TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Một số nhận định sai lầm về tác phẩm của Vũ Trọng Phụng và Nam Cao

Một số nhận định sai lầm về tác phẩm của Vũ Trọng Phụng và Nam Cao

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2021-12-22 22:03:02
mail facebook google pos stwis
4705 lượt xem

 

Tôi đã rất đắn đo trước khi viết bài này, đơn giản vì sẽ phải lên tiếng phê bình một người bạn cùng nghề phê bình nghiên cứu mà tôi đã và đang có những liên hệ trao đổi khá mật thiết trong việc tìm tòi tư liệu sách báo nghiên cứu. Tôi muốn nói đến nhà phê bình nghiên cứu văn học Thụy Khuê, hiện cư trú tại Pháp.

Chị Khuê cùng trạc tuổi tôi, nay đã ngoại thất tuần; vậy mà sau nhiều cuốn sách đã công bố, lại vẫn đang tiếp tục thực hiện những đề tài về lịch sử, văn học sử Việt Nam, gần đây nhất là chuyên đề nghiên cứu Tự Lực văn đoàn, văn học và cách mạng, đang đăng tải trên một vài trang báo mạng.

Ai đã xem qua các phần của chuyên đề này sẽ thấy một lượng tư liệu lớn được tập hợp vào đây. Thiết nghĩ, chuyên đề này sẽ là tài liệu bổ ích cho những ai muốn tìm hiểu hoạt động của một tổ chức báo chí xuất bản đã từng có đóng góp đáng kể vào sự hình thành diện mạo nền văn học Việt Nam thời hiện đại, nếu các tài liệu sử dụng tại đây được kiểm định kỹ lưỡng, nếu các loại nhận định về các hiện tượng văn học tại đây được đề xuất một cách cẩn trọng, thỏa đáng.

Tôi sẽ chỉ đề cập một phạm vi rất nhỏ, khi thấy tác giả chuyên đề đưa ra những nhận định mà theo tôi là rất sai trái về các nhà văn Vũ Trọng Phụng và Nam Cao. Tôi đã làm trên dưới chục cuốn sách về Vũ Trọng Phụng, nên không thể không lên tiếng!

Đó là ở kỳ đăng thứ 39 của công trình kể trên, khi nhà phê bình Thụy Khuê đề cập đến những nhà văn cộng tác với Tự Lực văn đoàn, như Nguyên Hồng, Trần Tiêu, Bùi Hiển.

Ở trường hợp Nguyên Hồng, nhà nghiên cứu lần lượt điểm những tác phẩm mà Nguyên Hồng đưa in trên báo Ngày nay của Tự Lực Văn đoàn (TLVĐ), tính từ sau khi nhận giải thưởng của văn đoàn này cho tiểu thuyết đầu tay Bỉ vỏ (1937). Thụy Khuê nhận định:  “Nguyên Hồng là một khám phá độc đáo của Tự Lực văn đoàn. Hiện thực xã hội ở Nguyên Hồng, sâu sắc và có nghệ thuật hơn tất cả những ngòi bút hiện thực khác như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Tô Hoài…” (Ai đã đọc hồi ức Nhà thơ ở ngõ Nghè của Nguyên Hồng, sẽ rõ: khám phá này chỉ thuộc Thế Lữ: do hai bà mẹ có họ hàng xa thế nào đó, cậu Hồng mới dám tìm đến khi Thế Lữ từ Hà Nội về Hải Phòng thăm nhà, được Thế Lữ chỉ dẫn và đưa dần vào văn đàn. Các thành viên TLVĐ khác cố nhiên cũng được chút thơm lây!)

Và như để làm sâu thêm nhận định trên, Thụy Khuê đem văn chương trước 1945 của Nguyên Hồng so sánh với văn chương cùng thời ấy của Vũ Trọng Phụng và Nam Cao.

Về Vũ Trọng Phụng, Thụy Khuê nói đã từng đã từng nhìn lầm, từng viết nhiều bài khen, nay đã rút khỏi trang web riêng (thuykhue.free.fr), và nhân đây nhận định lại:

“Vũ Trọng Phụng nổi trội trong hai địa hạt: phóng sự và tiểu thuyết. Về phóng sự, trong chương Ngày Nay phóng sự tôi đã chứng minh: Phóng sự của Tam Lang và Vũ Trọng Phụng, dù viết rất sống động, lôi cuốn, nhưng hoàn toàn tưởng tượng (nói nôm na là bịa), nên không thể có giá trị như phóng sự điều tra thực thụ của Trọng Lang. Kết quả, những phóng sự này, vì tưởng tượng, nên sự tố cáo của nó cũng trở thành vô dụng: không ai tố cáo cái điều mình bịa ra” (bài đã dẫn, kỳ 39)

Tôi cho rằng nhận định kiểu này là một sai lầm nghiêm trọng về mặt nhận thức lý thuyết chung quanh bản chất các thể loại ký, trong và ngoài văn học, sẽ nói rõ hơn ở phần cuối bài này.

Về tiểu thuyết Số đỏ, Thụy Khuê đưa ra một nhận định nước đôi:

“[Nhưng] tư tưởng của tiểu thuyết Số đỏ là con dao hai lưỡi: Nếu chủ đề của nó chống lại xã hội lai căng thời Pháp thuộc, qua nhân vật chính Xuân tóc đỏ, ma cà bông, nhờ phong trào bình dân hô hào thể thao, may quần áo mốt, mà trở thành vô địch quần vợt và anh hùng dân tộc, thì Số đỏ còn có một phần giá trị. Nhưng Số đỏ cũng đem những chủ trương canh tân của Tự Lực văn đoàn ra làm trò cười, thì lại khác: Vũ Trọng Phụng cổ vũ con đường bảo thủ, chống lại tất cả những hình thức tiến bộ mà văn đoàn này đề ra” (bài đã dẫn, kỳ 39).

Tôi chỉ nhắc bạn đọc và bạn nghiên cứu nhớ rằng, Số đỏ đăng báo từ tháng 10/1936, in thành sách riêng từ đầu năm 1938; thế nhưng trong thời gian dài, sự đọc-hiểu nó của giới học giả người Việt vẫn còn rất… lơ mơ. Vũ Ngọc Phan (trong Nhà văn hiện đại, Hà Nội, 1942-1943) cho rằng khôi hài trong Số đỏ là “lối khôi hài nông nổi, nhạo đời nhưng không căn cứ”; ông chỉ thấy khả dĩ mấy đoạn mà ông xem là “những xen tả chân triệt để”. Phạm Thế Ngũ (trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, Sài Gòn, 1961-1965), cũng nhận xét gần như thế, nhấn mạnh nét “tả chân” ở văn chương Vũ Trọng Phụng, xem thường Số đỏ, chỉ thấy nó là tác phẩm “châm biếm, khôi hài, ngả sang lối khôi hài quá lố của sân khấu hay màn ảnh” mà thôi!

Thế nhưng trong điếu văn đưa tiễn Vũ Trọng Phụng về nơi an nghỉ cuối cùng (tại Hà Nội, ngày 10/9/1939), Lưu Trọng Lư đã bày tỏ nỗi bùi ngùi bi thương lúc đứng trong “một dúm nhà văn buồn bã đi theo quan tài một bạn đồng nghiệp xấu số mà những tác phẩm đã làm vinh dự cho văn học nước nhà”. Còn những nhà văn hoạt động văn học vào loại năng sản hồi những năm 1940s như Vũ Bằng, Nam Cao, lúc tình cờ gặp lại nhau hồi đầu kháng chiến (1948), trong câu chuyện bù khú về đời và văn, lại để lộ cái mơ ước viết được một cái gì ngang với Số đỏ! Hồi những năm đầu 1990s, Nguyễn Khải cũng có ý tương tự Lưu Trọng Lư, rằng một cuốn như Số đỏ có thể làm vinh dự cho bất cứ nền văn học nào!

Giới học giả người Việt đến những năm 1990s, ví dụ Hoàng Ngọc Hiến, mới bắt đầu nhận ra, tác giả Số đỏ đã tạo ra cả một xã hội hài hước, nhất cử nhất động của bất cứ nhân vật nào đều khôi hài, lố bịch; hoặc Hoàng Thiếu Sơn nhận thấy Số đỏ là tiểu thuyết bợm nghịch (novela picaresco) và theo ông, có một dòng truyện bợm nghịch thế giới ở thế kỷ XIX-XX với với Các di văn của câu lạc bộ Pickwick (1839) của Dickens ở Anh, Những linh hồn chết (1842) của N. Gogol ở Nga, A.Q. chính truyện (1921) của Lỗ Tấn ở Tàu, Số đỏ (1936) của Vũ Trọng Phụng ở Việt Nam! Còn Đỗ Đức Hiểu thì thấy “Số đỏ là cái cười nhại với một tầm cỡ lớn: nhại một xã hội, một phong trào chính trị, một thời đô thị hóa. Nó nhại một trào lưu văn hóa, một trào lưu văn học, một nghệ thuật trừu tượng cực đoan. Nó nhại một ngôn ngữ đang hình thành, hổ lốn, tạp nham, lổn nhổn, khấp khếnh, xiêu vẹo, tạp pí lù”.

Đấy là chỉ kể đôi nhận định của những tên tuổi có uy tín tương đối lớn. Cho nên muốn hạ giá Số đỏ có lẽ chỉ có một cách rất… cùn, là “tôi không thấy hay, tôi không thích”! – Thị hiếu cá nhân là điều cần tôn trọng, nhưng nó vị tất có thể làm suy suyển một ý hướng vinh danh của những tiếng nói tầm cỡ hơn!

  Lập luận như Thụy Khuê rằng “nếu như” Số đỏ châm biếm cái xã hội lai căng thời Pháp thuộc thì tác phẩm “ít nhiều có giá trị”, còn “nếu như” Số đỏ chế diễu TLVĐ thì thế là “bảo thủ”, nghĩa là không giá trị! Chỗ kỳ quặc của lập luận là thái độ đối với TLVĐ lại trở thành thước đo “giá trị/vô giá trị”? Mà có phải Số đỏ chống TLVĐ không? Cửa hiệu “Âu hóa” với các mốt cho phụ nữ tân thời, sân quần vợt cho phụ nữ, v.v. – đó có thể là những biểu trưng văn học của sự chế diễu nhắm vào TLVĐ. Nhưng Vũ Trọng Phụng có chống TLVĐ tận trong nguyên tắc, trong thực chất không? Tôi ngờ rằng chưa chắc! Các nhà Việt học nước ngoài như Christophe Goscha, Peter Zinoman gần đây đã nêu một nhận định: có một số lớn nhà văn, nhà báo Việt Nam thời 1930-1945, trong đó có Vũ Trọng Phụng, hướng về lý tưởng “chủ nghĩa cộng hòa” (républicanism), tức là hướng về các chuẩn mực “Liberté, Egalité, Fraternité” (tự do, bình đẳng, huynh đệ) của Đại cách mạng Pháp, chứ không tán thành nền quân chủ lập hiến hay chế độ “trực trị”. Các tác gia chủ trì TLVĐ đứng trong hay đứng ngoài cái lý tưởng chính trị républicanism kia, nếu công việc của họ là “Âu hóa”, đổi mới “theo Tây” tức là vận động xã hội sang hiện đại? Xin đọc cho kỹ! Nếu nhà văn họ Vũ chống lại cái lý tưởng tiến bộ mà TLVĐ cũng mặc nhiên hướng tới, thì không thể thấy nhà văn đặt câu này vào trong trí nghĩ của “cụ cố Hồng” về đứa con du học trở về là ông Văn Minh:

“Ngoài ra cụ lại còn kính thờ con cụ ở chỗ con cụ là một nhà cách mệnh trong vòng pháp luật, vì làm như Văn Minh đương làm, chính là cải cách xã hội một cách tha thiết mà có công hiệu, mà lại không sợ tù tội hay mất đầu như những đảng viên cộng sản hay Việt Nam Quốc dân đảng, những người ngu dại mưu hạnh phúc cho đồng bào mà chẳng làm cho đồng bào được biết cái gì là nhảy đầm, cái gì là y phục tối tân”!  (Số đỏ, VI).

Dòng ngôn từ pha phách diễu nhại đùa cợt làm nhòe đi một tư tưởng chính luận, hay một tư tưởng chính luận bị đưa ra diễn trò?

So sánh tiểu thuyết Bỉ vỏ với tiểu thuyết Giông tố, nhà phê bình Thụy Khuê cho rằng: “nghệ thuật của Nguyên Hồng cao hơn Vũ Trọng Phụng rất nhiều”!

Cao hơn ra sao? Thụy Khuê cắt nghĩa:

“Sự thăng trầm của Bính, người đàn bà bị hiếp dâm, trở thành con ăn cắp trong Bỉ vỏ, bám chặt tâm ta, bởi vì Bính rất thật, bởi vì Tám Bính sống lại những khổ đau bầm vập của cậu bé Nguyễn Nguyên Hồng từ những ngày thơ ấu” (bài đã dẫn)

Ta nghe được ở đây một lập luận: tác giả từng trải cuộc sống đau khổ bầm dập nên viết ra được một nhân vật chân thật! Lý lẽ này nghe như ta đang ở giữa thời dân nghèo tố khổ! Lý lẽ này cũng đoan quyết: tiểu sử nhà văn – chứ không phải năng lực, tài năng của anh ta – quyết định sự thành công của xây dựng nhân vật! Người Pháp nghe theo lý lẽ này hẳn sẽ không sao cắt nghĩa nổi vì đâu ông Victor Hugo sang trọng nhường kia lại vẽ ra được một nàng Cosette khổ cực đáng thương đến vậy?

“Còn sự thăng trầm của Thị Mịch, cũng bị hiếp dâm trong Giông tố, khó tin ngay từ đầu”!

Khó tin ra sao? Thụy Khuê viện lý:

“Tại sao Nghị Hách, tối đó, trên đường về nhà, có mười một nàng hầu trẻ đẹp đang chờ, mà lại đi hiếp dâm Thị Mịch, cô gái gánh rạ bên đường? Hách bị bệnh cuồng dâm chăng, nên mới không “nhịn” được? Tại sao bệnh này không thấy tái phát lần nào nữa?”

Tôi dám nói, những người Việt sống trong xã hội Việt, sẽ cảm thấy người phát ngôn mấy câu viện lý trên này hoặc quá ngây thơ, hoặc quá ngây ngô! Là phụ nữ mà hiểu đàn ông Việt thế này, thật quả có hơi nguy hiểm! Ngay xã hội Âu Mỹ thời nay cũng đâu chỉ gồm toàn những đàn ông đứng đắn? Người ta vẫn thấy biết bao chuyện, thực có, hư có, nói về những kiểu đàn ông thị hiếu bệnh hoạn, tìm cách chiếm đoạt, giết hại phụ nữ? Ngược về những năm 1930s thì tôi nhớ, Phan Khôi vào Sài Gòn viết bảo, đã nhận ra: phong hóa Nam Kỳ tốt hơn Bắc Kỳ, ví dụ trong này không hề có thói xấu bóp vú con gái vốn khá phổ biến ở làng xã Bắc Kỳ; thói xấu này, thời tôi lớn lên, tức những năm 1960s vẫn còn nghe nói; mà Nguyễn Huy Thiệp cũng đã đưa hiện tượng xâm hại phụ nữ ở các đám hát vào truyện Những bài học nông thôn (1992) đó thôi! Vậy mà nhà phê bình Thụy Khuê vẫn khăng khăng: “Nhân vật Nghị Hách xa rời thực tế, vì Việt Nam không có “loại” người nào như thế”! Và giải thích thêm:

“Miền Bắc (thời ấy) chỉ có một ông tỷ phú Bạch Thái Bưởi, được mọi người kính trọng. Còn các nghị viên chỉ làm bù nhìn, báo Phong hóa, Ngày nay chế giễu suốt, vì họ không có quyền thế gì cả” (?)

Tôi và chị Khuê ra đời muộn chừng 10-20 năm so với câu chuyện Giông tố, nếu muốn hiểu ngược về cái xã hội thời xảy ra câu chuyện (giả định) nghị Hách, chắc chắn chỉ có thể là hiểu biết gián tiếp, thông qua sách báo. Tôi nhớ, qua đọc báo cũ, tôi được biết, thời Giông tố ra đời, một nhà báo là ông Tạ Đình Bính bảo rằng chỉ đọc qua chương đầu, ông đã đoan chắc kẻ được đặt cho cái tên hư cấu Tạ Đình Hách ấy là ai! Một nhà báo đương thời thì cảm nhận được như thế (về nguyên mẫu của tiểu thuyết), còn một người sinh sau đó 15-20 năm lại cả quyết kiểu người như thế không hề có! Vậy làm sao mà tranh luận được?

Lẽ ra phải tiếp tục so sánh hai cô gái cùng bị cưỡng hiếp, dưới tay bút hai nhà văn, sẽ tiến triển khác biệt nhau ra sao (để thấy Nguyên Hồng giỏi, Vũ Trọng Phụng kém!), thì nhà phê bình Thụy Khuê lại bỏ lửng ở đấy, quay sang nhận xét nhân vật nghị Hách “tính cách ly kỳ quá đáng và hành động đầy sơ hở”, “nhiều chỗ rất hề”, “tác giả dùng quy luật huyết thống (cổ hủ)”, v.v. và nhấn mạnh: tất cả xấu xa chỉ đánh vào đầu nghị Hách, còn các quan cai trị người Pháp thì lại được Vũ Trọng Phụng “thầm kín khen ngợi”.

Cái việc trong Giông tố có những lời “khen quan công sứ Pháp”, vào những năm 1958-1980 ở miền Bắc đã từng bị chỉ trích nặng nề; nhưng vào những năm 2010s này, khi độc giả Việt được đọc bản dịch hồi ký “Xứ Đông Dương” của cố Tổng thống Pháp, cựu Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer (1857-1932), thì đã hơi khó để xúi độc giả tiếp tục chê bôi nhà văn họ Vũ rồi đấy!

Còn trở lại khuôn khổ tiểu thuyết Giông tố thì chỉ có cảnh (chương IV) buổi tối nghị Hách viếng thăm nhà riêng viên Công sứ và nhà riêng viên Tổng đốc rồi trở về trang ấp của mình để chỉ huy bọn tay chân đem “truyền đơn, cờ đỏ” ném vào làng Quỳnh Thôn! Trong tiến triển của truyện, đấy là việc nhà điền chủ vừa lấy lòng kẻ quyền thế lại vừa tiếp tục mưu hại các nạn nhân. Mấy viên quan kia, trong đó viên Công sứ được mô tả tại tư gia trong vẻ giản dị đôn hậu; nhưng một điền chủ trong hạt cai trị của ông ta vẫn tác oai tác quái thế kia, cho thấy dụng ý của tác giả là gì? Đây là trong văn tiểu thuyết, đâu phải văn chính luận?

Tiếp theo, Thụy Khuê so sánh Nguyên Hồng với Nam Cao. Tác phẩm mà nhà phê bình muốn xô đổ là Chí Phèo, bởi vì “Trong bao nhiêu năm ở Pháp, mỗi lần có bạn văn trong nước sang Paris, tôi đều hỏi chuyện văn chương, sự trả lời hầu như bất biến: Chí Phèo của Nam Cao là đỉnh cao” (bài đã dẫn)

Thụy Khuê lược lại truyện Chí Phèo rồi nhận định:

“Màn Chí Phèo giết Bá Kiến trên đây là một màn sát nhân vô cố, khác hẳn màn Năm Sài Gòn giết Ba Bay trong Bỉ vỏ của Nguyên Hồng [….] Còn bá Kiến – dù có làm những việc ám muội – đối với Chí Phèo, vẫn là “ân nhân”. Không có chi tiết nào chứng tỏ bá Kiến đáng tội chết, và cũng không có bằng chứng nào cho thấy Chí Phèo bị bóc lột tàn nhẫn.

So sánh với Bỉ vỏ của Nguyện Hồng, riêng việc sát nhân thôi, Chí Phèo cũng không thể bằng Năm Sài Gòn: Năm giết người có lý do, còn Chí Phèo giết người không có lý do. Và làm sao so sánh Chí Phèo với Tám Bính được? Sự khác biệt là như thế: Tám Bính có lòng nhân ái, là nạn nhân của một gia đình độc ác, một xã hội mù loà, rơi vào tay bọn côn đồ, nhưng vẫn luôn luôn muốn ngoi lên để trở về với cuộc đời lương thiện.

Cho nên, nếu coi Chí Phèo là nhân vật tiêu biểu cho những người cùng đinh bị bóc lột là lầm”…

(Còn tiếp)

 Lại Nguyên Ân/Văn nghệ Công an

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Hơi thở cuộc sống trong thơ Nguyễn Kim Thanh
Trong hành trình sáng tạo của mỗi nhà văn đến với văn chương thì “ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” để làm nên tác phẩm. Ngôn ngữ trong thơ (trữ tình), truyện (tự sự) và kịch (kịch bản văn học) đều có sự giống và khác nhau. Cùng với sự đam mê, năng khiếu, và “thiên phú” (trời cho) thì mỗi tác giả có sự thành công ở những thể loại khác nhau. Có người sáng tác thơ hay nhưng viết truyện lại dở và ngược lại có người viết truyện hay nhưng thơ thì không ra gì. Lại có người thành công ở nhiều thể loại: thơ, truyện, kịch, ký, lý luận phê bình. Nhà văn Nguyễn Kim Thanh là cây bút chuyên viết truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn, bút ký và đã xuất bản bốn tác phẩm văn xuôi. Nhưng nay chị lại “thử sức” sang thể loại thơ với tập thơ đầu tay “Giọt nước mắt thủy tinh” có 30 bài.
Xem thêm
Nỗi buồn chiến tranh - và cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường
Vừa qua, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vinh danh là một trong 50 tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam 50 năm qua đã tạo nên nhiều tranh luận trái chiều. Nhiều ý kiến cũng đã đặt ra vấn đề là có nên đưa tác phẩm này vào sách giáo khoa Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 hay không. Là những người đã từng học văn qua nhiều lần thay sách và là những người đang dạy môn văn nhiều năm trong nhà trường phổ thông, chúng tôi có một số suy nghĩ trong cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường về Nỗi buồn chiến tranh với tính chất là “những người trong cuộc”.
Xem thêm
Văn học đương đại Trung Quốc từ lăng kính các giải thưởng Hội Nhà văn (2015 - 2025)
Nhìn chung, hệ thống giải thưởng Hội Nhà văn Trung Quốc giai đoạn 2015 - 2025 đã làm nổi bật vai trò “điều hướng” và “chuẩn hóa” của mình trong việc thiết lập các tiêu chí thẩm mĩ, định hình phong cách sáng tác và thúc đẩy tương tác giữa văn học - học thuật - công chúng. Điều này cho thấy một mô hình văn học với định hướng chiến lược - kết hợp giữa nhu cầu nghệ thuật, định hướng chính sách và cơ chế truyền thông - đang ngày càng chiếm vị trí trung tâm trong đời sống văn hóa đương đại Trung Quốc.
Xem thêm
Chân dung tâm hồn của nhà thơ Nguyên Bình qua “Mật ngữ trắng đen”
“Mật ngữ trắng đen” (NXB Thuận Hóa, 2025) của nhà thơ Nguyên Bình, hội viên Hội Nhà văn TP.HCM, là một thế giới thi ca đầy suy tưởng, nơi ánh sáng và bóng tối, mộng mị và hiện thực, nỗi đau và niềm yêu thương luôn song hành, soi chiếu vào nhau. Tựa như cái tên Mật ngữ trắng đen, thơ Nguyên Bình gợi cảm giác về sự đối lập, nhưng không phải để phân định ranh giới thiện ác, buồn vui, mà để khai mở một cõi cảm xúc và nhận thức đa chiều về tình yêu, cuộc sống, con người. Ở mỗi bài thơ, tập thơ của anh đều ẩn chứa một lớp nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Xem thêm
Quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu đối với Phật giáo
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà Nho tuy đỗ đạt không cao nhưng cụ là một nhà Nho đức nghiệp, một con người trong ba tư cách: một nhà thơ, một thầy giáo và một thầy thuốc suốt đời vì dân vì nước.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm