TIN TỨC

Nguyễn Bính Hồng Cầu - Thức với miền xưa

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-08-18 14:03:23
mail facebook google pos stwis
1180 lượt xem

TRÚC LINH LAN
(Về tập thơ “Thức với miền xưa”, NXB Hội Nhà văn)  

“Tôi không nghĩ mình làm thơ để tiếp nối con đường của cha mình. Mình là kẻ hậu sinh, chắc chắn không thể vượt qua bao nhiêu chữ nghĩa của người đi trước. Tôi đến với thơ như một cứu cánh để giãi bày những điều tưởng như mình không thể chịu đựng nổi. Rất may tôi đã được giải tỏa bằng thơ và tìm thấy sự đồng cảm, chia sẻ. Bạn tôi nói Hồng Cầu làm thơ như… ma nhập. Khi đó, tôi không thể không viết. Phải viết thì mới yên lòng” (tác giả tự bạch).


Nhà thơ Trúc Linh Lan (trái) và nhà thơ
Nguyễn Bính Hồng Cầu

Trong cái bóng quá lớn của người cha tài hoa, Nguyễn Bính Hồng Cầu đôi lúc cũng cảm thấy bị áp lực, nhưng chị không thể rời bỏ thơ vì đó không chỉ là cảm xúc của chị mà còn mang yếu tố di truyền. Cầm trên tay tập thơ “Thức với miền xưa” với 38 bài thơ khi đọc qua một lần, tôi vẫn chưa nhận biết được nốt trầm của trái tim nhà thơ nữ này ngân lên ở cung bậc nào. Tôi mãi miết đi tìm một Hồng Cầu ngày xưa thiếu nữ “… Đời xanh nõn giăng tơ/ nắng vàng ươm mật ngọt/ vành vạnh vầng trăng…sóng sánh tiếng cười/ trong vắt pha lê…”. Một cô gái mới lớn xinh đẹp, tràn đầy sức sống, hồn nhiên trong veo ánh mắt mang trong lồng ngực thanh tân:

                      “…một giấc mơ hồng

                      Mùa đương chin

                      Thơm mùi thiếu nữ

                      …vành vạnh vầng trăng

                                                                          (Bán cái không thể - tr.39)

Cái thời “Tuổi mười lăm/ Nghiêng mình soi bóng nước/ Ngỡ ngàng quen lạ thời thiếu nử/ Mắt huyền mơ má lúm đồng tiền/ Môi chúm chím sắc ô môi bừng nở/ Khẽ ngượng ngùng thoáng bóng con trai…”. Hình như bạn yêu thơ đang bắt gặp một nàng thơ Hồng Cầu rất duyên dáng, hồn nhiên trong trẻo quá, cả khi bước vào tình yêu đầu đời cũng đẹp: “…Tôi rạo rực bước qua miền thiếu nữ/ Nụ hôn đầu cong vành môi ký tự/ Chạm khắc đời nhau muối mặn gừng cay...” (Liên khúc ngày xưa - tr.68).  Nhưng dòng đời nghiệt ngã lắm, nó níu kéo số phận người phụ nữ qua bao đời từ người bà bên ô trầu canh khuya, người mẹ trên bậc cửa lõm mòn, người con gái quá lứa lỡ thì đau đáu ước mơ bên vầng trăng khuyết và rồi chị cũng tin vào số phận, yếu tố tâm linh cứu cánh của nỗi buồn: “Ai tính được vòng quay định số/ Thân phận khóc cười sấp ngữa bàn chân/ Cõng nẻo đời băng qua miền cát bụi/ Nhọc nhằn tay trắng phận người trôi…” (Khao khát mặt trời - tr.27), trái tim thơ giàu cảm xúc đành phải:

               “…Ta cất giấu hồn nhiên vào đáy mắt

                Ủ mặt trời trong lòng ngực thanh tân…”

Từ “ta” ở đây tác giả như nói với chính mình và cũng như thì thầm cùng bạn yêu thơ những câu thơ trăn trở, ray rức, đau đáu số phận con người, sân khấu ngôn từ thơ nhiều sắc màu nhiều tầng nghĩa chồng chất lên nhau có chút nào đó mạnh mẽ, hào sảng như một bậc nữ lưu hào kiệt đầy nhiệt huyết với quê hương, ghét cái ác, cái giả trá, lọc lừa… Nhưng tôi lại thích một Hồng Cầu đầy nữ tính, đầy yêu thương day dứt:

                 “Chiều nghiêng xuống

                 Chạm mùa đang cuối

                 Người đàn bà gắng giữ chút ngày

                 Phập phù rút mái thời gian nhóm lửa

                 Thả lên trời những vòng mộng tưởng…

Không gian thơ của Hồng Cầu quá nhiều tầng nghĩa: “chiều nghiêng” kết hợp với “mùa đang cuối”. Sao nghe thương cảm quá khi hình ảnh “Người đàn bà gắng giữ chút ngày” để rồi thả lên trời “…những vòng mộng tưởng”. Tôi bắt gặp được hồn thơ của chị cũng mềm yếu, cũng thương cảm và cũng rơi nước mắt:

                 “…Giọt nước mắt

                 Loay hoay không bến đổ

                 Ngày cạn”.

                              (Ngày cạn - tr.7)

Không có hình bóng con thuyền, không có dòng sông nhưng đầy ắp nỗi cảm thông số phận con người và là một người phụ nữ đa đoan giữa dòng đời đen bạc, giữa cuộc sống phù du đầy mệt mỏi này. Sao tình yêu là một cái gì đó xa vời vậy? Trái tim yếu đuối, dễ đau, dễ vỡ, mà luôn đón nhận bao đắng cay. Thương quá một Hồng Cầu với trái tim ấm áp, nhân hậu, dịu dàng đằm thắm ước mơ có một tình yêu tươi đẹp:

               “…Giấc mơ anh êm mượt

                    Thịt da bung nở

                    Giọt nước mắt thăng hoa

                    Đỉnh tình e ấp gọi…”

 

                    …..miền anh xoáy lốc

                    ta tan vào nhau

                    ….ảo ảnh vỡ òa

                    sóng khóc….”

“ta tan vào nhau” câu thơ đẹp. Chỉ là mơ thôi, một chút của xao động nồng nàn, một chút của rung cảm mãnh liệt, cháy bỏng. Nhưng giấc mơ đó đẹp quá, bất cứ người phụ nữ nào cũng có những giấc mơ như thế, mơ một tình yêu: “Khát cháy men tình/ giấc mơ buông thả/ vũ trụ quay cuồng/ miền anh rực lửa…”  sao tôi thích những câu thơ này của chị quá, rất phụ nữ, rất đàn bà… Với Hồng Cầu chỉ một chút thôi, rồi trả lại trang thơ một trái tim yếu đuối: “Ta trốn vào ta/ giấu biệt/ giấc mơ trần tục…/ ta giấu vào ta/ chôn giấc mơ trần thế”. Bạn yêu thơ bất gặp một tâm trạng thảng thốt, vừa thất vọng vừa hy vọng:

                         “…  Ngày nhú mộng

                          ta rơi chiều thẳng đứng

                          Trốn vào khát khao

                          Nuôi giấc mơ tình”.

                                                            (Trốn vào khát khao - tr.15)

Theo tôi giấc mơ đó rất đẹp, rất đời thường mà sao lại là “trần tục”? Chị lại  đưa ta đến một ngạc nhiên khác khi kết bài thơ với từ “nhú” mộng, “nuôi”  giấc mơ tình nghĩa là chị vẫn còn muốn chăm chút, giữ gìn một giấc mơ trần thế, dù chỉ lóe lên một ánh nắng ấm áp, một đóa hoa xuân đang rộ nở trong thực tại cõi người, dù trong cảm giác mệt mỏi, vẫn kiên trì: “…Tôi mệt nhoài/ cắt từng lát đêm/ ủ vào ngực áo/ nắng ngày lên/ chiêm bao” thương quá một trái tim luôn rực cháy yêu thương nhưng lại còn e dè cất giấu. Nghe đau đáu một nỗi niềm mòn mỏi: “Bóng dáng nào ta quên/ hình hài nào ta nhớ/ ai bây giờ/ ai ngày mai/ ai người năm cũ...” Ai, ai, ai… được lặp đi lặp lại, người đàn ông nào đó đi qua cuộc tình thời xuân sắc, thời yêu thương để bây giờ: “…nỗi nhớ không lối về/ nghe chừng…đêm đau”, Hồng Cầu ơi đêm đau hay người đau? Sao nghe nhói buốt trong lòng vậy!

Trong thơ chị chạm khắc số phận người phụ nữ “dâu bể” trong tình yêu, trái tim quá trĩu nặng nỗi buồn quá khứ, người đàn bà trong thơ luôn đi qua những cơn mơ dài, đi qua trận bão giông cuộc đời, giông bão tàn phá ngôi nhà, xé nát một cảnh đầm ấm ngọt mật, đổi lại những oán hơn, trách cứ: “…Yêu thương bốc hơi/ hóa kiếp căm thù/ những lằn roi ngôn từ/ quất vào nhau rát rạt…” một bức tranh đầy gam màu lạnh rất sống động: “Lũ nhỏ lóp ngóp bò/ qua cơn hồng thùy/ chới với ánh mặt trời/ tật nguyền tâm thế...”. Là phụ nữ, là một nhà thơ Hồng Cầu nhận ra rất rõ số phận những đứa trẻ sau cơn bão, không gian buồn của người thiếu phụ lẻ loi, trống vắng khi cơn bão cuộc đời đi qua để lại bao hậu quả bi thương. Hình ảnh người đàn bà ngồi bên cửa sổ đón hoàng hôn thật lạnh lẽo, hoảng hốt gom chút nắng với chút hy vọng nhỏ nhoi:

                “…tự làm ấm mình

               Trong ngôi nhà trống”

                                              (Ghi sau cơn bão - tr.23)

Hình như có tiếng thở dài trong cái nhập nhoạng của chiều, sự bất lực trước không gian trống trãi quạnh hiu: “…Còn ta/ nước mắt tràn trang giấy/ giọt mồ hôi mãi miết kiếm tìm/ không thấy tứ/ con chữ vô hồn/ phơi trắng câu thơ” (Còn ta - tr.35). Và rồi cũng chính nỗi đau đã làm nên câu thơ hay bởi sự dồn nén, sự đau xót, cô đơn, Nguyễn Bính Hồng Cầu đã thăng hoa cảm xúc viết nên những câu thơ rực sáng từ trái tim thơ nhạy cảm và tinh tế:

                   “…thời gian gõ nhịp nỗi đau

                   thoát thai nhập hồn ký tự

                   cảm xúc thăng hoa

                   pháo bông xòe con chữ

                   ngôn ngữ lấp lánh nỗi mình

                   thơ mọc cánh

                   Bay.”

                                             (Sân khấu ngôn từ - tr.25)

Ta cũng bắt gặp một Hồng Cầu thật tỉnh táo tự hỏi mình: “Lẽ nào mãi theo nhau/ đuổi hình bắt bóng/ kiêu hãnh nhân danh ngụy tạo/ giả dối đua chen/ bước lên cầu ảo ảnh.” (Lẽ nào - tr.37), đi tìm một hình bóng ngày xýa cách ðây bốn mýõi nãm trýớc: “…cũng hoa cười/ sóng sánh trăng rằm”, bây giờ trong lòng ngổn ngang bao sợi ưu tư thế cuộc, ưu tư những số phận da cam, những chàng trai đối mặt với sóng gió biển Đông, ưu tư cả phận mình: “…Hay là tôi con sóng ở trong lòng?…Chỉ trong tôi khuyết một bóng người”.

Sông thơ Hồng Cầu chảy qua cuộc chiến, chảy qua miền ký ức, chảy qua bao dòng đời người nghiệt ngã, vui, buồn, đau khổ, xót xa nhưng lại tràn đầy niềm tin, cấu trúc thơ chị với nhiều câu mang khoảng không gian thơ khoáng đạt, mạnh mẽ với sân khấu ngôn từ nhiều tầng nghĩa, đa sắc màu, biến hóa lấp lánh thông điệp nhà thơ muốn bày tỏ, muốn tâm sự với bạn yêu thơ sức chiêm nghiệm cuốc sống:

           “Ta cố nhặt

           Chút niềm tin rơi rụng

           Hy vọng mùa sau.”

                                             (Hy vọng mùa sau - tr.41)

Khép lại trang thơ cuối cùng tôi muốn mượn lời nhận xét của nhà thơ Ngọc Bái về nhà thơ Nguyễn Bính Hồng Cầu để kết thúc bài viết của mình: “Dễ nhận ra vẻ thuần hậu nữ tính trong một trái tim thơ chân phác và nhân ái. Những bài lục bát nhuần nhị như cố níu giữ bóng dáng của bậc sinh thành khả kính. Những bài thơ tự do nuôi dưỡng những ý tưởng mới mẻ. Những suy tư luôn muốn bứt phá khỏi cái vỏ hình thức thơ muôn thuở. Đấy là chút phóng khoáng của sông nước cỏ cây, của bình dị đồng quê miệt vườn. Tự tạo chân dung thơ bằng chính những điều giản dị như cuộc sống vốn có. Đấy là duyên thơ ân nghĩa được thừa hưởng của sự pha trộn huyết thống Bắc Nam. Đấy là chút phiêu du của người mê đắm tự do. Đấy còn là nỗi cực nhọc trần gian chỉ có ở người đa cảm hồn nhiên. Chừng ấy đủ để ta quý mến nhà thơ Nguyễn Bính Hồng Cầu (Nhà thơ Ngọc Bái).

Vâng chừng ấy cũng đủ để người ta yêu quý chị và cũng bởi trong câu thơ chị chúng ta cũng bắt gặp được chính mình hôm nay hoặc ngày mai.    

              “Ta bây giờ

               ngày mai

               tờ lịch rơi

              đầu thêm sợi trắng

              đêm bao la

              nỗi nhớ không màu.

                                              (Nỗi nhớ không màu - tr.21)

Cần Thơ, ngày 11 tháng 8 năm 2015

Bài viết liên quan

Xem thêm
Bùi Việt Mỹ - Nhà thơ của bức họa ngoại thành thủ đô
Tôi nhớ đầu năm 1991, Bùi Việt Mỹ về làm Chánh văn phòng Hội Văn Nghệ Hà Nội. Lúc ấy nhà thơ Vũ Quần Phương làm Chủ tịch Hội. Sau đó, nhà thơ Vũ Quần Phương chuyển sang làm Tổng Biên tập báo Người Hà Nội, nhà văn Tô Hoài trở về làm Chủ tịch Hội, cho đến năm 1996, khi nhà thơ Bằng Việt đang công tác ở Ủy ban Thành phố được bầu làm Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội. Văn nghệ Hà Nội có 9 hội chuyên ngành tới hiện giờ.
Xem thêm
Đi tìm đôi mắt theo suốt đời người
Nguồn: Tạp chí Văn nghệ TPHCM
Xem thêm
Nguyên Hùng với nghệ thuật lắp ghép, sắp đặt - hai trong một
Nguồn: Văn nghệ Công an số thứ Năm, ngày 17/10/2024
Xem thêm
Một cây bút nhạy bén, giàu tình
Nguồn: Thời báo Văn học Nghệ thuật
Xem thêm
Nhà thơ Nguyên Hùng với “Ký họa thơ” và “Trăm khúc hát một chữ duyên”
Phát biểu chia sẻ tại buổi ra mắt 2 tập sách Trăm khúc hát một chữ duyên và Ký họa thơ của Nguyên Hùng
Xem thêm
“Nắng dậy thì” Rọi lòng sâu thẳm
Nắng dậy thì là tập thơ thứ 4 trên hành trình sáng tạo của nhà thơ Nguyễn Ngọc Hạnh. Ở tập thơ này, Nguyễn Ngọc Hạnh thể hiện nỗi buồn thẳm sâu của một tâm hồn nhạy cảm, tha thiết yêu thương và đầy niềm trắc ẩn, như nhà thơ tâm sự: “Cho đến tập thơ này, nỗi buồn vẫn là nguồn mạch thơ tôi” (Thay lời mở). Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh biểu hiện nỗi buồn gắn với một vùng quê cụ thể, với tình thân, bạn bè, người yêu, với dòng sông, bến nước, con đò, chợ quê hay cánh đồng làng. Những kỷ niệm thân thương và đau thương cứ “cằn cựa” trong tâm hồn người thơ để có những vần thơ độc đáo, đồng vọng trong lòng người đọc.
Xem thêm
Những vần thơ sáng nghĩa kim bằng
Nhà thơ Trinh Bửu Hoài là người bạn văn tốt của tôi đã quen thân nhau từ năm 1970 khi anh hoạt động văn nghệ ở An Giang. Cách nay hơn 10 năm, sau khi nhà văn quá cố Nguyễn Khai Phong đã vài lần giục tôi làm đơn xin gia nhập Hội Nhà văn Việt Nam cùng với tán thành của nhà thơ đánh kính Trịnh Bửu Hoài. Dù biết ở Cần Thơ mình là người mồ côi, kém tài lại vụng về trong giao tiếp nên ít có bằng hữu tình thâm, năm 1918, tôi vẫn đánh bạo nghe lời những người bạn tốt xin vô Hội Nhà văn Việt Nam với sự giới thiệu nhiệt tình cùng lúc của các nhà văn : Nguyễn Khai Phong, Trịnh Bửu Hoài, Lê Đình Bích, Lương Minh Hinh, Nguyễn Trọng Tín. Mặc dù biết rằng với mình, con đường về La Mã vẫn còn diệu vợi ! Hôm nay, nhà thơ Trịnh Bửu Hoài đã về với cõi Ly Tao bất diệt, tôi viết bài này để ân tình bày tỏ lòng nhớ ơn anh, một thi sĩ tài hoa nhân cách rất tốt với bạn bè.
Xem thêm
Nội trú trong ta một nỗi buồn
Bài viết của nhà thơ Đặng Huy Giang về “Năm ngón chưa đặt tên” của Đinh Nho Tuấn, NXB Hội Nhà văn 2024
Xem thêm
Thấy gì từ “Ký họa thơ” của Nguyên Hùng?
Bài viết của Lê Xuân Lâm, cộng tác viên tích cực của Văn chương TPHCM.
Xem thêm
Mấy điều bất thường xung quanh bài thơ “Màu thời gian” của Đoàn Phú Tứ
Không phải vì tác giả là người viết kịch, có duy nhất một bài thơ được chọn vào sách “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh và Hoài Chân, mà bài thơ này có tính bất thường. Trong sách của Hoài Thanh và Hoài Chân có những tác giả sau chỉ có một bài : Thúc Tề, Đoàn Phú Tứ, Vân Đài, Phan Khắc Khoan, Thâm Tâm, Phan Thanh Phước, Hằng Phương, Mộng Huyền. Có hai tác giả được nói đến mà không trích bài nào trọn vẹn là T.T.KH, và Trần Huyền Trân. Vậy thì bài thơ của Đoàn Phú Tứ bất thường ở chỗ nào?
Xem thêm
Tiểu thuyết “Trưng Nữ Vương” – Bản tráng ca về những Nữ Vương đầu tiên của đất Việt
Bà Trưng quê ở Châu Phong,Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên.Chị em nặng một lời nguyền,Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân…(Đại Nam quốc sử diễn ca)
Xem thêm
Về nương bậu cửa kiếm tìm an yên
Bài viết cho cuộc ra mắt tập thơ “Lục bát chân mây” của Võ Miên Trường
Xem thêm
Nguyễn Minh Tâm với ‘Ấm lạnh pháp đình’
Bài viết của nhà văn Nguyễn Văn Hòa
Xem thêm