TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Nhà thơ Nguyên Hùng với “Ký họa thơ” và “Trăm khúc hát một chữ duyên”

Nhà thơ Nguyên Hùng với “Ký họa thơ” và “Trăm khúc hát một chữ duyên”

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-10-03 09:37:49
mail facebook google pos stwis
1199 lượt xem

XUÂN TRƯỜNG
(Phát biểu chia sẻ tại buổi ra mắt 2 tập sách "Trăm khúc hát một chữ duyên" và "Ký họa thơ" của Nguyên Hùng)

Tôi quen rồi biết Nhà thơ Nguyên Hùng hơn mười năm nay. Anh người phóng khoáng, rộng lòng, giàu tính quảng giao kết nối văn chương. Một nhà khoa học làm thơ tính lãng mạn đã nâng anh lên và thổi hồn vào những công trình kiến thiết ngày mai nhằm chăm lo cho thân phận con người hòa vào thiên nhiên mà thành nhịp sống.

Anh luôn luôn ra phía trước không phải để khoe khoang mà là để kết nối văn chương, giúp đỡ bạn bè khi thì môt video làm tư liệu cho lúc ra mắt tác phẩm, khi thì những pô hình nghệ thuât để lưu giữ các hoạt động nghệ thuât, văn chương. Có lúc vô vi khi thì kiêu bạc, anh hoạt đông nghệ thuật là vì thế thôi, không cầu danh vọng gì do vậy mà thoải mái, không bị áp lực nào, giúp được ai cái gì thì giúp đó cũng là cách thể hiện tính nhân văn của văn chương. Anh cũng có cái duyên với đất trời nên được đi nhiều, biết nhiều, giàu trải nghiệm cuộc sống, và rồi anh đã chọn cho mình một thái độ sống ôn hòa, không để bụng lâu dài những bất đồng không cần thiết giữa chốn văn chương. Trong anh tôi thấy có chút hào hoa của Hà Thành, chút lo âu tận tụy của miền Trung và rộng lòng cảm mến của phương Nam, tất cả đã làm nên một Nguyên Hùng thơ vậy.  Có lẽ cái dữ dội, bão tố phong ba của miền trung đã phát tiết ra những câu thơ gan ruột khi anh đứng trước biển “Anh lớn lên trên sóng / Nên say hoài biển xanh / Biển đưa ngàn cánh võng / Ru bồng bềnh hồn anh” hoặc là “Hòn Ngư, Hòn Mắt chung chiêng / Sóng không từ biển - từ miền em thôi / Ngồi đây ai cũng có đôi / Thương về phương ấy một trời một em”. Trước biển mỗi người đều có cẩm nhận khác nhau, ở Nguyên Hùng thì cái vô hạn của sóng biến vẫn không dữ dội bằng cái vô hạn của sóng lòng em, người em không cụ thể ấy đã nâng bước chân lãng du thi ca của Nguyên Hùng trên đầu sóng. Thơ Nguyên Hùng đa đề tài, đa cách thể hiện, có thiên nhiên có phận người. Gần đây anh lại quan tâm về chân dung văn học, ký họa thơ:


Nhà thơ Xuân Trường tham gia phát biểu tại buổi ra mắt sách

1. Chữ nghĩa của ai mang gương mặt người ấy. Người xưa nói: đọc văn biết người, nhìn chữ viết biết người, “văn dĩ tải đạo” văn chương chở đạo đời. Dựa trên tinh thần ấy thì ký họa thơ của Nguyên Hùng là một sự sáng tạo nghệ thuật, sâu sắc và thật hữu ích cho quá trình văn chương, mà chúng ta đáng quan tâm. Nguyên Hùng đã thực sự chọn khó khăn cho mình, để làm được việc ký họa này thật không dễ chút nào. Đây là một sự công phu, kiên trì và chỉn chu lâu dài mới thực hiện được. Khác với Xuân Sách và Đỗ Hoàng, Nguyên Hùng đã dày công khái quát lý lịch văn học của từng tác giả, người còn kẻ mất nên việc sưu tầm cũng lắm bôn ba, thật ra nếu không tâm huyết với văn chương thì ít có người thực hiện được vì nó quá tốn thời gian và đầu tư, mà đời thì còn cơm áo nữa. Do vậy tôi xin cảm kích và trân trọng Nguyên Hùng qua tác phẩm ký họa này. Bằng tên những tác phẩm của các nhà văn, anh đã dùng những câu thơ của mình để kết nối lại thành những nét ký họa chân dung cho mỗi người. Với những câu thơ, ngôn ngữ bình thường nhưng đầy khôn ngoan và uyển chuyển để kết nối thành những nét ký họa sâu sắc tạo nên diện mạo của mỗi nhà văn giúp cho ta khi cảm nhận dễ nhìn ra, vì bên cạnh có tiểu sử văn học và những dấu ấn phong sương trên nét mặt mỗi người. Tôi rất tâm đắc với anh khi anh ký họa nhà thơ Thanh Tùng: Cái ngày xưa ấy - thời hoa đỏ / Còn cháy lòng ai tận cuối trời / Anh - con sông chảy tự lòng phố / Mỗi nàng thơ là mỗi chiếc thuyền đời // Rời cửa sóng dạt trôi về miền nắng / Để ngày ngày cất khúc hát xa quê / Anh từng khóc cho mối tình xa vắng / Cụng ly cùng hoa phượng tiếng ve…// Nhớ một thời trai trẻ say mê. Trong bài ký họa này những câu: “Cái ngày xưa ấy - thời hoa đỏ”, “con sông chảy từ lòng phố”, “thuyền đời”, “rời cửa sóng”, “khúc hát xa quê” là những tác phẩm của Thanh Tùng từng làm lay động lòng người, từ mọi giơi tinh hoa và đại chúng, ai mà không chết điếng lòng mình khi đọc Thời hoa đỏ, Nguyên Hùng đã cho nhà thơ Thanh Tùng hiển hiện trước mặt tôi, với ly rượu trưa dưới nắng khóm trúc trước cổng nhà anh ở đường Phạm Ngọc Thạch quận 3 TP Hồ Chí Minh, ôi Thanh Tùng tuyệt vời của tôi luôn mới mẻ trong bút pháp và ngôn ngữ, hinh tượng và cách nói mê hoặc lòng người.

2.  Ngôn ngữ của Nguyên Hùng mở ra vùng giao thoa với nhạc điệu. Đây Nguyên Hùng bảo là cái duyên của nhà thơ và nhạc sĩ, đúng vậy ngày xưa trong chiến tranh, người làm thơ ở ngoài dặm ngàn sương gió, nhịp đi chiến trường, người nhạc sĩ, cũng đâu đó đầu sông cuối ghềnh, thế mà thơ vẫn được phổ thành nhạc, thành những khúc hát để đời, đôi khi nhà thơ đến lúc qua đời cũng chưa biêt mặt người nhạc sĩ. Ngày nay trong điều kiện thanh bình dễ đến gần nhau do vậy môi trường giao thoa sẽ rộng hơn sự trao đổi và thống nhất sẽ làm cho thơ vẫn giữ được hồn cốt của mình, và nhạc sẽ cất cánh cho thơ bay xa trong một môi trường rộng hơn và thơ cũng là bệ phóng cho nhạc điệu vang lên. Do vậy mà ngày nay thơ phổ nhạc được hai phía đều quan tâm. Tuy nhiên không phải thơ nào cũng phổ nhạc được và cũng không phải giai điệu nào cũng phải có thơ. Nói như vậy để chúng ta thấy rằng thơ Nguyên Hùng trước tiên phải giàu chất nhạc, không dưng mà đến hơn một trăm bài thơ của anh đã được phổ thành những ca khúc và đã được các ca sĩ biểu diễn ở nhiều nơi. Tôi lại thích nhất ca khúc Sóng không từ biển của anh được nhạc sĩ Lê An Tuyên phổ từ hai bài thơ: “Biển và em” và “Cửa Hội” với nhịp 2/4 tự tị tin bền vững, hai bài thơ này khi chưa thành ca khúc nếu có anh Thanh Tùng ngày xưa hay Trần Huy Minh Phương bây giờ cũng đã hát lên được khi nó chưa hòa với nhạc điệu.

Chúc mừng nhà thơ Nguyên Hùng, cùng một lúc cho ra đời hai tác phẩm thơ và thơ phổ nhạc thật là một sức sáng tạo nghệ thuật vượt trội, trong khi đời còn nhiều thứ phải làm. Một lần nữa xin chúc mừng anh.


Nhà thơ Nguyên Hùng cảm ơn nhà thơ Xuân Trường về phần chia sẻ, trong đó có nhắc tới bài thơ Thanh Tùng trong tập "Ký họa thơ"

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm