TIN TỨC

Mây trắng trong vườn chè ông nội | Tản văn của Trang Thanh

Người đăng : vctphcm
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
377 lượt xem

Đó là tên một bài thơ tôi viết vào quãng năm 2015, khi chăm sóc chồng tôi mang trọng bệnh nằm trong bệnh viện. Những ngày tháng ấy, nghĩ về căn bệnh vô phương cứu chữa đang chụp bóng đen tuyệt vọng lên kiếp người, tôi hay nhớ những gương mặt người thân đã khuất bóng...

Minh họa: Đào Tuấn

Tôi nhớ ông nội, người mà tôi chỉ được sống cùng khoảng dăm, sáu năm, trong quãng đời thơ bé nhất của mình. Ông nội gầy, dong dỏng cao, nho nhã, tóc bạc trắng, đôi mắt tinh anh. Nhà có một vườn chè và tôi mặc định đó là vườn chè ông nội, vì cho đến bây giờ, hình ảnh đẹp nhất khi tôi nhớ về ông là những lần theo ông đi hái chè. Nắng chớm hè chan hòa trên sân gạch, tỏa rạng khắp lúa trên đồng, nhưng trong vườn chè, bởi mấy cây mít cổ thụ trùm bóng, nên nắng dường chỉ mới lốm đốm xiên qua những kẽ lá thành những quầng sáng mỏng mảnh, tỏa rạng trên lùm cây.

Vườn đặt sẵn một chiếc thang ghế hai chân, để mẹ trèo hái chè ở những cành cao. Ông nội đã già, không còn trèo được, ông sẽ hái lá chè ở những cành thấp. Tôi cứ líu lo bên ông, cầm rổ hứng chè, nghe giọng ông ấm áp khen cháu ông ngoan lắm. Vào những hôm ông không được khỏe, hoặc ông bận khách, mẹ sẽ hái chè cho ông. Cách hái chè của ông nội và mẹ giống nhau. Cứ chọn những lá mà mẹ gọi là từ bánh tẻ đến già săn, màu xanh sẫm. Mẹ dùng ngón cái và ngón trỏ, nhẹ nhàng bứt lá ra khỏi cành nghe tách khẽ một tiếng, rồi nắm lá thật nhẹ trong lòng bàn tay. Hết lá này đến lá khác chồng lớp lên nhau theo một cách nào đó thật tự nhiên trong lòng tay là được một nắm chè. Khi đó mẹ thả nhẹ vào chiếc rổ đặt trên mặt thang. Tôi đòi mẹ cho cầm rổ hứng lá chè, nhưng khi mẹ hái được nhiều thì rổ nặng, tôi cũng mỏi tay, đành buông rổ xuống vườn. Bà nội tôi lúc ấy không ở nhà. Bà đi chăm các em con chú thím tôi ở tỉnh xa, vào dịp Tết đến bà mới thường về, ăn Tết xong ít ngày thì lại đi.

Ông nội tôi vốn là công nhân nhà máy trấu, xưa mẹ tôi hay gọi thế, tôi nghĩ đó là nhà máy xay xát của Pháp, ngày Pháp chiếm đóng thành phố Nam Định. Khi ta lấy lại được thành phố về tay chính quyền mới, ông nội trở thành công nhân xưởng nhuộm của Nhà máy Dệt Nam Định. Hẳn là khi đó tôi chưa ra đời rồi. Nghe mẹ thường kể, trước mặt làng về phía Tây là cánh đồng Bông rộng lớn, mẹ tôi mỗi 5 giờ sáng lại chèo thuyền đưa ông qua đồng Bông để lên đường cái, là đường 38A bây giờ. Từ đây, ông có khi đi bộ, có khi đi xe ngựa vào nhà máy trong thành phố để làm việc. Chiều tối mẹ lại chèo thuyền nan bơi ngang cánh đồng Bông, chạm đường cái là gặp ông đợi sẵn, hoặc mẹ chờ một lúc thì ông về tới.

Khi tôi có mặt trên đời, ông đã nghỉ hưu lâu rồi, có lẽ ông chỉ còn làm được việc lớn nhất mỗi ngày là hái chè, hãm chè, rồi đeo kính cầm lên một quyển sách mà ông gọi là Tam quốc, thư thả vừa uống chè vừa đọc. À, ông còn có một cái thú nữa là đánh tổ tôm, với mấy cụ ông hay chống gậy ba toong đến nhà tôi, tụ tập ngồi trên sập gụ. Tôi chỉ nhớ một ông tên là Kim, ở làng bên, người nho nhã. Mấy lần ông nội và các bạn tổ tôm đêm khuya, mẹ tôi nấu cháo gà mời các ông ăn cho ấm bụng.

Mỗi tầm gần trưa hàng ngày, ngấn nắng lấn dần từ trên bậu cửa, xuống thềm hè, rồi qua hè, xuống sân. Cả một cái sân gạch trong tầm mắt đứa trẻ lên ba lên năm ngày ấy là mênh mông ngời ngợi nắng. Bố dạy tôi cách nhìn ngấn nắng để đoán giờ. Ngấn nắng bám trên bậu cửa là tầm bảy, tám giờ sáng. Ngấn nắng bò xuống thềm hè thì qua tám đến chín giờ. Khi thềm hè không còn chút nắng nào nữa, ngấn nắng đã trườn xuống sân gạch rồi, là qua chín giờ. Rồi từ đó chỉ còn chan hòa những nắng là nắng, khắp sân gạch đến vườn cây, trên mái ngói, từ vườn nhà chan chan vời vợi trên đồng ruộng.

Khi ngấn nắng trườn xuống sân gạch là lúc mẹ tôi sẽ múc nước giếng thơi để rửa chè. Rổ chè sạch mẹ đặt lên mặt bể cho ráo nước, trong khi đó ông nội bỏ bã chè hôm qua từ ấm tích ra, phủ lên mấy gốc cây mai, hoa hồng ở vườn trước. Ông múc nước bể súc sạch ấm tích, rồi vặn nhẹ từng nắm chè bỏ vào. Vặn chè là để lá chè dập nhẹ, sẽ xanh hơn, đượm nước hơn, ông nói vậy. Chè vặn đủ một ấm rồi, ông xách ấm về đặt trên thềm hè. Mẹ tôi kịp xách ấm nước vừa sôi từ dưới bếp lên. Ấm nhôm đun bếp rơm bếp củi nên đen sì muội tro và nóng quai lắm. Ông lót tay, rót nhẹ một ít nước từ chiếc ấm vừa sôi vào tích để tráng chè.

Mùi chè tươi ngan ngát thơm lên. Lúc này, ông nội khom khom trên thềm hè râm mát, rót dòng nước tráng chè xuống sân gạch đang chan hòa nắng sớm. Muôn vàn giọt nước li ti bắn ra xung quanh quầng nước đang chầm chậm bò ngoằn ngoèo trên sân như chú rắn, in xuống nền gạch một vầng hoa rắc. Tôi thích thú khoảnh khắc ông tráng chè làm thành một vầng hoa rắc lấm tấm trên mặt sân lấp lánh như thế, mỗi ngày. Ông nội thân hình mảnh khảnh, tóc trắng như mây, đẹp như già tiên trong những câu chuyện cổ. Theo mỗi chuyển động lúc rót nước tráng chè buổi sáng dưới ánh trời rực rỡ, tôi thấy bóng ông rung rinh in xuống thềm sân nắng, hiền hậu tựa một vầng mây.

Còn hình ảnh yêu thương nhất, cảm động nhất mà tôi nhớ về ông nội, chính là vào cái buổi chiều cuối cùng ông còn trên dương thế. Ông nằm nhẹ nhõm trên chiếc giường rẻ quạt. Chiếc giường gỗ mà có lẽ trong nhà tôi, bốn thế hệ đã lần lượt nối tiếp nhau gửi giấc ngủ của đời mình mỗi ngày trên đó, đến bây giờ thì đã gãy hỏng, không còn. Mẹ tôi đưa lại bên ông một quả chuối tiêu đốm trứng quốc, tha thiết dỗ ông ăn. Ông nói nhỏ, bẻ đôi quả chuối cho ông. Rồi vẫy tay ra hiệu tôi lại gần, ông đưa vào tay tôi một nửa quả chuối, khẽ bảo, con ăn đi. Tôi và ông nghẹn ngào ăn hết mỗi nửa quả chuối. Thoáng có bóng ông Kim, người bạn tổ tôm của nội chống ba toong đến, dợm tiếng từ đầu sân. Cha tôi mời ông Kim vào nhà. Ông Kim đặt tay lên trán ông tôi, cầm tay ông tôi lắc lắc và bảo, tôi đặt tên cúng cơm cho ông nhé, nội tôi khẽ chớp mắt, gật đầu. Ông Kim chừng nghĩ ngợi một lát rồi nói nhỏ tên cúng cơm cho nội và cha mẹ tôi đủ nghe. Nội lại khe khẽ gật đầu, vẻ mặt bằng lòng, và chỉ vài phút sau, đôi mắt hiền hậu của nội tôi từ từ khép lại…

Khi đó là giữa tháng sáu lịch Âm, nắng oi không thể nào tả xiết trong ngày chúng tôi đưa tiễn nội ra đồng. Rồi ngày mai, là trận bão khủng khiếp ập đến lúc nửa đêm, giật khỏi cây mít cổ thụ bên vườn chè của nội tôi mất mấy chục quả mít xanh non. Chị em tôi lội bì bõm trong vườn, bưng mít xanh về xếp dọc thềm mưa ướt. Mắt đứa nào đứa nấy mọng đỏ vì khóc thương ông, lại xót xa nghe mẹ đi đắp mộ theo phong tục ba ngày về, nói ngôi mộ của ông bị mưa bão làm ngập lút. Cả chục gốc chè trong vườn được mẹ vấn vôi tang. Cây mít cổ thụ cũng để tang ông nội bằng quầng vôi trắng xóa vấn quanh tấm thân già nua có lẽ đã gần trăm năm tuổi…

Vườn chè cổ thụ của ông nội khi ấy đương đơm một mùa hoa trắng ngần, thơm ngát. Mới buổi chiều hôm kia trước khi ông đi, mẹ dắt tôi sang vườn. Hôm ấy, mẹ hái chè thật nhiều, thật vội. Có lẽ mẹ đã chẳng còn tâm trạng nào mà kén chọn lá già săn hay bánh tẻ gì nữa. Bình thường, nếu ông khỏe, mùa này mẹ sẽ còn hái nụ chè để phơi khô, cất đi dùng thay lá chè vào mùa đông. Còn bây giờ, cứ với lấy cành nào gần mình nhất là mẹ hấp tấp hái, có khi ngắt cả ngọn non, và sùi sụt khóc. Mẹ bảo, ông con có lẽ lần này không qua khỏi rồi! Trong mắt tôi nhạt nhòa mây trắng. Tôi vốn luôn mường tượng mái tóc của ông nội mỗi lần tôi đứng lui cui nhỏ thó dưới vườn, ngước nhìn lên hình ảnh ông thoáng như chung chiêng, rung động khi với tay hái lá trên cành cao. Tóc ông tôi trắng tựa mây. Hoa chè từng đốm cũng trắng ngời dưới nắng, rung rinh trên mái tóc ông bềnh bồng, xao xuyến. Màu hoa trắng muốt, và mái tóc nội tôi, cả nắng ngời và mây trắng nhẹ bay trên vòm trời cao xanh tít tắp, tôi đều gọi, đó là mây trắng trong vườn chè ông nội.

Rất nhiều năm sau ngày vắng bóng ông, tôi luôn nhớ về màu mây trắng rung rinh trên những chòm xanh lá thắm những ngày tháng ấy. Tôi viết bài thơ “Mây trắng trong vườn chè ông nội” khi tôi chăm sóc chồng tôi trong bệnh viện và hay nghĩ ngợi về con người, về sự sống, về cái chết, về những năm tháng đời người. Thật tiếc, giữa thật nhiều khủng hoảng, hoang mang, đau đớn của những ngày tháng đó, tôi chưa kịp thuộc bài thơ thì chiếc máy cỏn con ghi bài thơ đó bị hỏng, không thể nào mở lại được. Tôi thường thuộc những bài thơ của mình sau nhiều lần đọc đi sửa lại, nhưng “Mây trắng trong vườn chè ông nội” là bài thơ chưa kịp đọc sửa, nên đã nhiều lần cố nhớ, mà tôi vẫn chỉ nhớ được câu kết: “Con ước làm mây trong vườn chè hoa nắng/ Ước nội làm mây trắng bay lên”.

Có lẽ lúc này, ông nội tôi và những người thân yêu trong gia đình đã khuất bóng, đang làm mây trắng phiêu du trên khắp các phương trời. Phương trời in bóng dáng những cuộc đời đã xa xăm, còn gửi linh hồn mình ở lại. Phương trời có hương trà hoa thơm lên từ mơ ước của bài thơ tôi viết, mỗi mùa về thành kính dâng lên, để nhớ, để thương…

Theo Trang Thanh/ Tạp chí Văn nghệ Thái Nguyên

Bài viết liên quan

Xem thêm
Sức quyến rũ của sự chân thành
16 giờ ngày 14.4.2024, Nhà xuất bản Hội Nhà văn tổ chức buổi gặp gỡ giao lưu giữa tác giả - Tiến sĩ Lê Kiên Thành (con trai cố Tổng bí thư Lê Duẩn)
Xem thêm
Sông chảy bên đời – Tuỳ bút của Nguyễn Thị Thu Thủy
Một đời người đã đi qua biết bao dòng sông, bao nhiêu ngã rẽ, khúc cua; mỗi dòng sông đều để lại bao luyến lưu, vương vấn, để lại những kí ức luôn tươi xanh mỗi khi nhớ về. Sông vẫn cứ chảy như thời gian trôi đi mải miết vì vậy “không ai tắm hai lần trên một dòng sông”.
Xem thêm
Rặng Diên Vĩ - Tản văn của Quốc Tuấn
Gió vẫn thổi, mái tóc thơm tuột khỏi giây buộc, quấn quanh đầu như vòng hoa nâu thẫm, vô tình quất bỏng môi người. Mùi hương đó, quen quá. Mùi tóc mẹ, hương quê vị quán. Tựa như làn nước lung linh, hơi thở chị uyển chuyển theo nhịp điệu không gian. Đôi mắt và đôi môi vẫn mỉm cười nhưng đã có chút tiếc nuối. Chính nỗi buồn ẩn chứa trên khuôn dung đã khiến chị trở nên hấp dẫn, pha lẫn sự hồn nhiên, ngây thơ tạo nên một tổng thể đẹp đến khó tin.
Xem thêm
Trần Bảo Định - Thú thưởng ngoạn văn chương qua tác phẩm “Đọc thơ bạn”
Có thể nói Trần Bảo Định là một hiện tượng văn học Việt Nam hiện đại: Chỉ trong vòng khoảng hơn 10 năm trở lại đây, từ khi về hưu anh đã cho ra đời 6 tập thơ, hơn 10 tập tản văn, truyện ngắn và 3 tập tiểu luận phê bình trong khi phải chống chọi với căn bệnh ung thư quái ác...
Xem thêm
Canh cá rô đồng – Tản văn của Châu Duyên
Tôi biết về món canh cá rô đồng đã lâu theo lời kể của cô bạn đang ở thành phố mang tên Bác, toàn những tin nhắn như là: Ê! Trưa nay tớ đang ăn canh cá rô đồng nè.
Xem thêm
Sài Gòn như nhà, như mẹ, như quê… – Tản văn của Triệu Vẽ
Ở Sài Gòn, không có ranh giới trọng khinh giữa dân “Sài Gòn” hay dân “tỉnh lẻ”, dân “phố” hay dân “phèn”. Trong huyết quản sâu xa của người Sài Gòn có ruộng đồng, bờ bãi, con trâu, con gà.
Xem thêm
Ơi mùa hoa ban! – Bút ký của Nguyễn Huy Bang
Chiếc máy bay VJ 299 từ Tân Sơn Nhất (sau 2 giờ 5 phút) bay qua không phận 3 nước.
Xem thêm
Tháng Ba hoa gạo – Tản văn của Bằng Lăng Tím
Đào phai, mai vàng là sự kì diệu của tháng giêng. Chúa của các loài hoa tháng ba chính là hoa gạo. Xuân sắp sửa đi qua, hạ lấp ló ở đầu ngõ. Hoa gạo đẹp theo nét riêng và tùy vào thời tiết. Hôm nào trời quang hoa đỏ thắm, ngời sắc trong khoảng không. Ríu rít đàn chim, lao xao ong bướm. Hoa như đốm lửa thắp sáng cả bình minh. Hôm nào sương dày đặc, nhìn hoa như ánh lửa đêm đông, lập lòe mang đến sự ấm áp lạ thường.
Xem thêm
Nhớ hoa đào - Tùy văn của Nguyễn Linh Khiếu
Mỗi năm khi sắp tết bao giờ mình cũng mua hoa đào. Hà Nội không có hoa đào làm sao gọi là tết. Dù là bích đào bạch đào hay đào phai thì hoa đào bao giờ cũng mang tết đến mỗi ngôi nhà thân thương. 
Xem thêm
Giữa những mùa hoa nở - Bút ký Nguyễn Xuân Thủy
Từ Yên Khương, thuộc huyện Lang Chánh chúng tôi đi theo đường tuần tra biên giới lên Đồn Biên phòng Bát Mọt, thuộc huyện Thường Xuân. Đường tuần tra biên giới chập chùng uốn lượn giữa núi non, len lỏi giữa màu xanh của rừng. Càng lên hướng Cửa khẩu Khẹo càng có cảm giác đang đi về nơi thâm sơn cùng cốc. Cũng đúng, Bát Mọt là tuyến cuối của dải biên giới xứ Thanh, nơi có cột mốc 378 là nơi tiếp giáp biên giới giữa Thanh Hóa và Nghệ An. Những nơi cuối đất cùng trời bao giờ cũng gợi cho người ta sự rưng rưng về những niềm thương nỗi nhớ.
Xem thêm
Lửa Cát Bi, ngọn trao truyền khí chất Hải Phòng
“Ơi Hải Phòng cửa biển quê hương/ Tổ quốc đang ghi những trang lịch sử/ Của Hải Phòng viết trên sóng bão Thái Bình Dương”. Với vị thế địa lý của Hải Phòng, trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, nơi đây luôn là miền đất tiền tiêu quan trọng, cửa ngõ chiến lược. Bởi kẻ thù thường tiến hành xâm lược Hải Phòng đầu tiên, lấy đó làm bàn đạp để đánh chiếm Thăng Long – Hà Nội. Khi thất bại, chúng cũng thường chọn Hải Phòng là một trong những tuyến đường rút chạy cuối cùng. Hải Phòng là địa phương luôn “đi trước về sau”, có vị trí xứng đáng, giữ vai trò quan trọng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc cũng như các cuộc kháng chiến của cách mạng Việt Nam, xứng đáng với danh hiệu “Thành phố Cảng trung dũng, quyết thắng”.
Xem thêm
Mùi Tết vương dấu chân xa – Tản văn của Đặng Tường Vy
Mỗi độ xuân về, người con xa xứ không tránh khỏi rưng rức, chạnh lòng. Nỗi nhớ trong lòng người tha hương rất lạ: sâu lắng, dịu dàng, chôn kín. Như gái đôi mươi thầm thương trộm nhớ một ai đó, âm thầm, mãnh liệt, nồng nàn,  tha thiết.
Xem thêm
Mùi hương thảo - Tản văn Quốc Tuấn
Chị mười tám, hay hai lăm tuổi. Tôi cũng chẳng biết và không cần biết, chỉ cần trong tôi đã bận lòng trước vẻ đẹp thuần khiết của loài cúc lam đồng thảo ấy. Nơi đáy mắt thể hiện những đốm lửa vui, những nét cong, nếp gấp mong manh nơi khóe miệng, bờ môi thể hiện sự phong phú nơi nhiệt tâm.
Xem thêm
Phép màu đã không đến với chị, chị Hồng Oanh ơi!
Chia sẻ của nhà văn Bích Ngân, Chủ tịch Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh
Xem thêm
Vào vườn hương
Thành phố Cần Thơ đất rộng người thưa không chỉ có gạo trắng nước trong để níu chân người và du khách bốn phương. Tây Đô còn là mảnh đất văn hiến với không hiếm những trang anh hùng hào kiệt yêu nước và nghệ sĩ phong lưu tài hoa nhân cách. Kế thừa truyền thống văn chương của Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa, Huỳnh Mẫn Đạt … và các bậc văn nghệ sĩ đàn anh: Kiều Thanh Quế, Lưu Hữu Phước, Hoài Sơn, Mai Văn Bộ, Trần Kiết Tường, …đã có không ít thế hệ đàn em kế thừa xứng đáng trên lĩnh vực văn học nghệ thuật.
Xem thêm
Suy ngẫm về “chữ” của “một thời vang bóng”_ Tản mạn của Quốc Tuấn
Người xưa, dẫu không biết chữ nhưng khi thấy một mẫu giấy có vết mực sẽ lượm lên, mang về cất giữ. Điều đó thể hiện sự “sùng chữ” (trân trọng giá trị của văn chương, chữ nghĩa) của ông cha. Những người không biết chữ đã biết đối xử với con chữ bằng tấm lòng trân quý như thế, thì dễ hiểu các trí giả đời trước họ sống với chữ nghĩa sâu sắc đến độ nào.
Xem thêm
Má tôi
Bài đăng báo Người Lao động Xuân Giáp Thìn 2024
Xem thêm
Xuân yêu thương - Tết sum vầy
Phút giao thừa, nhìn ngắm dòng người “tống cựu”, “nghinh tân”, cảm nhận trong mắt mỗi người lấp lánh ánh nhìn hạnh phúc, nhất là khi trên bầu trời đêm pháo hoa rực rỡ...
Xem thêm
Ngày cuối năm... - Tản văn Lê Thiếu Nhơn
Kẻ tha phương dù mải mê danh lợi cũng bất giác bần thần trước mênh mông tiếng gọi quê nhà ngày Tết. Tháng Chạp bao giờ cũng vội vàng trong mắt kẻ tha phương. Tháng Chạp bao giờ cũng hấp tấp trong lòng kẻ tha phương. Vì vậy, càng nhiều tuổi, tôi càng thấy sốt ruột khi thời gian nhích dần vào khoảnh khắc tất niên mà mình chưa kịp trở về ngôi nhà thơ ấu.
Xem thêm