TIN TỨC

Nhà thơ và thi hứng sáng tạo

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2021-08-20 06:02:53
mail facebook google pos stwis
4806 lượt xem

GS. HỒ SĨ VỊNH
 

Nói đến thơ ca, người đọc nghĩ ngay đến tư tưởng tiềm ẩn, thi pháp vừa trực giác, vừa suy lý, ngôn ngữ thơ thường “bị rào cản”, chứ không “tự do” miêu tả như văn xuôi. Những tiên đề và chuẩn mực đó trong cá tính sáng tạo của nhà thơ giúp người đọc thưởng thức bài thơ hay, chưa hay, câu thơ giàu hình tượng hay nghèo thi pháp, thi hứng nhà thơ có mạch thơ sâu, hay nghèo sức tưởng tượng, ý thơ sâu hay nông cạn,... Bài viết này lý giải đôi điều về thi hứng sáng tạo của nhà thơ trong quan hệ lý thuyết thẩm mỹ của nhà thơ.
 

1. DUY CẢM VÀ DUY LÝ LÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TÀI NĂNG THI HỨNG
 

Tài năng thơ ca là sự kết tụ giữa duy lý và duy cảm, giữa trí tuệ và tri thức văn hóa do nhà thơ chiếm lĩnh và cảm xúc trào dâng, kết quả của sự rèn luyện, sự lao động nghiêm khắc trong cảm hứng sáng tạo. Cảm hứng trong thơ có hai giai đoạn: Cảm hứng chủ đạo và cảm hứng phản xạ. Cái trước thuộc phạm trù đạo đức - chính trị; còn cái sau là “tia chớp” trong quá trình tìm tòi ý bài thơ. Thiên tài như A. Puskin mà cũng cần đến “sự lao động lặng yên”, trải qua bi kịch sáng tạo, cơn đau đơn nặng nề khi ý và lời thơ chưa gặp nhau, khi “tia chớp sáng tạo” bị biến mất,... Trong thơ ca kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, ở cả hai giai đoạn, nhiều bài thơ viết về đề tài Tổ quốc, thiên nhiên, ngay cả đề tài mất mát, bi thương,… vẫn đọng lại lâu dài trong tâm trí người đọc là nhờ tài năng của nhà thơ đồng hành với cảm hứng của người đọc. Những thi phẩm nổi tiếng thời đó như Sáng tháng năm, Nước non nghìn dặm, Mặt đường khát vọng, Trường ca sư đoàn, Sức bền của đất, Đường tới thành phố, Bài ca chim chơrao, Cuộc chia ly màu đỏ,... còn đồng hành cùng người đọc cho đến hôm nay là nhờ tài năng, sức khái quát cao của trí tuệ và chất liệu văn hóa dân gian, dân tộc. Viết về Đất nước (một chương lớn trong Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm với bút pháp hào hoa, hình tượng Đất nước như một họa phẩm sử thi hoành tráng: Đất nước là nơi Rồng ở, Lạc Long Quân và Âu Cơ, Đẻ ra trăm bọc trứng,... Huyền sử đó, nếu chỉ có thế thì chưa thành thơ hay. Bài thơ hay gây cảm hứng đồng điệu với người đọc là nhờ nhà thơ biết cá thể hóa dáng hình Đất nước:
 
Đất là nơi anh đến trường,
Nước là nơi em tắm
Đất nước là nơi ta hò hẹn
Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm,...
 
Một nhà khoa học phương Tây - ông Jacwer Gauchearon - đã có nhận xét về thơ Nguyễn Trãi: “Thi ca và lịch sử chỉ là một... Đã đến lúc lịch sử trở thành động lực của thơ và thơ trở thành động lực của lịch sử”. Đó cũng là trường hợp sáng tạo thành công của nhiều nhà thơ lớn: Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên, Tế Hanh....
 
Thơ viết về biển của Hữu Thỉnh là bài thơ hay, dễ thuộc, nhớ lâu, tứ thơ không lạ, lạ nhất là cách “chơi chữ”, từ nghĩa biểu hiện: biển, cánh buồm chiều, màu tím, gió, vách núi, chuyển dịch sang nghĩa nội hàm để nói lên một triết lý, tình yêu chân thật bao giờ cũng có nhận, có cho, có nhớ nhung và trách cứ của cả hai phía theo lối tu từ phủ định, giả định để xác định:
 
Gió không phải là roi/ mà vách núi phải mòn/ Em không phải là chiều/ mà nhuộm anh đến tím/ Sóng chẳng đến đâu/ nếu không đưa em đến/ Dù sóng đã làm anh/ Nghiêng ngả vì em.
 
Những năm gần đây, nhiều bài thơ viết về người mẹ, người chị với cảm hứng chân thật và giọng điệu lạ; không kể hết những chiến công của người con trai, người chồng nơi đầu tiên mũi đạn.... Bài thơ Chị (Bài dự thi trên báo Văn nghệ) của nhà thơ Nguyễn Minh Khiêm là một thi phẩm khá hay khi ông tạc tượng người vợ chiến binh trong nỗi cô đơn tột cùng bằng những câu nói cửa miệng dân gian: Chưa ai tạc tượng chị trong những ngày anh đi đánh giặc/ Một mình nuôi con/ sóng cả, đò đầy/ thân lươn, mình hạc/ con đường quê nhà vẹt một phương trời/ Chị quên vùng trắng/ Chị quên giếng nước, quên mình là đàn bà/ Chưa ai tạc tượng chị trong những năm tháng cuối cùng/ da nhăn, vỏ đỗ/ Suốt ngày khóc thương/ Chiếc xe lăn xếp cạnh bàn thờ/ Huân chương của anh gắn đầy tay vịn....
 

2. SỨC TƯỞNG TƯỢNG LÀ MỘT PHẨM CHẤT CỦA NHÀ THƠ
 

Sức tưởng tượng là quá trình tâm sinh lý xây dựng nên hình tượng, biểu tượng bằng cách cải tổ tư liệu của tri giác, trí nhớ trong quá trình lao động trước đây của nhà thơ. Tưởng tượng chỉ có ở con người. Nếu tri giác phản ánh cái hiện tại, thì tưởng tượng phản ánh cái đã qua. Có hai loại tưởng tượng: Tưởng tượng có chủ đích và tưởng tượng không có chủ đích. Nhà thơ Đức Fr.Hebel (1813-1863) cho tưởng tượng có thể chấp nhận được, trong sự có mặt của lý trí. Còn V.I.Lenin coi sức tưởng tượng là một phẩm chất, một giá trị vĩ đại nhất của con người. Nhà thơ và nhà khoa học đều cần đến sức tưởng tượng. Đại bộ phận tác phẩm thi ca, nổi tiếng thế giới đều được vận dụng sức tưởng tượng để làm giàu cho ngôn ngữ thơ, hình tượng nhân vật chính của tác phẩm. Trong thơ ca Việt Nam hiện đại của Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên,... người đọc thường bắt gặp nhiều biểu tượng màu đỏ, ngọn lửa, giọt máu… Thậm chí còn có một bài thơ của nhà thơ trẻ thời chống Mỹ có nhan đề Cuộc cách mạng màu đỏ.
 
Thơ Nguyễn Đình Thi thường được bạn đọc chú ý biểu tượng sắc đỏ như Con đường lửa cháy, Đêm khuya ngồi đốt lửa, Lửa ào ào buông cuộn, Bụi Trường Sơn nhòa trong trời lửa, Rừng lạ ào ào lá đỏ, Ôi cánh đồng quê chảy máu, Dây thép gai đâm nát trời chiều,... Tất cả những ẩn dụ, hoán dụ, phúng dụ nói với đọc thơ sự khốc liệt trong cơn binh đao của cuộc chiến tranh vệ quốc.
 

3. VAI TRÒ CỦA YẾU TỐ PHI LÝ TÍNH TRONG THƠ
 

Một định nghĩa tóm tắt khi bàn về phi lý tính như: Trực giác, siêu thực, liên tưởng. Phi lý tính là một đặc thù của thơ, có cái lý riêng mà suy lý đơn thuần không hiểu được, nó cần được sự hướng dẫn của trí tuệ, tri thức văn hóa. Trong lịch sử văn học nước ta, ca dao, dân ca phản ánh tình yêu muôn mặt đời thường: Tình yêu con người, yêu thiên nhiên, quý trọng tình nghĩa bạn bè,... Với nhiều cách diễn đạt bằng ngoa dụ, ẩn dụ, hoán dụ. Ở biện pháp ẩn dụ và ngoa dụ, chúng ta đọc: Ước gì sông hẹp bằng ao/ Bắc cầu dải yếm qua trao ân tình; Cô kia tát nước bên sông/ Muốn sang anh bắc cành hồng cho sang... Trong Thơ mới giai đoạn 1930-1945, cánh cửa sổ nhìn về phương Tây đã ảnh hưởng đến thi hứng của nhiều nhà thơ. Màu thời gian của Đoàn Phú Tứ là một ví dụ: Màu thời gian không xanh/ Màu thời gian tím ngát/ Hương thời gian không nồng/ Hương thời gian thanh thanh.....
 
Thời gian chỉ đo bằng năm tháng, bằng chiều dài lịch sử, sao lại đo bằng màu, bằng hương. Tứ thơ này chỉ là sự biểu hiện tình yêu của nhà thơ đối với thiên nhiên, với loại hoa màu tím. Dưới ảnh hưởng của văn hóa Pháp thời kỳ đó, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên và nhiều nhà thơ mới khác đều có những hình tượng thơ trực giác, siêu thực. Tuy nhiên, phi lý tính cũng có mặt tiêu cực trong triết học duy vật, trong thơ thời kỳ Ánh sáng, Phi lý tính trong thơ cần tránh sự lập dị, suy nghĩ mù quáng, cường điệu vô mục đích trong thi hứng của nhà thơ.
 
Muốn có những bài thơ hay, tứ thơ lạ để đời, chưa bao giờ là chuyện dễ. Có một nhà thơ hiện đại nói rằng, nghệ sĩ phải viết không chỉ bằng máu con tim mình, mà còn bằng mọi dây thần kinh trong cảm hứng sáng tạo. Còn Hữu Loan - Tác giả bài thơ Màu tím hoa sim coi sáng tạo là hiện tượng tâm sinh lý ác liệt, nhưng không mù quáng mà có Lửa Thần đưa đường. Lửa Thần đó chính là lý tưởng xã hội, Lý tưởng thẩm mỹ của nhà thơ.
 

Nguồn: Văn nghệ số 24/2021.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm