TIN TỨC

Một thế giới rất ‘đời’ trong sáng tác của Tản Đà

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
169 lượt xem

Nhà thơ, nhà báo Tản Đà (SN 1889), quê làng Khê Ngoại, xã Sơn Đà, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây.

Trong các tác phẩm của nhà thơ, nhà báo Tản Đà, lãng mạn thoát ly là khuynh hướng chủ yếu, ông dẫn dắt người đọc bước vào cuộc phiêu lưu kỳ thú toàn là mộng, nhưng rất thực.

Lãng mạn thoát ly

Nhà thơ, nhà báo Tản Đà (SN 1889), quê làng Khê Ngoại, xã Sơn Đà, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây. Nguyên quán của ông ở làng Lủ – tức làng Kim Lũ, nay là phường Đại Kim (Hoàng Mai – Hà Nội).

Trong văn xuôi Tản Đà, sự lãng mạn thoát ly là khuynh hướng chủ yếu. Chưa cần nhìn sâu vào nội dung tác phẩm, ta chỉ cần lướt qua các tên sách: “Giấc mộng con”, “Khối tình”, “Trần ai tri kỉ”, “Tản Đà nhàn tưởng”… đã thấy ông như một người đa tình triền miên trong tình và mộng.

Yếu tố thoát ly trong văn xuôi Tản Đà một phần dựa trên nhân sinh quan yếm thế Lão Trang, trên quan niệm “thế sự ngược đại mộng”. Nhưng trái hẳn với tiền nhân, ông không đem cái quan niệm ấy ra làm một quan niệm triết lý, một thuyết hẳn.

Ông là một nhà ngụy thuyết (unsophiste). Khi ông nói đời là một giấc mộng, ông còn nhìn thấy mảnh giấy, đầu bút và suy nghĩ sáng suốt chứ không đắm chìm trong cõi mộng. Dường như ông đang cố tưởng rằng ông vẫn ở trong mộng, luôn tự muốn đánh lừa trí tưởng tượng của mình, sau đó đem cái quan niệm kia ra phụng sự cho một vài chí hướng.

Vốn xuất thân trong hàng ngũ phong kiến đã đến ngày mạt vận, sinh hoạt gần gũi với tầng lớp tiểu tư sản thành thị, bản thân đứng ngoài các cuộc đấu tranh của dân tộc, lại gặp nhiều éo le, thất bại, nên tư tưởng trở nên tiêu cực thoát ly, điều đó không có gì là lạ.

Tản Đà quan niệm đời là bể khổ nên tìm cách trốn đời, tìm đến văn xuôi, mặc sức để cho ngòi bút của mình tung hoành trang giấy thả hồn mình tự do bày tỏ tình cảm, suy nghĩ chứ không gò bó bởi những quan niệm cũ của các nhà Nho xưa về văn xuôi phải chuẩn mực.

Chán kiếp phong trần, ông muốn bốc mình theo cánh chim bằng Trang Tử mỗi lần sải cánh lướt chín vạn dặm để đưa mình vào những cõi trời kỳ ảo, mông lung. Tản Đà có yếu tố thoát ly trong tư tưởng, nhưng căn bản ông vẫn là nhà Nho có chủ trương nhập thế, cho nên Tản Đà chưa đi tới chủ nghĩa lãng mạn thoát ly tư sản.

Nói cách khác, Tản Đà bị giằng xé giữa chán đời và gánh lấy trách nhiệm với đời, giữa tư tưởng thoát ly và tư tưởng nhập thế. Trước tiên, ông tìm đến rượu: “Việc trần ai, ai tỉnh ai lo, say túy lúy nhỏ to đều bất kể. Trời đất nhỉ, cái say là sướng thế…” rồi kế đến rượu là thơ “Rượu say thơ lại khơi nguồn” (Ngày xuân thơ rượu).

Thực trong mộng

Chỉ có gặp người tri kỉ Tản Đà mới thổ lộ, bộc bạch những nỗi niềm riêng, đưa người đọc nhập vào giấc mộng của ông, dẫn dắt người đọc bước vào cuộc phiêu lưu kỳ thú toàn là mộng nhưng rất thực.

Ông xây dựng được một “cõi đời mới” đặt trong tương quan với “cõi đời cũ”. Từ đó bộc lộ quan điểm của mình bằng những cuộc nói chuyện giữa viên thống trưởng và những người khách mới đến. Phải chăng “cõi đời mới” mà Nho sĩ Tản Đà đặt ra là ước mơ ông hằng ao ước về một xã hội tốt đẹp.

Đằng sau giấc mộng ấy là thái độ phủ nhận thực tại. Cuộc sống ở “cõi đời mới” sao mà công bằng và văn minh đến vậy. Con người có thể sống trong một xã hội dân chủ, một xã hội hoàn toàn trong sạch: “Không có thiên tai, không có địa biến, không có sự trộm cướp, không có sự án tù, không có kiện cáo, không có sự buôn bán danh lợi, không có câu thế thái nhân tình. Ngoài sự lo ăn, lo dùng chỉ chuyên chú suy cầu nhã tiến hóa” (Giấc mộng con – Tiêu diêu du).

Thoát ly vào thế giới mộng tưởng, thế giới thần tiên huyền ảo thực chất là để ông tự an ủi mình, để đi tìm những người tri âm, tri kỉ vốn hiếm hoi trong đời sống trần tục.

Không dừng lại ở những cuộc gặp gỡ với các người đẹp như Dương Quý Phi, Tây Thi, Chiêu Quân… ở chốn thiên đình mà ông còn tiếp xúc với những anh hùng hào kiệt, các danh nhân, các nhà hiền triết phương Đông lẫn phương Tây: Nguyễn Trãi, Hàn Thuyên, Khổng Tử…

Cao điểm ở chủ nghĩa lãng mạn thoát ly là ở “Giấc mộng con II”, Tản Đà ngang dọc thích thẳng lên trời, nhưng thực ra Tản Đà lên trời không để trốn đời, để vui thú hưởng lạc ở cõi thiên đình, mà để giãi bày tâm sự thầm kín mà chàng thanh niên Nguyễn Khắc Hiếu ở cõi trần “muốn nói nhưng không nói được” nên phải mượn chuyện mộng mị để nói chuyện đời.

Ông mộng. Đời ông là một giấc mộng lớn, trong giấc mộng lớn ông lại có những giấc mộng con, có giấc mộng con thứ nhất rồi lại giấc mộng con thứ hai, thứ ba, ông mộng rồi lại mộng. Dường như ông chỉ sống vì mộng mà thôi.

Ngay những dòng hồi kí tự truyện của ông ta thấy được không khí chung của đời sống xã hội, của tâm lý xã hội nhiều lớp người trong những năm đầu thế kỉ XX. Tản Đà không chỉ thoát lên tiên mà ông còn tìm đến với thiên nhiên như một người bạn để tiêu sầu, qua đó để thấy được những nét đẹp của quê hương, đất nước trong chuyến đi từ Bắc vào Hà Tĩnh, đến Huế sau đó vào Nam Kỳ… đằng sau đó là những tâm sự thầm kín của nhà văn.

Như khi kể lại chuyện cúng ba đồng bạc làm chòi cho bọn trẻ lấy củi tránh mưa, ông viết: “Cơn vui đồng chủng đồng bào, tưởng như ngư phủ – đào nguyên chưa hẳn có thú vui như thế vậy. Tan cuộc vui đó rồi đứng dậy từ biệt. Đầy thuyền tống tiễn con cháu Tiên Rồng, hả cho ai tấm lòng xã hội đã bao lâu, buồn cho ai vô trạng với quốc dân, chỉ đoái trông con cháu Rồng Tiên gió mưa trên mặt nước” [40.623].

Hoặc như khi viết về Thuận An: “Trước kia hai nghìn quân đóng giữ Thuận An, bây giờ một tên lính trấn hải. Thời đại suy đi, giang sơn biến cải, thiên công đa sự, nhân sự vô thường, người du quan và khách văn chương sao khỏi tình tự vấn vương vậy” [40.627] (Trích trong tác phẩm Giấc mộng lớn).

Trước đây, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng bất mãn, cũng thoát ly, trốn vào thiên nhiên làm bạn với trăng gió, cỏ cây nhưng tâm hồn ông hầu như đã đi vào chỗ thanh thản, tiêu sái. Tác phong đã có cái gì xa rời mọi thứ dục vọng nặng nề, mà gần cái “tiên phong đạo cốt” của kẻ thoát trần.

Tản Đà sống trong thời kì quy luật kinh tế tư bản chủ nghĩa chi phối mãnh liệt sinh hoạt của mọi người, chủ nghĩa cá nhân công khai bộc lộ, cho nên nội dung thoát ly của Tản Đà cũng in dấu vết thời đại nhuốm màu sắc vật chất chủ nghĩa.

 

ĐẶNG THỊ HOA

Báo Giáo Dục & Thời Đại

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Minh Châu và sự đổi mới tư duy trong việc phản ánh hiện thực chiến tranh cách mạng
Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Sự nghiệp văn học của ông không chỉ gắn liền với cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc ở những năm kháng chiến mà còn gắn với những tháng năm đầy ưu tư của thời hậu chiến với bước chuyển dạ diệu kỳ, chuẩn bị cho tiến trình đổi mới đất nước về mọi phương diện, trong đó có văn học.
Xem thêm
Hữu Thỉnh và chiến sĩ xe tăng
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước gian nan khốc liệt của dân tộc Việt Nam trong gần một phần tư thế kỷ như một bản trường ca âm vang giai điệu trầm lắng bi hùng, đã phản ánh phẩm chất cao đẹp sáng ngời của mọi tầng lớp nhân dân ở cả ba miền. Những người tham gia vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc, cầm súng trực diện đấu tranh với quân thù có những chiến sĩ làm văn nghệ thuộc đủ binh chủng như: Nguyễn Thi (1928-1968), Lê Anh Xuân (1940-1968), … và Hữu Thỉnh. Trong đó, xuất thân từ một chiến sĩ xe tăng, Hữu Thỉnh được coi là một gương mặt thơ xuất sắc nổi trội trong nền văn học có lửa của giai đoạn 1954-1975.
Xem thêm
Lê Quang Sinh và nghệ thuật phê bình thơ
Bài viết của PGS.TS Hồ Thế Hà
Xem thêm
Anh nằm đây – trẻ mãi tuổi hai mươi
Bài viết về thơ Trần Ngọc Phượng
Xem thêm
Lê Tiến Vượng và hai tập lục bát liền hơi
Bài viết của nhà thơ Vũ Quần Phương về hai tập lục bát của Lê Tiến Vượng xuất bản cuối năm 2016 (Lục bát khóc cười) và cuối năm 2018 (Lục bát phố).
Xem thêm
“Gặp” lại nhà văn Lưu Thành Tựu với “Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5”
Nhà văn Lưu Thành Tựu hiện là phó ban điều hành phân hội văn học, hội văn học nghệ thuật Bình Dương. Truyện ngắn Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5 của anh là tác phẩm đạt giải tại Cuộc thi truyện ngắn Đông Nam bộ năm 2022, đã đăng trên vanvn.vn và Tạp chí Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh như một sự ra mắt sau khi tác giả được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam.
Xem thêm
Chất Folklore trong Lục bát khóc cười và Lục bát phố
Cầm hai tập thơ thuần thể loại lục bát quen thuộc, nghĩ đọc cũng hơi ngại bởi cứ đều đều một điệu, dễ chán. Nhưng đọc một vài bài mở đầu trong tập “Lục bát khóc cười” và “Lục bát phố” của Lê Tiến Vượng thì cảm giác ấy dần mất đi và thay vào đó là cảm giác hào hứng và thú vị.
Xem thêm
Trăn trở sự tồn tại người - Gía trị nhân bản trong thơ Văn Cao
Đọc thơ Văn Cao, ở nhiều thi phẩm như: Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Những người trên cửa biển, Khuôn mặt em, Một đêm đàn lạnh trên sông Huế, Lá, Trôi, Thời gian, Cánh cửa, Thu cô liêu, Năm buổi sáng không có trong sự thật, Ba biến khúc tuổi 65, Linh cầm tiến… bạn đọc cũng có thể thấy sự đa dạng cung bậc cảm xúc, có xôn xao, có sâu lắng bâng khuâng… nhưng dường như chủ đạo vẫn là những thì thầm tự vấn, suy tư trăn trở, đau buồn và thậm chí nhiều khi hoang mang, kinh hãi, lo âu. Phải chăng, tất cả những thể nghiệm cảm xúc nội tâm ấy bắt nguồn sâu xa từ những “chấn thương” tinh thần của tác giả bởi tác động của hoàn cảnh sống? Và dưới tầng sâu lớp ngôn từ của mỗi thi phẩm ẩn giấu bao mỹ cảm mà chúng ta cần suy ngẫm“giải mã”?
Xem thêm
Nguyễn Trọng Tạo mà đời vẫn say, mà hồn vẫn gió
Hôm nay 12/6, Nhà lưu niệm nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo (1947-2019) được khánh thành tại đội 6, xã Diễn Hoa, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
Xem thêm
Số phận các nhân vật nữ trong tập truyện ngắn “Đảo” của Nguyễn Ngọc Tư
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư Sinh năm 1976 tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, là nhà văn, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Năm 2018, cô được trao Giải thưởng Văn học Liberaturpreis 2018 do Litprom (Hiệp hội quảng bá văn học châu Á, châu Phi, Mỹ Latin ở Đức) bình chọn, dựa trên việc xem xét các bản dịch tiếng Đức tác phẩm nổi bật của các tác giả nữ đương đại tiêu biểu trong khu vực. Giải thưởng được trao hàng năm nhằm vinh danh các tác giả nữ đến từ châu Á, Phi, Mỹ Latin, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) và vùng Caribe.
Xem thêm
Lê Khánh Mai và hành trình nhà thơ nữ bứt phá
Nhà thơ, nhà văn Lê Khánh Mai đến nay (năm 2024) đã ấn hành 12 đầu sách, trong đó có 7 tập thơ, 1 tiểu thuyết, 1 tập truyện ngắn, 1 chuyên luận văn học, 1 tập tiểu luận phê bình văn học, 1 tập tản văn và tuỳ bút. Sức sáng tạo ở một tác giả nữ như vậy là liên tục và rất mạnh mẽ. Thơ là thể loại chính của ngòi bút Lê Khánh Mai nhưng văn xuôi và lý luận, phê bình cũng đạt nhiều thành tựu. Tất cả làm nên tên tuổi của một nhà thơ, nhà văn tiêu biểu của tỉnh Khánh Hoà và của văn học Việt Nam hiện đại.
Xem thêm
Trần Đàm đi tìm một bản ngã
Đã ngoài tám mươi mà mỗi lần theo ông, cánh hậu sinh chúng tôi cách ông cả giáp vẫn thấy hụt hơi. Đúng là không nói ngoa cả khi leo dốc, đường trường lẫn khi viết lách, chơi bời.
Xem thêm
Đọc Người xa lạ của Albert Camus bằng chiếc gương soi của chủ nghĩa hiện sinh
Giàu Dương Nếu triết học cổ điển đề cao bản chất và dấn thân vào việc tìm kiếm những định nghĩa về bản chất, thì trào lưu hiện sinh tập trung vào sự tồn tại của bản thể, lấy đó làm điểm khởi nguyên cho mọi sự phóng chiếu vào thực tại khách quan. Người xa lạ (L’Étranger) của Albert Camus ra đời như một dấu ấn sâu sắc của triết thuyết hiện sinh ở giai đoạn nửa sau thế kỷ XX. Là một triết gia, nhà văn tài hoa, Camus đã mở ra những cánh cửa để người đọc bước vào thế giới của “kẻ xa lạ” Meursault – một người đàn ông tự mình chọn lấy thế đứng bên lề của xã hội. Hành trình của Meursault không đi tìm một kết luận duy nhất của sự tồn tại mà chỉ trình bày sự tồn tại như nó vốn là.
Xem thêm
Cây có cội, nước có nguồn
Nguồn: Báo Văn nghệ số 19/2024
Xem thêm
Khát vọng Dế Mèn
Sự ra đời của Giải thưởng Dế Mèn cùng với phát ngôn của đại diện Hội Nhà văn Việt Nam đã chạm đến khát vọng lâu nay vẫn nằm đâu đấy trong những người yêu và hiểu rõ hiện trạng văn học thiếu nhi nước nhà…
Xem thêm
Tác giả trẻ chinh phục cuộc thi Thơ Hay!
Bài viết của nhà thơ Lê Thiếu Nhơn
Xem thêm