầm khấn với cõi hư vô, và chị đã gặp lại người chồng qua  thần giao cách cảm  của sự đồng điệu giữa hai cõi âm dương để giãi bày tâm sự như ngày nào bên nhau.

       Nhưng sự thật phũ phàng, anh đã nằm đó giữa bao đồng đội chưa biết tên:

    Giãi dầu mưa nắng nằm bên giãi dầu?

           Gió sương cỏ dại phai màu

    Nấm mồ liệt sĩ như nhau nấm mồ.

    Lối kết cấu thủ vĩ tương đồng (đầu, cuối giống nhau) của câu hai Giãi dầu mưa nắng nằm bên giãi dầu? Nấm mồ liệt sĩ như nhau nấm mồ vẽ nên một không gian đa chiều. Người vợ khóc chồng và cũng khóc cho bao liệt sĩ khác. Chị quay mặt về bốn phương tám hướng ở đâu cũng chỉ thấy giãi dầu, ở đâu cũng chỉ thấy những nấm mồ như nhau.

     Người chồng như cảm nhận và thấu hiểu nỗi lòng người vợ:

          Vợ nghèo nước mắt chưa khô

    Nẻo đường rơm rạ tìm vô thăm chồng.

Vợ anh nghèo đấy nhưng không nghèo nước mắt. Không biết bao giờ nước mắt chị mới khô? Chị cũng như bao người vợ khác ở những miền quê nghèo Bắc Bộ Nẻo đường rơm rạ tìm vô thăm chồng ở một nghĩa trang nào đó ở miền Trung hay miền Nam… nơi chiến trường ác liệt trong kháng chiến chống Mỹ. Ý thơ đối nhau rất kín, phải giải mã hai lần mới bắt được tín hiệu: người vợ tuy nghèo về vật chất nhưng rất giàu về tình nghĩa. Nước mắt khóc chồng ngày đêm đẫm ướt.      Nhà thơ đã hoá thân vào vai người chồng và người vợ nên mới viết được câu thơ mang ý tình ý nặng sâu như thế! Anh hiện về như đang lắng nghe lời vợ kể:

           Quê nhà mấy bận bão giông

   Vỡ đê nước ngập trắng đồng lúa xanh

        Mãi lo cơm đủ áo lành

    Còn đâu lúc rỗi để thành Vọng Phu. 

Chị kể chuyện quê nhà nào là bão giông, nào chuyện vỡ đê nước ngập, nào chuyện lo toan cơm đủ áo lành… Và điều quý hơn ở chị, khác với những nàng Vọng Phu xưa là không hoá đá. Công việc và nỗi đau cứ đan chéo vào nhau, chị vẫn lặng lẽ khóc chồng biết bao đêm không ngủ? Chị như đang kể và pha chút hờn rỗi chân thành với anh:  Còn đâu lúc rỗi để thành Vọng Phu. Chị vẫn ba đảm đang, vẫn lạc quan đợi ngày anh về. Nhưng mãi mãi anh ở lại với rừng già Trường Sơn hay sông nước Cửu Long ?

        Cuộc trò chuyện giữa hai cõi âm dương vụt tắt và ta chỉ thấy khắp trời khói hương nghi ngút, trắng một trời màu tang của ngàn lau xào xạc, những lớp lau rạp xuống theo chiều gió như muôn người đang cúi xuống tưởng niệm các liệt sĩ nơi nghĩa trang:

                Khói hương như thể mây mù

        Trắng trời lớp lớp lau gù đội đang.

    Cách đảo ngữ kết hợp với nhân hoá làm câu thơ mở ra những tầng liên tưởng mới. Giấc mơ hồi tưởng niệm khép lại, cánh cửa của hai cõi tâm linh đã đóng. Lời cầu nguyện của chị như đã thấu trời đất và như có một luồng gió giao cảm đã ứng nghiệm:

      Gió từ cõi đất gió sang cõi người.

Cõi đất cõi người. Hai cõi âm dương cách biệt mà vẫn gần gũi, vẫn đồng vọng.  

     Tục ngữ có câu: Người là hoa của đất  và theo Thánh kinh thì: Thân cát bụi lại trở về cát bụi. Đất mẹ bao dung luôn dang rộng vòng tay ôm ấp chở che cho người sống và cả những người đã khuất. Nhà thơ Trương Hữu Thiêm trong bài: Thái bình đã có từ lâu cũng nói về một người vợ tới viếng chồng tại nghĩa trang Trường Sơn, và chị đã ao ước dù chỉ gặp chồng mấy giây trong cõi tâm linh:

           Thấy đây mà chẳng gặp đây

    Ước gì được thấy mấy giây vợ chồng.

      Nhà thơ Lê Đình Cánh đã hiện thực hoá niềm ước ao của người vợ, đã nhờ Gió đất mang thông điệp tới cõi tâm linh. Bài thơ là lời tưởng niệm, là nỗi đau lắng lại, dồn nén trong tim người vợ liệt sĩ, là lời cầu nguyện thành kính dâng lên hương hồn các liệt sĩ đã vì nước quên thân, vì dân phục vụ (Bác Hồ). Bài thơ như một áng văn tế  trữ tình mà không lụy. Ý thơ sâu kín ẩn trong những câu lục bát tự nhiên, không cần đến sự cách tân cầu kỳ, chứng tỏ một tài hoa về thơ lục bát đã định hình. Lê Đình Cánh đã tạo được một cuộc trò chuyện thật cảm động của người vợ liệt sĩ với  người chồng đã khuất. Đó là lời đồng vọng giữa hai cõi tâm linh./.

                                                  LÊ XUÂN

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Mai Quỳnh Nam và một phía
Bài viết của nhà thơ Đặng Huy Giang về thơ Mai Quỳnh Nam
Xem thêm
Một đêm trăng không dễ có ở trên đời!
Bài viết của nhà văn Tuấn Trần.
Xem thêm
Một vọng âm quá khứ hào hùng nhưng lắm đau thương
Đọc “Hòa âm đêm”, Nxb Hội Nhà văn, 2024 của Trương Tuyết Mai
Xem thêm
Khám phá vương triều Tiền Lý qua tiểu thuyết lịch sử
Thượng tá, nhà văn Phùng Văn Khai là người khá đa di năng. Từ lúc bước vào văn nghiệp, anh viết kí, truyện ngắn, làm thơ, cày báo… đều đặn, thuộc dạng “nhạc nào cũng nhảy được” và nhảy khá hay.
Xem thêm
Triệu hạt tâm hồn rót đầy biển tình yêu
Võ Thị Như Mai đọc PHẢI CHI MÂY TRẮNG KHÔNG NGANG NGÕ, Nguyễn Đức Quận, NXB Hội nhà văn, 2024.
Xem thêm
Tiểu luận Võ Quốc Việt: Vài cảm nhận về Cuộc thi Thơ 1-2-3
Cuộc thi Thơ 1-2-3 (The 1-2-3 Poetry Style/ Phannist Poetry) năm 2024 – 2025 đã nhận được sự hưởng ứng của đông đảo các tác giả trong lẫn ngoài nước và đã công bố kết quả. Nhà lý luận phê bình, nhà thơ Võ Quốc Việt – Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam thay mặt Ban Chung khảo đã có bài tiểu luận công phu, sâu sắc mang tính tổng kết về cuộc thi. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Xem thêm
Đọc tập thơ Dọc đường máu của Vương Cường
Nguyên Hùng giới thiệu tập thơ mới của Tiến sĩ nhà thơ Vương Cường
Xem thêm
Vũ điệu tái sinh trong từng cơn đau
Bái viết về tập thơ “Nghiêng về phía nỗi đau” tập thơ của Trịnh Bích Ngân (NXB Hội Nhà văn, quý II, 2024)
Xem thêm
“Ai cũng có ngày xưa” của nhà thơ Trần Duy Hiển
Gió vẫn thổi suốt chiều dài trận mạc/ Người nhẹ nhàng nằm lại lúc vượt sông
Xem thêm
“Theo chồng về quê” của Mai Khoa – một bài thơ hay
Bởi yêu chồng từ lúc mới bén duyên/ Như tình biển yêu thuyền thương nhớ
Xem thêm
Trò Chuyện Với Thiên Thần – Những Tai Họa Thế Giới & Giấc mơ Việt Nam
Triết gia Hy Lạp Platon đã nói: “Thước đo của một con người là xem cách anh ta làm gì với quyền lực”. Thế nhưng, có rất nhiều người có quyền, vì lòng tham và ích kỷ cá nhân nên đã hủy hoại nhân cách và đất nước của họ (TCVTT/ Trương Văn Dân)
Xem thêm
Thi ca đương đại nhìn từ hệ hình nghệ thuật và chất suy tưởng của thơ
Sáng ngày 12.02.2025 tại Ninh Bình, Hội Nhà văn Việt Nam đã tổ chức tọa đàm “Trách nhiệm và khát vọng của nhà thơ”. Dưới đây là tham luận của nhà thơ Nguyễn Việt Chiến.
Xem thêm
Tôi đọc bài thơ Đừng sợ một mình của thi sĩ Trần Mạnh Hảo
Trần Mạnh Hảo và thơ ông đã sớm là “tín ngưỡng” đẹp nhất trong lòng của những người yêu thơ, quý chữ nghĩa chân chính. Từ thời còn trên giảng đường đại học, tôi đã từng nghe thầy tôi đọc những câu thơ trong trường ca Đất nước hình tia chớp. Từ đó, tôi bắt đầu săn sóc sự học, sự đọc về thơ ông.
Xem thêm
Hoàng đế Quang Trung, danh tướng bách chiến bách thắng
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, hiếm có một anh hùng nào như Hoàng đế Quang Trung, xuất thân áo vải, cả đời chinh chiến, danh vang bốn biển, đánh giặc lập nước, tôn vinh văn hiến, khuyến học khuyến tài, những bậc quốc sĩ danh thần cảm phục uy danh mà theo về giúp rập. Đặc biệt, trong hai lần đại phá quân Xiêm La và quân Thanh, ông đã bằng vào tài năng quân sự thiên bẩm của mình, đánh cho lũ giặc phía Nam, phía Bắc phải kinh hồn táng đởm. Ông từng hào sảng tuyên ngôn trong Chiếu xuất quân khích lệ tướng sĩ khi hành binh ra Bắc Hà đánh tan 29 vạn quân Thanh
Xem thêm
Mùa Xuân trong thơ Dương Xuân Linh
Bài viết của nhà thơ Phùng Hiệu
Xem thêm
Xuân về, đọc thơ Trương Nam Hương
Tuấn Trần viết về tập thơ “Thời nắng xanh” của Trương Nam Hương
Xem thêm
Tình yêu bển đảo trong thơ Lê Tiến Lợi
Nhà thơ Lê Tiến Mợi là một trong những người gắn bó lâu năm với nghiệp văn chương. Anh đã có số lượng tác phẩm khá lớn, trong đó một số sáng tác của anh đã chiếm được cảm tình của người đọc. Sau đây xin trân trọng gửi tới Ban Biên tập Văn chương thành phố Hồ Chí Minh bài viết về tình yêu biển đảo trong thơ anh. Xin chân thành cảm ơn Ban Biên tập khi được cộng tác với Văn chương thành phố Hồ Chí Minh.
Xem thêm
Mảnh trăng tinh tấn hàng cau trổ buồng
Cảm nhận về tập thơ SỰ MẤT NGỦ CỦA LỬA của Nguyễn Quang Thiều
Xem thêm
Kẻ cày mây thu và gieo trồng muôn dặm sao
Bài viết của Tuần Trần về tập thơ “Những đám mây mùa thu” của Trần Quang Khánh
Xem thêm