TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Nỗi niềm suy tư, trăn trở về con người và thời gian trong thơ Phùng Hiệu

Nỗi niềm suy tư, trăn trở về con người và thời gian trong thơ Phùng Hiệu

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-05-17 18:18:49
mail facebook google pos stwis
4189 lượt xem

NGUYỄN VĂN HÒA

Nhà thơ Phùng Hiệu không chỉ tư duy bằng ngôn ngữ mà còn tư duy bởi những ám ảnh của biểu tượng, nỗi ưu tư về thân phận con người. Chính điều này tạo nên chiều sâu mỹ cảm trong thế giới nghệ thuật thơ anh.

Nhà thơ Phùng Hiệu

Thơ Phùng Hiệu càng về sau cảm thức hiện sinh càng được thể hiện rõ nét. Vì thế thơ anh đã tạo được những dấu ấn nhất định đối với bạn đọc. Nếu các tập thơ trước đây như: Tình không dám ng (NXB Văn học, 2008); Thc gic (tập thơ, NXB Thanh Niên 2010) còn thiên về bày tỏ tình cảm có vẻ sướt mướt, vì phần nhiều viết theo lối truyền thống thì đến Trong thế gii ngụy trang (NXB Trẻ Wikibook, 2014), Du chân bin c (NXB Văn hóa Văn nghệ, 2018); Biên bn thặng dư (NXB Hội Nhà văn, 2019) đã dần chuyển sang hướng khác: thể nghiệm các hình thức biểu đạt mới, mở rộng biện độ tự do trong sáng tạo, phản ánh và lý giải hiện thực bề bộn, phức tạp của đời sống con người thời hiện đại.

Bởi Phùng Hiệu ý thức về con đường đến và đi cùng với thi ca nên anh đã tự biết điều chỉnh chính mình. Ngay từ khi bắt đầu sáng tác anh làm thơ theo kiểu truyền thống, nhưng khi đã tiếp cận với thực tế không gian thi ca đương đại thì Phùng Hiệu đã dần chuyển hướng để hòa nhập theo nhịp điệu ấy. Đây là sự cố gắng và nỗ lực rất đáng được ghi nhận đối với một cây bút thơ như anh.

Bởi theo anh, muốn làm nên bản sắc riêng thì phải chọn cho mình cách viết khác. Do vậy, Phùng Hiệu đã dần thay đổi cách thể hiện, bày tỏ tình cảm, thái độ của mình trong thơ. Anh từng giãi bày rằng: Cht mt ngày tôi nhn ra tôi/ Từng lang thang dưới bu tri chữ nghĩa/ Tôi nghe được tiếng hát của mưa/ Tiếng cười ca nng/ Tiếng nói ca c cây/ Tiếng rên ca mây/ Tiếng bun của đất…/ Tiếng núi đồi hoa c yêu nhau!// Tôi nghĩ thế gii này có th mất đi/ Nhưng còn li vần thơ và nhân cách (Ngôn ng lên ngôi).

Sự thức ngộ sâu sắc như vậy đã giúp Phùng Hiệu vững tin hơn để sống, để yêu và làm tròn bổn phận của một công dân chân chính, một nhà thơ luôn đứng về nhân dân, luôn ở bên những người lao động nghèo khổ, những số phận không may…

Phía sau hoàng hôn/ Tôi nhn diện được bóng đêm/ Là hành trình lương tri lộ din… (K h bình minh)

Trong thế gii ngy trang và Biên bn thặng dư của Phùng Hiệu là 2 tập thơ thể hiện rõ nét những dấu ấn cá nhân trong hành trình thể nghiệm theo cách viết mới, mang hơi thở của nhịp sống đương đại, là một bước nhảy vọt trên con đường sáng tạo nghệ thuật của Phùng Hiệu. Ở đó không chỉ mang đến cho độc giả những nội dung đa dạng mà còn độc đáo cả về hình thức nghệ thuật và giọng điệu thơ. Phùng Hiệu đã làm cuộc đối thoại với chính mình để tự tìm ra lối đi mới, tránh những cũ kĩ, sáo mòn… đưa thơ về với đời thực nhằm lý giải sự hiện tồn của con người trong một xã hội đầy biến động, nhiều nghịch lý và lắm bất an.

Nhà thơ Phùng Hiệu không chỉ tư duy bằng ngôn ngữ mà còn tư duy bởi những ám ảnh của biểu tượng, nỗi ưu tư về thân phận con người. Chính điều này tạo nên chiều sâu mỹ cảm trong thế giới nghệ thuật thơ anh.

Cái tôi trữ tình với nỗi suy tư trăn trở, chiêm nghiệm trở thành mạch nguồn chủ đạo xuyên suốt trong dọc đường thơ của Phùng Hiệu. Để rồi từ chính những chiêm nghiệm về hiện thực có vẻ như xô bồ, bất an đó, nhà thơ thức nhận sâu sắc hơn về lẽ sống, niềm tin ở cuộc đời này. Cái ác không có trong tâm hồn nhà thơ/ Cái ác không hình thành trong tư tưởng nhà văn/ Cái ác không tồn tại trong tư duy con người lương thiện/ Nó ch hin din ở nơi không có lương tri/ Và thường trú trong tim ca những con người khước từ đạo đức…/ S lãng mạn không mang đến nguy hại cho con người/ Ch có th làm nên tên tui (S lãng mn và cái ác).

Với nhà thơ Phùng Hiệu sáng tạo thi ca là cách để nhà thơ cảm thấy mình đang tồn tại và vững tin hơn để sống có ích, để chống lại bao điều vô nghĩa, phi lý, bất công vẫn cứ hiện tồn. Vì thế, anh đã cất công đi tìm “giấc mơ hiện thực” để bóc tách và tìm hiểu ngọn ngành làm thế nào để trở thành một con người tự do, bình đẳng theo đúng nghĩa của nó. Từ trong giấc mơ đó nhà thơ gửi gắm đến cuộc đời những trăn trở, thao thức, khát vọng của chính mình cho thực tại và cả tương lai phía trước. Nhưng dường như điều ấy vẫn chỉ là trong giấc mơ. Tôi đi tìm giấc mơ/ Mang tên công lý/ Trong sut hành trình tuyên chiến vi thặng dư/ Giấc mơ nhọc nhn trôi qua thiên niên k…// Trong mt ln kit sc mê man/ Tôi bt gp giấc mơ/ Giấc mơ tôi được làm người/ Một con người tht s t do/ Một con người mang tên bình đẳng/ Mt giấc mơ hiện thực/ Được hình thành trong tiu thuyết chiêm bao!

Thơ Phùng Hiệu không phải bài nào cũng hay nhưng lại có nhiều câu thơ hay. Bởi những câu thơ ấy bất chợt phụt hiện từ trong thẳm sâu tâm thức của anh trước một sự việc, hình ảnh nào đó của đời sống gây cho anh sự ám ảnh.

– Ch quét cả đời nhưng rác chảy về đâu

Khi du chân dm mòn tui tác

Và năm tháng rót dần khô cn…

 (Quét rác).

– Cuc sng bỗng dưng đảo ln/ Những cánh đồng trắng lưng phố xá… Người nông dân t nhiên mất đất/ Những cung đường t do siết cht… (Quy hoch t do).

– Chị đẩy cuộc đời về phía mưu sinh/ Từ gánh ve chai lm màu tri thc (Cuộc mưu sinh).

Khi nhìn vào chiếc ly/ Tôi bng thy c sông ngòi và đại dương trong đó/ Chảy miên man hình tượng ngôn t

Cht mt ngày tôi nhn ra tôi/ Từng lang thang dưới bu tri ch nghĩa

Tôi nghe được tiếng hát của mưa/ Tiếng cười ca nng…

Tôi nghĩ thế gii này có th s mất đi/ Nhưng còn li vần thơ nhân cách (Ngôn ng lên ngôi)

– Bng mt ngày da nt vết thương khô/ Những git nh r sâu vào tâm thc/ Nếu anh biết giữa đôi bờ hư thực/ Là mong manh s sng qu tim lành (Điểm danh quá kh).

S thật như những cơn mơ/ Và những cơn mơ luôn đánh lừa s tht

Phía sau bình minh/Tôi nhn diện được bóng đêm/Và sự tht luôn b đánh la/ Sau k h bình minh (K h bình minh)

Những câu thơ cất lên tiếng nói tâm trạng của nhân vật trữ tình, mang những thông điệp có ý nghĩa đối với cuộc sống. Tôi cho rằng đây chính là những câu thơ đẹp, mang giá trị nhân văn, bởi nó được viết ra như chính con tim anh mách bảo.

Nhiều từ ngữ, hình ảnh được nhà thơ sử dụng mang đậm tính hiện thực và hơi thở của nhịp sống đương đại.

Chị đẩy cuộc đời mình về phía mưu sinh/ Từ gánh ve chai lm màu tri thc/ Thành phố này văn minh phồn thc/ Rác chảy ra đường qua li tái sinh// Chị đẩy vào đời gic ng cu li/ Những đứa con thơ vật v trên va hè thành phố/ Đứa bán kẹo/ Đứa giác hơi/ Đứa đánh giầy/ Đứa rao vé s/ Nhng mảnh đời loang l du chân chim (Cuộc mưu sinh).

Vẫn còn đó bao mảnh đời đáng thương, bất hạnh. Từ thực tại khách quan nhà thơ quan sát và chuyển tải vào thơ bằng cái nhìn sẻ chia, xa xót. Trên cung đường quen thuc tui tên/ Mt bà lão chng gy bằng đôi tay vé số…/ Phía góc ch/ mt hình hài chất độc da cam/ Ú tng câu ai mua vé số…/ Nơi ngã tư đèn đỏ/ Anh thương binh lặng thm/ T chiến trường xưa lê đôi chân rách/ Li hát “Ngày tr v…” trên chiếc bàn vé s. Nhà thơ thốt lên trong tột cùng của nỗi đau bằng hành động và tiếng thở dài trĩu nặng, đầy khắc khoải. Ôi! Nhng t vé s chng minh s phận/ Tôi đau thương cầm mấy mươi nghìn…/ Không th nào xoa du nỗi đau/ Cho em bé đến trường/ Bng tiếng rao/ Vé s… (Đằng sau t vé s).

Cuộc sống thời mở cửa bên cạnh những điều tích cực thì vẫn còn đó biết bao bất cập, tiềm ẩn nhiều nguy cơ, thách thức, đánh đố con người, nhất là nơi phố thị. Bằng cách nói ẩn dụ nhà thơ Phùng Hiệu đã khái quát và chỉ ra được những giả tạo, lọc lừa từ “phía sau ánh đèn lừa dối” trong một thế giới xô lệch, được ngụy trang bởi lắm chiêu trò, mưu chước…

… Trong ánh đèn dối la/ nhan sắc được phô trương bằng những đường cong/ thân th/ bng sự ghen tuông, đố k, tranh giành/ em quên mt câu tam tòng tứ đức của cha già ngày đêm mong mỏi/ em hin diện như một nàng tiên chơi trò chuyển nhượng/ gia thế gii di lừa/ đam mê phó mặc/ hoang phí thanh xuân/ giu ct ái tình… Bng mt hôm/ em nhn ra mình đứng nơi góc phố/ cung đường ngã giá về đêm… Lời thơ nghẹn ngào, nỗi đau quặn thắt về nhân tình thế thái bởi cạm bẫy cuộc người, để rồi một ngày “em cũng đứng nơi góc phố, hành nghề buôn phấn bán hương”.  

Biên độ thẩm mỹ của từng bài thơ, câu thơ được mở rộng nhờ sự liên tưởng và đối sánh trong khuôn diện, cách nhìn, cách lý giải mang tính thời đại. Ri mt ngày nhan sắc được phô trương/ Bằng giá tr phn son, bằng đường con thân th/ Em tr thành cánh chim hoang lc/ Bay v phía vô cùng// Đêm tan…/ Những bước chân hoang ln v công s/ Em git mình tnh gic/ Và rã ri trong hạnh phúc thuê bao!// Đến mt ngày em nhn ra em/ Thì giấc mơ đã tan v chn cũ/ Chiếc Iphone thưa thớt khách hàng/ Một đêm vắng trên màn hình ế m/ Gi em v sa thi một cơn mơ (Sa thi một cơn mơ).

Nhà thơ nhìn thấy nỗi buồn đau và bao bất hạnh đổ dồn về những thân phận, kiếp người trong xã hội thời anh sống. Đọc bài thơ Quét rác, lòng ngổn ngang bao câu hỏi về con người, cuộc đời và cả cách đối xử “bất nhân” của chính đồng loại:

Ch quét cả đời nhưng rác chảy về đâu/ Khi dấu chân dm mòn tuổi tác/ Và năm tháng rót dần khô cạn/ Sáu mươi năm mà rác vẫn tuần hoàn… / Đến cui cuộc đời người ta quét ch ra/ Vì ng rác trong khu nhà chut (Quét rác).

Những lo toan, bao góc khuất của những thân phận người nghèo được dần khám phá. Tết của người công nhân góa ph là một ví dụ về nỗi đời cơ cực thông qua việc nhà thơ liệt kê ra hàng loạt nỗi trắc trở, thiếu thốn, khó nhọc trong hành trình cuộc đời. Ch cầm tháng lương nép vào bóng đêm/ ngoài kia/ những vì sao git mình tr gic/ những bước chân âm thm tháng chp/ gi nhau v sau tiếng kng tan ca// chị ước bu trời không có mùa đông/ cho những đứa con thơ đừng đòi mua áo m/ cho bà m gy còm đêm sương ướt đẫm/ nhng chén cơm rơi run rẩy phía sau ngày// Tiếng kng mùa này không cha ni giấc mơ/ sau buổi tan ca/ ch nghe âm vang t quê nhà réo rt/ nhng tấm áo đàn con se thắt/ cái tết nghèo – giá tr thặng dư// Đêm giao thừa khói bếp lạnh như đông/ nhìn lũ trẻ mơ về nhau chiếc áo/ nơi chái bếp xuân về dăm ký gạo/ với dưa cà cơm mắm đợi mùa sang.

Sự trăn trở, day dứt, thảng thốt về hạnh phúc và khổ đau của đồng loại đã thôi thúc anh cất lên tiếng nói từ chính trái tim yêu của mình để lan tỏa yêu thương.

Mỗi năm dăm trận bão lùa/ Đồng hoang t do my mùa trng tay/ vịn đêm em bước qua ngày/ Nước ngp ngang ngc tim dày vết đau// Vách thưa chìm đáy sông sâu/ Khăn tang trắng toát mái đầu em tôi/ M trôi v phía dòng khơi/ Mình em lng gia bi bời khói hương! (Em gia min Trung).

Phùng Hiệu vốn là một nhà báo, đồng thời anh cũng là người làm nghề xây dựng, nên đôi lúc anh tận mắt chứng kiến cảnh người dân bị tai nạn giao thông khi anh đi tác nghiệp hay người  công nhân gặp nạn khi đang làm công trình…  Lòng anh chùng xuống, rưng rưng; bởi có điều gì đó nghe não nề, chua chát… “anh bị xóa tên”. Sự vô thường, mong manh của kiếp người đặt ra nhiều câu hỏi day dứt cho người đang sống.

Anh rơi xuống t tng 18

Theo khu lnh bo h an toàn

Cánh ca dự án đóng im…

… Anh b xóa tên

Như chưa bao giờ hin diện nơi đậy…

(S mt tích của người công nhân)

Bên cạnh nỗi suy tư trăn trở của cái tôi cá nhân, Phùng Hiệu còn chuyển tải những suy ngẫm về thân phận con người thời đại, bao tổn thương, mất mát đã và đang xảy cùng với những dự cảm về tương lai của dân tộc. Các anh không v mắt đảo rưng rưng… Cánh chim bám binBiên bn ch quyn có thể xem là những bài thơ hay. Bởi ở đó nhà thơ thể hiện rõ nét nhất tình cảm, ý thức trách nhiệm, sự khẳng khái và cả những lo âu của anh đối với chủ quyền biển đảo, lãnh thổ quốc gia.

Thời gian và tình người trở thành thứ tài sản quý giá nhất đối với con người thời hiện đại. Do đó, người đọc dễ nhận ra yếu tố thời gian và mối quan hệ giữa con người với con người được Phùng Hiệu quan tâm hơn tất cả. Những bài thơ: Giấc mơ hiện thc, Tết của người công nhân góa phụ, Phía sau ánh đèn lừa di, Cuộc mưu sinh, Sa thi một cơn mơ, Kẻ h bình minh… đã phần nào chứng minh cho điều tôi vừa nói ở trên. Nhưng có một sự thật và đồng thời cũng là nghịch lý khi càng quan tâm đến con người và thời gian thì nhà thơ lại càng nhận ra những bất cập, thậm chí là mâu thuẫn, xung đột phũ phàng với hiện tại. Do vậy, nhà thơ phải trầm tĩnh để nhận diện cuộc sống và con người trong cái nhìn đa chiều, nhất là nhìn sâu vào bản thể cá nhân và cuộc sống đời thường.

Với lối tư duy đa chiều, thơ Phùng Hiệu trở nên giàu hàm lượng nghĩa, chuyển tải được nhiều vấn đề cấp thiết, những nghịch lý của xã hội, đặc biệt là những thân phận bé mọn trong cõi nhân sinh rộng lớn này. Nhà thơ trăn trở, đối thoại và gieo vào thơ những cảm thức mới để đưa thơ gần gũi với đời hơn.

Hành trình sáng tạo nghệ thuật nói chung, thơ ca nói riêng là một hành trình đầy khó nhọc, lắm thác ghềnh. Vì thế đã dấn thân và dám hy sinh để theo đuổi đam mê đó là điều không phải ai cũng đủ can đảm để làm được. Với Phùng Hiệu, tôi tin anh có đủ dũng khí và hội đủ những yếu tố, phẩm chất thi sĩ để anh đi, để anh thực hiện đến đích khát vọng của đời mình.

Nguồn: https://vanvn.vn/

Bài viết liên quan

Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm