TIN TỨC

Một thế giới rất ‘đời’ trong sáng tác của Tản Đà

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2024-05-28 15:48:45
mail facebook google pos stwis
1085 lượt xem

Nhà thơ, nhà báo Tản Đà (SN 1889), quê làng Khê Ngoại, xã Sơn Đà, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây.

Trong các tác phẩm của nhà thơ, nhà báo Tản Đà, lãng mạn thoát ly là khuynh hướng chủ yếu, ông dẫn dắt người đọc bước vào cuộc phiêu lưu kỳ thú toàn là mộng, nhưng rất thực.

Lãng mạn thoát ly

Nhà thơ, nhà báo Tản Đà (SN 1889), quê làng Khê Ngoại, xã Sơn Đà, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây. Nguyên quán của ông ở làng Lủ – tức làng Kim Lũ, nay là phường Đại Kim (Hoàng Mai – Hà Nội).

Trong văn xuôi Tản Đà, sự lãng mạn thoát ly là khuynh hướng chủ yếu. Chưa cần nhìn sâu vào nội dung tác phẩm, ta chỉ cần lướt qua các tên sách: “Giấc mộng con”, “Khối tình”, “Trần ai tri kỉ”, “Tản Đà nhàn tưởng”… đã thấy ông như một người đa tình triền miên trong tình và mộng.

Yếu tố thoát ly trong văn xuôi Tản Đà một phần dựa trên nhân sinh quan yếm thế Lão Trang, trên quan niệm “thế sự ngược đại mộng”. Nhưng trái hẳn với tiền nhân, ông không đem cái quan niệm ấy ra làm một quan niệm triết lý, một thuyết hẳn.

Ông là một nhà ngụy thuyết (unsophiste). Khi ông nói đời là một giấc mộng, ông còn nhìn thấy mảnh giấy, đầu bút và suy nghĩ sáng suốt chứ không đắm chìm trong cõi mộng. Dường như ông đang cố tưởng rằng ông vẫn ở trong mộng, luôn tự muốn đánh lừa trí tưởng tượng của mình, sau đó đem cái quan niệm kia ra phụng sự cho một vài chí hướng.

Vốn xuất thân trong hàng ngũ phong kiến đã đến ngày mạt vận, sinh hoạt gần gũi với tầng lớp tiểu tư sản thành thị, bản thân đứng ngoài các cuộc đấu tranh của dân tộc, lại gặp nhiều éo le, thất bại, nên tư tưởng trở nên tiêu cực thoát ly, điều đó không có gì là lạ.

Tản Đà quan niệm đời là bể khổ nên tìm cách trốn đời, tìm đến văn xuôi, mặc sức để cho ngòi bút của mình tung hoành trang giấy thả hồn mình tự do bày tỏ tình cảm, suy nghĩ chứ không gò bó bởi những quan niệm cũ của các nhà Nho xưa về văn xuôi phải chuẩn mực.

Chán kiếp phong trần, ông muốn bốc mình theo cánh chim bằng Trang Tử mỗi lần sải cánh lướt chín vạn dặm để đưa mình vào những cõi trời kỳ ảo, mông lung. Tản Đà có yếu tố thoát ly trong tư tưởng, nhưng căn bản ông vẫn là nhà Nho có chủ trương nhập thế, cho nên Tản Đà chưa đi tới chủ nghĩa lãng mạn thoát ly tư sản.

Nói cách khác, Tản Đà bị giằng xé giữa chán đời và gánh lấy trách nhiệm với đời, giữa tư tưởng thoát ly và tư tưởng nhập thế. Trước tiên, ông tìm đến rượu: “Việc trần ai, ai tỉnh ai lo, say túy lúy nhỏ to đều bất kể. Trời đất nhỉ, cái say là sướng thế…” rồi kế đến rượu là thơ “Rượu say thơ lại khơi nguồn” (Ngày xuân thơ rượu).

Thực trong mộng

Chỉ có gặp người tri kỉ Tản Đà mới thổ lộ, bộc bạch những nỗi niềm riêng, đưa người đọc nhập vào giấc mộng của ông, dẫn dắt người đọc bước vào cuộc phiêu lưu kỳ thú toàn là mộng nhưng rất thực.

Ông xây dựng được một “cõi đời mới” đặt trong tương quan với “cõi đời cũ”. Từ đó bộc lộ quan điểm của mình bằng những cuộc nói chuyện giữa viên thống trưởng và những người khách mới đến. Phải chăng “cõi đời mới” mà Nho sĩ Tản Đà đặt ra là ước mơ ông hằng ao ước về một xã hội tốt đẹp.

Đằng sau giấc mộng ấy là thái độ phủ nhận thực tại. Cuộc sống ở “cõi đời mới” sao mà công bằng và văn minh đến vậy. Con người có thể sống trong một xã hội dân chủ, một xã hội hoàn toàn trong sạch: “Không có thiên tai, không có địa biến, không có sự trộm cướp, không có sự án tù, không có kiện cáo, không có sự buôn bán danh lợi, không có câu thế thái nhân tình. Ngoài sự lo ăn, lo dùng chỉ chuyên chú suy cầu nhã tiến hóa” (Giấc mộng con – Tiêu diêu du).

Thoát ly vào thế giới mộng tưởng, thế giới thần tiên huyền ảo thực chất là để ông tự an ủi mình, để đi tìm những người tri âm, tri kỉ vốn hiếm hoi trong đời sống trần tục.

Không dừng lại ở những cuộc gặp gỡ với các người đẹp như Dương Quý Phi, Tây Thi, Chiêu Quân… ở chốn thiên đình mà ông còn tiếp xúc với những anh hùng hào kiệt, các danh nhân, các nhà hiền triết phương Đông lẫn phương Tây: Nguyễn Trãi, Hàn Thuyên, Khổng Tử…

Cao điểm ở chủ nghĩa lãng mạn thoát ly là ở “Giấc mộng con II”, Tản Đà ngang dọc thích thẳng lên trời, nhưng thực ra Tản Đà lên trời không để trốn đời, để vui thú hưởng lạc ở cõi thiên đình, mà để giãi bày tâm sự thầm kín mà chàng thanh niên Nguyễn Khắc Hiếu ở cõi trần “muốn nói nhưng không nói được” nên phải mượn chuyện mộng mị để nói chuyện đời.

Ông mộng. Đời ông là một giấc mộng lớn, trong giấc mộng lớn ông lại có những giấc mộng con, có giấc mộng con thứ nhất rồi lại giấc mộng con thứ hai, thứ ba, ông mộng rồi lại mộng. Dường như ông chỉ sống vì mộng mà thôi.

Ngay những dòng hồi kí tự truyện của ông ta thấy được không khí chung của đời sống xã hội, của tâm lý xã hội nhiều lớp người trong những năm đầu thế kỉ XX. Tản Đà không chỉ thoát lên tiên mà ông còn tìm đến với thiên nhiên như một người bạn để tiêu sầu, qua đó để thấy được những nét đẹp của quê hương, đất nước trong chuyến đi từ Bắc vào Hà Tĩnh, đến Huế sau đó vào Nam Kỳ… đằng sau đó là những tâm sự thầm kín của nhà văn.

Như khi kể lại chuyện cúng ba đồng bạc làm chòi cho bọn trẻ lấy củi tránh mưa, ông viết: “Cơn vui đồng chủng đồng bào, tưởng như ngư phủ – đào nguyên chưa hẳn có thú vui như thế vậy. Tan cuộc vui đó rồi đứng dậy từ biệt. Đầy thuyền tống tiễn con cháu Tiên Rồng, hả cho ai tấm lòng xã hội đã bao lâu, buồn cho ai vô trạng với quốc dân, chỉ đoái trông con cháu Rồng Tiên gió mưa trên mặt nước” [40.623].

Hoặc như khi viết về Thuận An: “Trước kia hai nghìn quân đóng giữ Thuận An, bây giờ một tên lính trấn hải. Thời đại suy đi, giang sơn biến cải, thiên công đa sự, nhân sự vô thường, người du quan và khách văn chương sao khỏi tình tự vấn vương vậy” [40.627] (Trích trong tác phẩm Giấc mộng lớn).

Trước đây, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng bất mãn, cũng thoát ly, trốn vào thiên nhiên làm bạn với trăng gió, cỏ cây nhưng tâm hồn ông hầu như đã đi vào chỗ thanh thản, tiêu sái. Tác phong đã có cái gì xa rời mọi thứ dục vọng nặng nề, mà gần cái “tiên phong đạo cốt” của kẻ thoát trần.

Tản Đà sống trong thời kì quy luật kinh tế tư bản chủ nghĩa chi phối mãnh liệt sinh hoạt của mọi người, chủ nghĩa cá nhân công khai bộc lộ, cho nên nội dung thoát ly của Tản Đà cũng in dấu vết thời đại nhuốm màu sắc vật chất chủ nghĩa.

 

ĐẶNG THỊ HOA

Báo Giáo Dục & Thời Đại

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm