TIN TỨC

Nguyễn Bính Hồng Cầu - Thức với miền xưa

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-08-18 06:54:11
mail facebook google pos stwis
2079 lượt xem

TRÚC LINH LAN
(Về tập thơ “Thức với miền xưa”, NXB Hội Nhà văn)  

“Tôi không nghĩ mình làm thơ để tiếp nối con đường của cha mình. Mình là kẻ hậu sinh, chắc chắn không thể vượt qua bao nhiêu chữ nghĩa của người đi trước. Tôi đến với thơ như một cứu cánh để giãi bày những điều tưởng như mình không thể chịu đựng nổi. Rất may tôi đã được giải tỏa bằng thơ và tìm thấy sự đồng cảm, chia sẻ. Bạn tôi nói Hồng Cầu làm thơ như… ma nhập. Khi đó, tôi không thể không viết. Phải viết thì mới yên lòng” (tác giả tự bạch).


Nhà thơ Trúc Linh Lan (trái) và nhà thơ
Nguyễn Bính Hồng Cầu

Trong cái bóng quá lớn của người cha tài hoa, Nguyễn Bính Hồng Cầu đôi lúc cũng cảm thấy bị áp lực, nhưng chị không thể rời bỏ thơ vì đó không chỉ là cảm xúc của chị mà còn mang yếu tố di truyền. Cầm trên tay tập thơ “Thức với miền xưa” với 38 bài thơ khi đọc qua một lần, tôi vẫn chưa nhận biết được nốt trầm của trái tim nhà thơ nữ này ngân lên ở cung bậc nào. Tôi mãi miết đi tìm một Hồng Cầu ngày xưa thiếu nữ “… Đời xanh nõn giăng tơ/ nắng vàng ươm mật ngọt/ vành vạnh vầng trăng…sóng sánh tiếng cười/ trong vắt pha lê…”. Một cô gái mới lớn xinh đẹp, tràn đầy sức sống, hồn nhiên trong veo ánh mắt mang trong lồng ngực thanh tân:

                      “…một giấc mơ hồng

                      Mùa đương chin

                      Thơm mùi thiếu nữ

                      …vành vạnh vầng trăng

                                                                          (Bán cái không thể - tr.39)

Cái thời “Tuổi mười lăm/ Nghiêng mình soi bóng nước/ Ngỡ ngàng quen lạ thời thiếu nử/ Mắt huyền mơ má lúm đồng tiền/ Môi chúm chím sắc ô môi bừng nở/ Khẽ ngượng ngùng thoáng bóng con trai…”. Hình như bạn yêu thơ đang bắt gặp một nàng thơ Hồng Cầu rất duyên dáng, hồn nhiên trong trẻo quá, cả khi bước vào tình yêu đầu đời cũng đẹp: “…Tôi rạo rực bước qua miền thiếu nữ/ Nụ hôn đầu cong vành môi ký tự/ Chạm khắc đời nhau muối mặn gừng cay...” (Liên khúc ngày xưa - tr.68).  Nhưng dòng đời nghiệt ngã lắm, nó níu kéo số phận người phụ nữ qua bao đời từ người bà bên ô trầu canh khuya, người mẹ trên bậc cửa lõm mòn, người con gái quá lứa lỡ thì đau đáu ước mơ bên vầng trăng khuyết và rồi chị cũng tin vào số phận, yếu tố tâm linh cứu cánh của nỗi buồn: “Ai tính được vòng quay định số/ Thân phận khóc cười sấp ngữa bàn chân/ Cõng nẻo đời băng qua miền cát bụi/ Nhọc nhằn tay trắng phận người trôi…” (Khao khát mặt trời - tr.27), trái tim thơ giàu cảm xúc đành phải:

               “…Ta cất giấu hồn nhiên vào đáy mắt

                Ủ mặt trời trong lòng ngực thanh tân…”

Từ “ta” ở đây tác giả như nói với chính mình và cũng như thì thầm cùng bạn yêu thơ những câu thơ trăn trở, ray rức, đau đáu số phận con người, sân khấu ngôn từ thơ nhiều sắc màu nhiều tầng nghĩa chồng chất lên nhau có chút nào đó mạnh mẽ, hào sảng như một bậc nữ lưu hào kiệt đầy nhiệt huyết với quê hương, ghét cái ác, cái giả trá, lọc lừa… Nhưng tôi lại thích một Hồng Cầu đầy nữ tính, đầy yêu thương day dứt:

                 “Chiều nghiêng xuống

                 Chạm mùa đang cuối

                 Người đàn bà gắng giữ chút ngày

                 Phập phù rút mái thời gian nhóm lửa

                 Thả lên trời những vòng mộng tưởng…

Không gian thơ của Hồng Cầu quá nhiều tầng nghĩa: “chiều nghiêng” kết hợp với “mùa đang cuối”. Sao nghe thương cảm quá khi hình ảnh “Người đàn bà gắng giữ chút ngày” để rồi thả lên trời “…những vòng mộng tưởng”. Tôi bắt gặp được hồn thơ của chị cũng mềm yếu, cũng thương cảm và cũng rơi nước mắt:

                 “…Giọt nước mắt

                 Loay hoay không bến đổ

                 Ngày cạn”.

                              (Ngày cạn - tr.7)

Không có hình bóng con thuyền, không có dòng sông nhưng đầy ắp nỗi cảm thông số phận con người và là một người phụ nữ đa đoan giữa dòng đời đen bạc, giữa cuộc sống phù du đầy mệt mỏi này. Sao tình yêu là một cái gì đó xa vời vậy? Trái tim yếu đuối, dễ đau, dễ vỡ, mà luôn đón nhận bao đắng cay. Thương quá một Hồng Cầu với trái tim ấm áp, nhân hậu, dịu dàng đằm thắm ước mơ có một tình yêu tươi đẹp:

               “…Giấc mơ anh êm mượt

                    Thịt da bung nở

                    Giọt nước mắt thăng hoa

                    Đỉnh tình e ấp gọi…”

 

                    …..miền anh xoáy lốc

                    ta tan vào nhau

                    ….ảo ảnh vỡ òa

                    sóng khóc….”

“ta tan vào nhau” câu thơ đẹp. Chỉ là mơ thôi, một chút của xao động nồng nàn, một chút của rung cảm mãnh liệt, cháy bỏng. Nhưng giấc mơ đó đẹp quá, bất cứ người phụ nữ nào cũng có những giấc mơ như thế, mơ một tình yêu: “Khát cháy men tình/ giấc mơ buông thả/ vũ trụ quay cuồng/ miền anh rực lửa…”  sao tôi thích những câu thơ này của chị quá, rất phụ nữ, rất đàn bà… Với Hồng Cầu chỉ một chút thôi, rồi trả lại trang thơ một trái tim yếu đuối: “Ta trốn vào ta/ giấu biệt/ giấc mơ trần tục…/ ta giấu vào ta/ chôn giấc mơ trần thế”. Bạn yêu thơ bất gặp một tâm trạng thảng thốt, vừa thất vọng vừa hy vọng:

                         “…  Ngày nhú mộng

                          ta rơi chiều thẳng đứng

                          Trốn vào khát khao

                          Nuôi giấc mơ tình”.

                                                            (Trốn vào khát khao - tr.15)

Theo tôi giấc mơ đó rất đẹp, rất đời thường mà sao lại là “trần tục”? Chị lại  đưa ta đến một ngạc nhiên khác khi kết bài thơ với từ “nhú” mộng, “nuôi”  giấc mơ tình nghĩa là chị vẫn còn muốn chăm chút, giữ gìn một giấc mơ trần thế, dù chỉ lóe lên một ánh nắng ấm áp, một đóa hoa xuân đang rộ nở trong thực tại cõi người, dù trong cảm giác mệt mỏi, vẫn kiên trì: “…Tôi mệt nhoài/ cắt từng lát đêm/ ủ vào ngực áo/ nắng ngày lên/ chiêm bao” thương quá một trái tim luôn rực cháy yêu thương nhưng lại còn e dè cất giấu. Nghe đau đáu một nỗi niềm mòn mỏi: “Bóng dáng nào ta quên/ hình hài nào ta nhớ/ ai bây giờ/ ai ngày mai/ ai người năm cũ...” Ai, ai, ai… được lặp đi lặp lại, người đàn ông nào đó đi qua cuộc tình thời xuân sắc, thời yêu thương để bây giờ: “…nỗi nhớ không lối về/ nghe chừng…đêm đau”, Hồng Cầu ơi đêm đau hay người đau? Sao nghe nhói buốt trong lòng vậy!

Trong thơ chị chạm khắc số phận người phụ nữ “dâu bể” trong tình yêu, trái tim quá trĩu nặng nỗi buồn quá khứ, người đàn bà trong thơ luôn đi qua những cơn mơ dài, đi qua trận bão giông cuộc đời, giông bão tàn phá ngôi nhà, xé nát một cảnh đầm ấm ngọt mật, đổi lại những oán hơn, trách cứ: “…Yêu thương bốc hơi/ hóa kiếp căm thù/ những lằn roi ngôn từ/ quất vào nhau rát rạt…” một bức tranh đầy gam màu lạnh rất sống động: “Lũ nhỏ lóp ngóp bò/ qua cơn hồng thùy/ chới với ánh mặt trời/ tật nguyền tâm thế...”. Là phụ nữ, là một nhà thơ Hồng Cầu nhận ra rất rõ số phận những đứa trẻ sau cơn bão, không gian buồn của người thiếu phụ lẻ loi, trống vắng khi cơn bão cuộc đời đi qua để lại bao hậu quả bi thương. Hình ảnh người đàn bà ngồi bên cửa sổ đón hoàng hôn thật lạnh lẽo, hoảng hốt gom chút nắng với chút hy vọng nhỏ nhoi:

                “…tự làm ấm mình

               Trong ngôi nhà trống”

                                              (Ghi sau cơn bão - tr.23)

Hình như có tiếng thở dài trong cái nhập nhoạng của chiều, sự bất lực trước không gian trống trãi quạnh hiu: “…Còn ta/ nước mắt tràn trang giấy/ giọt mồ hôi mãi miết kiếm tìm/ không thấy tứ/ con chữ vô hồn/ phơi trắng câu thơ” (Còn ta - tr.35). Và rồi cũng chính nỗi đau đã làm nên câu thơ hay bởi sự dồn nén, sự đau xót, cô đơn, Nguyễn Bính Hồng Cầu đã thăng hoa cảm xúc viết nên những câu thơ rực sáng từ trái tim thơ nhạy cảm và tinh tế:

                   “…thời gian gõ nhịp nỗi đau

                   thoát thai nhập hồn ký tự

                   cảm xúc thăng hoa

                   pháo bông xòe con chữ

                   ngôn ngữ lấp lánh nỗi mình

                   thơ mọc cánh

                   Bay.”

                                             (Sân khấu ngôn từ - tr.25)

Ta cũng bắt gặp một Hồng Cầu thật tỉnh táo tự hỏi mình: “Lẽ nào mãi theo nhau/ đuổi hình bắt bóng/ kiêu hãnh nhân danh ngụy tạo/ giả dối đua chen/ bước lên cầu ảo ảnh.” (Lẽ nào - tr.37), đi tìm một hình bóng ngày xýa cách ðây bốn mýõi nãm trýớc: “…cũng hoa cười/ sóng sánh trăng rằm”, bây giờ trong lòng ngổn ngang bao sợi ưu tư thế cuộc, ưu tư những số phận da cam, những chàng trai đối mặt với sóng gió biển Đông, ưu tư cả phận mình: “…Hay là tôi con sóng ở trong lòng?…Chỉ trong tôi khuyết một bóng người”.

Sông thơ Hồng Cầu chảy qua cuộc chiến, chảy qua miền ký ức, chảy qua bao dòng đời người nghiệt ngã, vui, buồn, đau khổ, xót xa nhưng lại tràn đầy niềm tin, cấu trúc thơ chị với nhiều câu mang khoảng không gian thơ khoáng đạt, mạnh mẽ với sân khấu ngôn từ nhiều tầng nghĩa, đa sắc màu, biến hóa lấp lánh thông điệp nhà thơ muốn bày tỏ, muốn tâm sự với bạn yêu thơ sức chiêm nghiệm cuốc sống:

           “Ta cố nhặt

           Chút niềm tin rơi rụng

           Hy vọng mùa sau.”

                                             (Hy vọng mùa sau - tr.41)

Khép lại trang thơ cuối cùng tôi muốn mượn lời nhận xét của nhà thơ Ngọc Bái về nhà thơ Nguyễn Bính Hồng Cầu để kết thúc bài viết của mình: “Dễ nhận ra vẻ thuần hậu nữ tính trong một trái tim thơ chân phác và nhân ái. Những bài lục bát nhuần nhị như cố níu giữ bóng dáng của bậc sinh thành khả kính. Những bài thơ tự do nuôi dưỡng những ý tưởng mới mẻ. Những suy tư luôn muốn bứt phá khỏi cái vỏ hình thức thơ muôn thuở. Đấy là chút phóng khoáng của sông nước cỏ cây, của bình dị đồng quê miệt vườn. Tự tạo chân dung thơ bằng chính những điều giản dị như cuộc sống vốn có. Đấy là duyên thơ ân nghĩa được thừa hưởng của sự pha trộn huyết thống Bắc Nam. Đấy là chút phiêu du của người mê đắm tự do. Đấy còn là nỗi cực nhọc trần gian chỉ có ở người đa cảm hồn nhiên. Chừng ấy đủ để ta quý mến nhà thơ Nguyễn Bính Hồng Cầu (Nhà thơ Ngọc Bái).

Vâng chừng ấy cũng đủ để người ta yêu quý chị và cũng bởi trong câu thơ chị chúng ta cũng bắt gặp được chính mình hôm nay hoặc ngày mai.    

              “Ta bây giờ

               ngày mai

               tờ lịch rơi

              đầu thêm sợi trắng

              đêm bao la

              nỗi nhớ không màu.

                                              (Nỗi nhớ không màu - tr.21)

Cần Thơ, ngày 11 tháng 8 năm 2015

Bài viết liên quan

Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm