TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Nỗi niềm suy tư, trăn trở về con người và thời gian trong thơ Phùng Hiệu

Nỗi niềm suy tư, trăn trở về con người và thời gian trong thơ Phùng Hiệu

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-05-17 18:18:49
mail facebook google pos stwis
4321 lượt xem

NGUYỄN VĂN HÒA

Nhà thơ Phùng Hiệu không chỉ tư duy bằng ngôn ngữ mà còn tư duy bởi những ám ảnh của biểu tượng, nỗi ưu tư về thân phận con người. Chính điều này tạo nên chiều sâu mỹ cảm trong thế giới nghệ thuật thơ anh.

Nhà thơ Phùng Hiệu

Thơ Phùng Hiệu càng về sau cảm thức hiện sinh càng được thể hiện rõ nét. Vì thế thơ anh đã tạo được những dấu ấn nhất định đối với bạn đọc. Nếu các tập thơ trước đây như: Tình không dám ng (NXB Văn học, 2008); Thc gic (tập thơ, NXB Thanh Niên 2010) còn thiên về bày tỏ tình cảm có vẻ sướt mướt, vì phần nhiều viết theo lối truyền thống thì đến Trong thế gii ngụy trang (NXB Trẻ Wikibook, 2014), Du chân bin c (NXB Văn hóa Văn nghệ, 2018); Biên bn thặng dư (NXB Hội Nhà văn, 2019) đã dần chuyển sang hướng khác: thể nghiệm các hình thức biểu đạt mới, mở rộng biện độ tự do trong sáng tạo, phản ánh và lý giải hiện thực bề bộn, phức tạp của đời sống con người thời hiện đại.

Bởi Phùng Hiệu ý thức về con đường đến và đi cùng với thi ca nên anh đã tự biết điều chỉnh chính mình. Ngay từ khi bắt đầu sáng tác anh làm thơ theo kiểu truyền thống, nhưng khi đã tiếp cận với thực tế không gian thi ca đương đại thì Phùng Hiệu đã dần chuyển hướng để hòa nhập theo nhịp điệu ấy. Đây là sự cố gắng và nỗ lực rất đáng được ghi nhận đối với một cây bút thơ như anh.

Bởi theo anh, muốn làm nên bản sắc riêng thì phải chọn cho mình cách viết khác. Do vậy, Phùng Hiệu đã dần thay đổi cách thể hiện, bày tỏ tình cảm, thái độ của mình trong thơ. Anh từng giãi bày rằng: Cht mt ngày tôi nhn ra tôi/ Từng lang thang dưới bu tri chữ nghĩa/ Tôi nghe được tiếng hát của mưa/ Tiếng cười ca nng/ Tiếng nói ca c cây/ Tiếng rên ca mây/ Tiếng bun của đất…/ Tiếng núi đồi hoa c yêu nhau!// Tôi nghĩ thế gii này có th mất đi/ Nhưng còn li vần thơ và nhân cách (Ngôn ng lên ngôi).

Sự thức ngộ sâu sắc như vậy đã giúp Phùng Hiệu vững tin hơn để sống, để yêu và làm tròn bổn phận của một công dân chân chính, một nhà thơ luôn đứng về nhân dân, luôn ở bên những người lao động nghèo khổ, những số phận không may…

Phía sau hoàng hôn/ Tôi nhn diện được bóng đêm/ Là hành trình lương tri lộ din… (K h bình minh)

Trong thế gii ngy trang và Biên bn thặng dư của Phùng Hiệu là 2 tập thơ thể hiện rõ nét những dấu ấn cá nhân trong hành trình thể nghiệm theo cách viết mới, mang hơi thở của nhịp sống đương đại, là một bước nhảy vọt trên con đường sáng tạo nghệ thuật của Phùng Hiệu. Ở đó không chỉ mang đến cho độc giả những nội dung đa dạng mà còn độc đáo cả về hình thức nghệ thuật và giọng điệu thơ. Phùng Hiệu đã làm cuộc đối thoại với chính mình để tự tìm ra lối đi mới, tránh những cũ kĩ, sáo mòn… đưa thơ về với đời thực nhằm lý giải sự hiện tồn của con người trong một xã hội đầy biến động, nhiều nghịch lý và lắm bất an.

Nhà thơ Phùng Hiệu không chỉ tư duy bằng ngôn ngữ mà còn tư duy bởi những ám ảnh của biểu tượng, nỗi ưu tư về thân phận con người. Chính điều này tạo nên chiều sâu mỹ cảm trong thế giới nghệ thuật thơ anh.

Cái tôi trữ tình với nỗi suy tư trăn trở, chiêm nghiệm trở thành mạch nguồn chủ đạo xuyên suốt trong dọc đường thơ của Phùng Hiệu. Để rồi từ chính những chiêm nghiệm về hiện thực có vẻ như xô bồ, bất an đó, nhà thơ thức nhận sâu sắc hơn về lẽ sống, niềm tin ở cuộc đời này. Cái ác không có trong tâm hồn nhà thơ/ Cái ác không hình thành trong tư tưởng nhà văn/ Cái ác không tồn tại trong tư duy con người lương thiện/ Nó ch hin din ở nơi không có lương tri/ Và thường trú trong tim ca những con người khước từ đạo đức…/ S lãng mạn không mang đến nguy hại cho con người/ Ch có th làm nên tên tui (S lãng mn và cái ác).

Với nhà thơ Phùng Hiệu sáng tạo thi ca là cách để nhà thơ cảm thấy mình đang tồn tại và vững tin hơn để sống có ích, để chống lại bao điều vô nghĩa, phi lý, bất công vẫn cứ hiện tồn. Vì thế, anh đã cất công đi tìm “giấc mơ hiện thực” để bóc tách và tìm hiểu ngọn ngành làm thế nào để trở thành một con người tự do, bình đẳng theo đúng nghĩa của nó. Từ trong giấc mơ đó nhà thơ gửi gắm đến cuộc đời những trăn trở, thao thức, khát vọng của chính mình cho thực tại và cả tương lai phía trước. Nhưng dường như điều ấy vẫn chỉ là trong giấc mơ. Tôi đi tìm giấc mơ/ Mang tên công lý/ Trong sut hành trình tuyên chiến vi thặng dư/ Giấc mơ nhọc nhn trôi qua thiên niên k…// Trong mt ln kit sc mê man/ Tôi bt gp giấc mơ/ Giấc mơ tôi được làm người/ Một con người tht s t do/ Một con người mang tên bình đẳng/ Mt giấc mơ hiện thực/ Được hình thành trong tiu thuyết chiêm bao!

Thơ Phùng Hiệu không phải bài nào cũng hay nhưng lại có nhiều câu thơ hay. Bởi những câu thơ ấy bất chợt phụt hiện từ trong thẳm sâu tâm thức của anh trước một sự việc, hình ảnh nào đó của đời sống gây cho anh sự ám ảnh.

– Ch quét cả đời nhưng rác chảy về đâu

Khi du chân dm mòn tui tác

Và năm tháng rót dần khô cn…

 (Quét rác).

– Cuc sng bỗng dưng đảo ln/ Những cánh đồng trắng lưng phố xá… Người nông dân t nhiên mất đất/ Những cung đường t do siết cht… (Quy hoch t do).

– Chị đẩy cuộc đời về phía mưu sinh/ Từ gánh ve chai lm màu tri thc (Cuộc mưu sinh).

Khi nhìn vào chiếc ly/ Tôi bng thy c sông ngòi và đại dương trong đó/ Chảy miên man hình tượng ngôn t

Cht mt ngày tôi nhn ra tôi/ Từng lang thang dưới bu tri ch nghĩa

Tôi nghe được tiếng hát của mưa/ Tiếng cười ca nng…

Tôi nghĩ thế gii này có th s mất đi/ Nhưng còn li vần thơ nhân cách (Ngôn ng lên ngôi)

– Bng mt ngày da nt vết thương khô/ Những git nh r sâu vào tâm thc/ Nếu anh biết giữa đôi bờ hư thực/ Là mong manh s sng qu tim lành (Điểm danh quá kh).

S thật như những cơn mơ/ Và những cơn mơ luôn đánh lừa s tht

Phía sau bình minh/Tôi nhn diện được bóng đêm/Và sự tht luôn b đánh la/ Sau k h bình minh (K h bình minh)

Những câu thơ cất lên tiếng nói tâm trạng của nhân vật trữ tình, mang những thông điệp có ý nghĩa đối với cuộc sống. Tôi cho rằng đây chính là những câu thơ đẹp, mang giá trị nhân văn, bởi nó được viết ra như chính con tim anh mách bảo.

Nhiều từ ngữ, hình ảnh được nhà thơ sử dụng mang đậm tính hiện thực và hơi thở của nhịp sống đương đại.

Chị đẩy cuộc đời mình về phía mưu sinh/ Từ gánh ve chai lm màu tri thc/ Thành phố này văn minh phồn thc/ Rác chảy ra đường qua li tái sinh// Chị đẩy vào đời gic ng cu li/ Những đứa con thơ vật v trên va hè thành phố/ Đứa bán kẹo/ Đứa giác hơi/ Đứa đánh giầy/ Đứa rao vé s/ Nhng mảnh đời loang l du chân chim (Cuộc mưu sinh).

Vẫn còn đó bao mảnh đời đáng thương, bất hạnh. Từ thực tại khách quan nhà thơ quan sát và chuyển tải vào thơ bằng cái nhìn sẻ chia, xa xót. Trên cung đường quen thuc tui tên/ Mt bà lão chng gy bằng đôi tay vé số…/ Phía góc ch/ mt hình hài chất độc da cam/ Ú tng câu ai mua vé số…/ Nơi ngã tư đèn đỏ/ Anh thương binh lặng thm/ T chiến trường xưa lê đôi chân rách/ Li hát “Ngày tr v…” trên chiếc bàn vé s. Nhà thơ thốt lên trong tột cùng của nỗi đau bằng hành động và tiếng thở dài trĩu nặng, đầy khắc khoải. Ôi! Nhng t vé s chng minh s phận/ Tôi đau thương cầm mấy mươi nghìn…/ Không th nào xoa du nỗi đau/ Cho em bé đến trường/ Bng tiếng rao/ Vé s… (Đằng sau t vé s).

Cuộc sống thời mở cửa bên cạnh những điều tích cực thì vẫn còn đó biết bao bất cập, tiềm ẩn nhiều nguy cơ, thách thức, đánh đố con người, nhất là nơi phố thị. Bằng cách nói ẩn dụ nhà thơ Phùng Hiệu đã khái quát và chỉ ra được những giả tạo, lọc lừa từ “phía sau ánh đèn lừa dối” trong một thế giới xô lệch, được ngụy trang bởi lắm chiêu trò, mưu chước…

… Trong ánh đèn dối la/ nhan sắc được phô trương bằng những đường cong/ thân th/ bng sự ghen tuông, đố k, tranh giành/ em quên mt câu tam tòng tứ đức của cha già ngày đêm mong mỏi/ em hin diện như một nàng tiên chơi trò chuyển nhượng/ gia thế gii di lừa/ đam mê phó mặc/ hoang phí thanh xuân/ giu ct ái tình… Bng mt hôm/ em nhn ra mình đứng nơi góc phố/ cung đường ngã giá về đêm… Lời thơ nghẹn ngào, nỗi đau quặn thắt về nhân tình thế thái bởi cạm bẫy cuộc người, để rồi một ngày “em cũng đứng nơi góc phố, hành nghề buôn phấn bán hương”.  

Biên độ thẩm mỹ của từng bài thơ, câu thơ được mở rộng nhờ sự liên tưởng và đối sánh trong khuôn diện, cách nhìn, cách lý giải mang tính thời đại. Ri mt ngày nhan sắc được phô trương/ Bằng giá tr phn son, bằng đường con thân th/ Em tr thành cánh chim hoang lc/ Bay v phía vô cùng// Đêm tan…/ Những bước chân hoang ln v công s/ Em git mình tnh gic/ Và rã ri trong hạnh phúc thuê bao!// Đến mt ngày em nhn ra em/ Thì giấc mơ đã tan v chn cũ/ Chiếc Iphone thưa thớt khách hàng/ Một đêm vắng trên màn hình ế m/ Gi em v sa thi một cơn mơ (Sa thi một cơn mơ).

Nhà thơ nhìn thấy nỗi buồn đau và bao bất hạnh đổ dồn về những thân phận, kiếp người trong xã hội thời anh sống. Đọc bài thơ Quét rác, lòng ngổn ngang bao câu hỏi về con người, cuộc đời và cả cách đối xử “bất nhân” của chính đồng loại:

Ch quét cả đời nhưng rác chảy về đâu/ Khi dấu chân dm mòn tuổi tác/ Và năm tháng rót dần khô cạn/ Sáu mươi năm mà rác vẫn tuần hoàn… / Đến cui cuộc đời người ta quét ch ra/ Vì ng rác trong khu nhà chut (Quét rác).

Những lo toan, bao góc khuất của những thân phận người nghèo được dần khám phá. Tết của người công nhân góa ph là một ví dụ về nỗi đời cơ cực thông qua việc nhà thơ liệt kê ra hàng loạt nỗi trắc trở, thiếu thốn, khó nhọc trong hành trình cuộc đời. Ch cầm tháng lương nép vào bóng đêm/ ngoài kia/ những vì sao git mình tr gic/ những bước chân âm thm tháng chp/ gi nhau v sau tiếng kng tan ca// chị ước bu trời không có mùa đông/ cho những đứa con thơ đừng đòi mua áo m/ cho bà m gy còm đêm sương ướt đẫm/ nhng chén cơm rơi run rẩy phía sau ngày// Tiếng kng mùa này không cha ni giấc mơ/ sau buổi tan ca/ ch nghe âm vang t quê nhà réo rt/ nhng tấm áo đàn con se thắt/ cái tết nghèo – giá tr thặng dư// Đêm giao thừa khói bếp lạnh như đông/ nhìn lũ trẻ mơ về nhau chiếc áo/ nơi chái bếp xuân về dăm ký gạo/ với dưa cà cơm mắm đợi mùa sang.

Sự trăn trở, day dứt, thảng thốt về hạnh phúc và khổ đau của đồng loại đã thôi thúc anh cất lên tiếng nói từ chính trái tim yêu của mình để lan tỏa yêu thương.

Mỗi năm dăm trận bão lùa/ Đồng hoang t do my mùa trng tay/ vịn đêm em bước qua ngày/ Nước ngp ngang ngc tim dày vết đau// Vách thưa chìm đáy sông sâu/ Khăn tang trắng toát mái đầu em tôi/ M trôi v phía dòng khơi/ Mình em lng gia bi bời khói hương! (Em gia min Trung).

Phùng Hiệu vốn là một nhà báo, đồng thời anh cũng là người làm nghề xây dựng, nên đôi lúc anh tận mắt chứng kiến cảnh người dân bị tai nạn giao thông khi anh đi tác nghiệp hay người  công nhân gặp nạn khi đang làm công trình…  Lòng anh chùng xuống, rưng rưng; bởi có điều gì đó nghe não nề, chua chát… “anh bị xóa tên”. Sự vô thường, mong manh của kiếp người đặt ra nhiều câu hỏi day dứt cho người đang sống.

Anh rơi xuống t tng 18

Theo khu lnh bo h an toàn

Cánh ca dự án đóng im…

… Anh b xóa tên

Như chưa bao giờ hin diện nơi đậy…

(S mt tích của người công nhân)

Bên cạnh nỗi suy tư trăn trở của cái tôi cá nhân, Phùng Hiệu còn chuyển tải những suy ngẫm về thân phận con người thời đại, bao tổn thương, mất mát đã và đang xảy cùng với những dự cảm về tương lai của dân tộc. Các anh không v mắt đảo rưng rưng… Cánh chim bám binBiên bn ch quyn có thể xem là những bài thơ hay. Bởi ở đó nhà thơ thể hiện rõ nét nhất tình cảm, ý thức trách nhiệm, sự khẳng khái và cả những lo âu của anh đối với chủ quyền biển đảo, lãnh thổ quốc gia.

Thời gian và tình người trở thành thứ tài sản quý giá nhất đối với con người thời hiện đại. Do đó, người đọc dễ nhận ra yếu tố thời gian và mối quan hệ giữa con người với con người được Phùng Hiệu quan tâm hơn tất cả. Những bài thơ: Giấc mơ hiện thc, Tết của người công nhân góa phụ, Phía sau ánh đèn lừa di, Cuộc mưu sinh, Sa thi một cơn mơ, Kẻ h bình minh… đã phần nào chứng minh cho điều tôi vừa nói ở trên. Nhưng có một sự thật và đồng thời cũng là nghịch lý khi càng quan tâm đến con người và thời gian thì nhà thơ lại càng nhận ra những bất cập, thậm chí là mâu thuẫn, xung đột phũ phàng với hiện tại. Do vậy, nhà thơ phải trầm tĩnh để nhận diện cuộc sống và con người trong cái nhìn đa chiều, nhất là nhìn sâu vào bản thể cá nhân và cuộc sống đời thường.

Với lối tư duy đa chiều, thơ Phùng Hiệu trở nên giàu hàm lượng nghĩa, chuyển tải được nhiều vấn đề cấp thiết, những nghịch lý của xã hội, đặc biệt là những thân phận bé mọn trong cõi nhân sinh rộng lớn này. Nhà thơ trăn trở, đối thoại và gieo vào thơ những cảm thức mới để đưa thơ gần gũi với đời hơn.

Hành trình sáng tạo nghệ thuật nói chung, thơ ca nói riêng là một hành trình đầy khó nhọc, lắm thác ghềnh. Vì thế đã dấn thân và dám hy sinh để theo đuổi đam mê đó là điều không phải ai cũng đủ can đảm để làm được. Với Phùng Hiệu, tôi tin anh có đủ dũng khí và hội đủ những yếu tố, phẩm chất thi sĩ để anh đi, để anh thực hiện đến đích khát vọng của đời mình.

Nguồn: https://vanvn.vn/

Bài viết liên quan

Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm