TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Nỗi niềm suy tư, trăn trở về con người và thời gian trong thơ Phùng Hiệu

Nỗi niềm suy tư, trăn trở về con người và thời gian trong thơ Phùng Hiệu

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-05-17 18:18:49
mail facebook google pos stwis
3960 lượt xem

NGUYỄN VĂN HÒA

Nhà thơ Phùng Hiệu không chỉ tư duy bằng ngôn ngữ mà còn tư duy bởi những ám ảnh của biểu tượng, nỗi ưu tư về thân phận con người. Chính điều này tạo nên chiều sâu mỹ cảm trong thế giới nghệ thuật thơ anh.

Nhà thơ Phùng Hiệu

Thơ Phùng Hiệu càng về sau cảm thức hiện sinh càng được thể hiện rõ nét. Vì thế thơ anh đã tạo được những dấu ấn nhất định đối với bạn đọc. Nếu các tập thơ trước đây như: Tình không dám ng (NXB Văn học, 2008); Thc gic (tập thơ, NXB Thanh Niên 2010) còn thiên về bày tỏ tình cảm có vẻ sướt mướt, vì phần nhiều viết theo lối truyền thống thì đến Trong thế gii ngụy trang (NXB Trẻ Wikibook, 2014), Du chân bin c (NXB Văn hóa Văn nghệ, 2018); Biên bn thặng dư (NXB Hội Nhà văn, 2019) đã dần chuyển sang hướng khác: thể nghiệm các hình thức biểu đạt mới, mở rộng biện độ tự do trong sáng tạo, phản ánh và lý giải hiện thực bề bộn, phức tạp của đời sống con người thời hiện đại.

Bởi Phùng Hiệu ý thức về con đường đến và đi cùng với thi ca nên anh đã tự biết điều chỉnh chính mình. Ngay từ khi bắt đầu sáng tác anh làm thơ theo kiểu truyền thống, nhưng khi đã tiếp cận với thực tế không gian thi ca đương đại thì Phùng Hiệu đã dần chuyển hướng để hòa nhập theo nhịp điệu ấy. Đây là sự cố gắng và nỗ lực rất đáng được ghi nhận đối với một cây bút thơ như anh.

Bởi theo anh, muốn làm nên bản sắc riêng thì phải chọn cho mình cách viết khác. Do vậy, Phùng Hiệu đã dần thay đổi cách thể hiện, bày tỏ tình cảm, thái độ của mình trong thơ. Anh từng giãi bày rằng: Cht mt ngày tôi nhn ra tôi/ Từng lang thang dưới bu tri chữ nghĩa/ Tôi nghe được tiếng hát của mưa/ Tiếng cười ca nng/ Tiếng nói ca c cây/ Tiếng rên ca mây/ Tiếng bun của đất…/ Tiếng núi đồi hoa c yêu nhau!// Tôi nghĩ thế gii này có th mất đi/ Nhưng còn li vần thơ và nhân cách (Ngôn ng lên ngôi).

Sự thức ngộ sâu sắc như vậy đã giúp Phùng Hiệu vững tin hơn để sống, để yêu và làm tròn bổn phận của một công dân chân chính, một nhà thơ luôn đứng về nhân dân, luôn ở bên những người lao động nghèo khổ, những số phận không may…

Phía sau hoàng hôn/ Tôi nhn diện được bóng đêm/ Là hành trình lương tri lộ din… (K h bình minh)

Trong thế gii ngy trang và Biên bn thặng dư của Phùng Hiệu là 2 tập thơ thể hiện rõ nét những dấu ấn cá nhân trong hành trình thể nghiệm theo cách viết mới, mang hơi thở của nhịp sống đương đại, là một bước nhảy vọt trên con đường sáng tạo nghệ thuật của Phùng Hiệu. Ở đó không chỉ mang đến cho độc giả những nội dung đa dạng mà còn độc đáo cả về hình thức nghệ thuật và giọng điệu thơ. Phùng Hiệu đã làm cuộc đối thoại với chính mình để tự tìm ra lối đi mới, tránh những cũ kĩ, sáo mòn… đưa thơ về với đời thực nhằm lý giải sự hiện tồn của con người trong một xã hội đầy biến động, nhiều nghịch lý và lắm bất an.

Nhà thơ Phùng Hiệu không chỉ tư duy bằng ngôn ngữ mà còn tư duy bởi những ám ảnh của biểu tượng, nỗi ưu tư về thân phận con người. Chính điều này tạo nên chiều sâu mỹ cảm trong thế giới nghệ thuật thơ anh.

Cái tôi trữ tình với nỗi suy tư trăn trở, chiêm nghiệm trở thành mạch nguồn chủ đạo xuyên suốt trong dọc đường thơ của Phùng Hiệu. Để rồi từ chính những chiêm nghiệm về hiện thực có vẻ như xô bồ, bất an đó, nhà thơ thức nhận sâu sắc hơn về lẽ sống, niềm tin ở cuộc đời này. Cái ác không có trong tâm hồn nhà thơ/ Cái ác không hình thành trong tư tưởng nhà văn/ Cái ác không tồn tại trong tư duy con người lương thiện/ Nó ch hin din ở nơi không có lương tri/ Và thường trú trong tim ca những con người khước từ đạo đức…/ S lãng mạn không mang đến nguy hại cho con người/ Ch có th làm nên tên tui (S lãng mn và cái ác).

Với nhà thơ Phùng Hiệu sáng tạo thi ca là cách để nhà thơ cảm thấy mình đang tồn tại và vững tin hơn để sống có ích, để chống lại bao điều vô nghĩa, phi lý, bất công vẫn cứ hiện tồn. Vì thế, anh đã cất công đi tìm “giấc mơ hiện thực” để bóc tách và tìm hiểu ngọn ngành làm thế nào để trở thành một con người tự do, bình đẳng theo đúng nghĩa của nó. Từ trong giấc mơ đó nhà thơ gửi gắm đến cuộc đời những trăn trở, thao thức, khát vọng của chính mình cho thực tại và cả tương lai phía trước. Nhưng dường như điều ấy vẫn chỉ là trong giấc mơ. Tôi đi tìm giấc mơ/ Mang tên công lý/ Trong sut hành trình tuyên chiến vi thặng dư/ Giấc mơ nhọc nhn trôi qua thiên niên k…// Trong mt ln kit sc mê man/ Tôi bt gp giấc mơ/ Giấc mơ tôi được làm người/ Một con người tht s t do/ Một con người mang tên bình đẳng/ Mt giấc mơ hiện thực/ Được hình thành trong tiu thuyết chiêm bao!

Thơ Phùng Hiệu không phải bài nào cũng hay nhưng lại có nhiều câu thơ hay. Bởi những câu thơ ấy bất chợt phụt hiện từ trong thẳm sâu tâm thức của anh trước một sự việc, hình ảnh nào đó của đời sống gây cho anh sự ám ảnh.

– Ch quét cả đời nhưng rác chảy về đâu

Khi du chân dm mòn tui tác

Và năm tháng rót dần khô cn…

 (Quét rác).

– Cuc sng bỗng dưng đảo ln/ Những cánh đồng trắng lưng phố xá… Người nông dân t nhiên mất đất/ Những cung đường t do siết cht… (Quy hoch t do).

– Chị đẩy cuộc đời về phía mưu sinh/ Từ gánh ve chai lm màu tri thc (Cuộc mưu sinh).

Khi nhìn vào chiếc ly/ Tôi bng thy c sông ngòi và đại dương trong đó/ Chảy miên man hình tượng ngôn t

Cht mt ngày tôi nhn ra tôi/ Từng lang thang dưới bu tri ch nghĩa

Tôi nghe được tiếng hát của mưa/ Tiếng cười ca nng…

Tôi nghĩ thế gii này có th s mất đi/ Nhưng còn li vần thơ nhân cách (Ngôn ng lên ngôi)

– Bng mt ngày da nt vết thương khô/ Những git nh r sâu vào tâm thc/ Nếu anh biết giữa đôi bờ hư thực/ Là mong manh s sng qu tim lành (Điểm danh quá kh).

S thật như những cơn mơ/ Và những cơn mơ luôn đánh lừa s tht

Phía sau bình minh/Tôi nhn diện được bóng đêm/Và sự tht luôn b đánh la/ Sau k h bình minh (K h bình minh)

Những câu thơ cất lên tiếng nói tâm trạng của nhân vật trữ tình, mang những thông điệp có ý nghĩa đối với cuộc sống. Tôi cho rằng đây chính là những câu thơ đẹp, mang giá trị nhân văn, bởi nó được viết ra như chính con tim anh mách bảo.

Nhiều từ ngữ, hình ảnh được nhà thơ sử dụng mang đậm tính hiện thực và hơi thở của nhịp sống đương đại.

Chị đẩy cuộc đời mình về phía mưu sinh/ Từ gánh ve chai lm màu tri thc/ Thành phố này văn minh phồn thc/ Rác chảy ra đường qua li tái sinh// Chị đẩy vào đời gic ng cu li/ Những đứa con thơ vật v trên va hè thành phố/ Đứa bán kẹo/ Đứa giác hơi/ Đứa đánh giầy/ Đứa rao vé s/ Nhng mảnh đời loang l du chân chim (Cuộc mưu sinh).

Vẫn còn đó bao mảnh đời đáng thương, bất hạnh. Từ thực tại khách quan nhà thơ quan sát và chuyển tải vào thơ bằng cái nhìn sẻ chia, xa xót. Trên cung đường quen thuc tui tên/ Mt bà lão chng gy bằng đôi tay vé số…/ Phía góc ch/ mt hình hài chất độc da cam/ Ú tng câu ai mua vé số…/ Nơi ngã tư đèn đỏ/ Anh thương binh lặng thm/ T chiến trường xưa lê đôi chân rách/ Li hát “Ngày tr v…” trên chiếc bàn vé s. Nhà thơ thốt lên trong tột cùng của nỗi đau bằng hành động và tiếng thở dài trĩu nặng, đầy khắc khoải. Ôi! Nhng t vé s chng minh s phận/ Tôi đau thương cầm mấy mươi nghìn…/ Không th nào xoa du nỗi đau/ Cho em bé đến trường/ Bng tiếng rao/ Vé s… (Đằng sau t vé s).

Cuộc sống thời mở cửa bên cạnh những điều tích cực thì vẫn còn đó biết bao bất cập, tiềm ẩn nhiều nguy cơ, thách thức, đánh đố con người, nhất là nơi phố thị. Bằng cách nói ẩn dụ nhà thơ Phùng Hiệu đã khái quát và chỉ ra được những giả tạo, lọc lừa từ “phía sau ánh đèn lừa dối” trong một thế giới xô lệch, được ngụy trang bởi lắm chiêu trò, mưu chước…

… Trong ánh đèn dối la/ nhan sắc được phô trương bằng những đường cong/ thân th/ bng sự ghen tuông, đố k, tranh giành/ em quên mt câu tam tòng tứ đức của cha già ngày đêm mong mỏi/ em hin diện như một nàng tiên chơi trò chuyển nhượng/ gia thế gii di lừa/ đam mê phó mặc/ hoang phí thanh xuân/ giu ct ái tình… Bng mt hôm/ em nhn ra mình đứng nơi góc phố/ cung đường ngã giá về đêm… Lời thơ nghẹn ngào, nỗi đau quặn thắt về nhân tình thế thái bởi cạm bẫy cuộc người, để rồi một ngày “em cũng đứng nơi góc phố, hành nghề buôn phấn bán hương”.  

Biên độ thẩm mỹ của từng bài thơ, câu thơ được mở rộng nhờ sự liên tưởng và đối sánh trong khuôn diện, cách nhìn, cách lý giải mang tính thời đại. Ri mt ngày nhan sắc được phô trương/ Bằng giá tr phn son, bằng đường con thân th/ Em tr thành cánh chim hoang lc/ Bay v phía vô cùng// Đêm tan…/ Những bước chân hoang ln v công s/ Em git mình tnh gic/ Và rã ri trong hạnh phúc thuê bao!// Đến mt ngày em nhn ra em/ Thì giấc mơ đã tan v chn cũ/ Chiếc Iphone thưa thớt khách hàng/ Một đêm vắng trên màn hình ế m/ Gi em v sa thi một cơn mơ (Sa thi một cơn mơ).

Nhà thơ nhìn thấy nỗi buồn đau và bao bất hạnh đổ dồn về những thân phận, kiếp người trong xã hội thời anh sống. Đọc bài thơ Quét rác, lòng ngổn ngang bao câu hỏi về con người, cuộc đời và cả cách đối xử “bất nhân” của chính đồng loại:

Ch quét cả đời nhưng rác chảy về đâu/ Khi dấu chân dm mòn tuổi tác/ Và năm tháng rót dần khô cạn/ Sáu mươi năm mà rác vẫn tuần hoàn… / Đến cui cuộc đời người ta quét ch ra/ Vì ng rác trong khu nhà chut (Quét rác).

Những lo toan, bao góc khuất của những thân phận người nghèo được dần khám phá. Tết của người công nhân góa ph là một ví dụ về nỗi đời cơ cực thông qua việc nhà thơ liệt kê ra hàng loạt nỗi trắc trở, thiếu thốn, khó nhọc trong hành trình cuộc đời. Ch cầm tháng lương nép vào bóng đêm/ ngoài kia/ những vì sao git mình tr gic/ những bước chân âm thm tháng chp/ gi nhau v sau tiếng kng tan ca// chị ước bu trời không có mùa đông/ cho những đứa con thơ đừng đòi mua áo m/ cho bà m gy còm đêm sương ướt đẫm/ nhng chén cơm rơi run rẩy phía sau ngày// Tiếng kng mùa này không cha ni giấc mơ/ sau buổi tan ca/ ch nghe âm vang t quê nhà réo rt/ nhng tấm áo đàn con se thắt/ cái tết nghèo – giá tr thặng dư// Đêm giao thừa khói bếp lạnh như đông/ nhìn lũ trẻ mơ về nhau chiếc áo/ nơi chái bếp xuân về dăm ký gạo/ với dưa cà cơm mắm đợi mùa sang.

Sự trăn trở, day dứt, thảng thốt về hạnh phúc và khổ đau của đồng loại đã thôi thúc anh cất lên tiếng nói từ chính trái tim yêu của mình để lan tỏa yêu thương.

Mỗi năm dăm trận bão lùa/ Đồng hoang t do my mùa trng tay/ vịn đêm em bước qua ngày/ Nước ngp ngang ngc tim dày vết đau// Vách thưa chìm đáy sông sâu/ Khăn tang trắng toát mái đầu em tôi/ M trôi v phía dòng khơi/ Mình em lng gia bi bời khói hương! (Em gia min Trung).

Phùng Hiệu vốn là một nhà báo, đồng thời anh cũng là người làm nghề xây dựng, nên đôi lúc anh tận mắt chứng kiến cảnh người dân bị tai nạn giao thông khi anh đi tác nghiệp hay người  công nhân gặp nạn khi đang làm công trình…  Lòng anh chùng xuống, rưng rưng; bởi có điều gì đó nghe não nề, chua chát… “anh bị xóa tên”. Sự vô thường, mong manh của kiếp người đặt ra nhiều câu hỏi day dứt cho người đang sống.

Anh rơi xuống t tng 18

Theo khu lnh bo h an toàn

Cánh ca dự án đóng im…

… Anh b xóa tên

Như chưa bao giờ hin diện nơi đậy…

(S mt tích của người công nhân)

Bên cạnh nỗi suy tư trăn trở của cái tôi cá nhân, Phùng Hiệu còn chuyển tải những suy ngẫm về thân phận con người thời đại, bao tổn thương, mất mát đã và đang xảy cùng với những dự cảm về tương lai của dân tộc. Các anh không v mắt đảo rưng rưng… Cánh chim bám binBiên bn ch quyn có thể xem là những bài thơ hay. Bởi ở đó nhà thơ thể hiện rõ nét nhất tình cảm, ý thức trách nhiệm, sự khẳng khái và cả những lo âu của anh đối với chủ quyền biển đảo, lãnh thổ quốc gia.

Thời gian và tình người trở thành thứ tài sản quý giá nhất đối với con người thời hiện đại. Do đó, người đọc dễ nhận ra yếu tố thời gian và mối quan hệ giữa con người với con người được Phùng Hiệu quan tâm hơn tất cả. Những bài thơ: Giấc mơ hiện thc, Tết của người công nhân góa phụ, Phía sau ánh đèn lừa di, Cuộc mưu sinh, Sa thi một cơn mơ, Kẻ h bình minh… đã phần nào chứng minh cho điều tôi vừa nói ở trên. Nhưng có một sự thật và đồng thời cũng là nghịch lý khi càng quan tâm đến con người và thời gian thì nhà thơ lại càng nhận ra những bất cập, thậm chí là mâu thuẫn, xung đột phũ phàng với hiện tại. Do vậy, nhà thơ phải trầm tĩnh để nhận diện cuộc sống và con người trong cái nhìn đa chiều, nhất là nhìn sâu vào bản thể cá nhân và cuộc sống đời thường.

Với lối tư duy đa chiều, thơ Phùng Hiệu trở nên giàu hàm lượng nghĩa, chuyển tải được nhiều vấn đề cấp thiết, những nghịch lý của xã hội, đặc biệt là những thân phận bé mọn trong cõi nhân sinh rộng lớn này. Nhà thơ trăn trở, đối thoại và gieo vào thơ những cảm thức mới để đưa thơ gần gũi với đời hơn.

Hành trình sáng tạo nghệ thuật nói chung, thơ ca nói riêng là một hành trình đầy khó nhọc, lắm thác ghềnh. Vì thế đã dấn thân và dám hy sinh để theo đuổi đam mê đó là điều không phải ai cũng đủ can đảm để làm được. Với Phùng Hiệu, tôi tin anh có đủ dũng khí và hội đủ những yếu tố, phẩm chất thi sĩ để anh đi, để anh thực hiện đến đích khát vọng của đời mình.

Nguồn: https://vanvn.vn/

Bài viết liên quan

Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm
Nhà lý luận phê bình Đỗ Nguyên Thương và tập thơ “Tìm về miền ký ức”
Tôi quen nhà giáo, nhà Lý luận Phê bình văn học Đỗ Nguyên Thương thật tình cờ trong buổi Tọa đàm về Thơ 1-2-3 do nhà thơ Phan Hoàng chủ trì có sự phối hợp của Hội nhà văn Cần Thơ và khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn tường Đại học Cần Thơ.
Xem thêm
Tư tưởng nhân dân anh hùng
1. Vì tình yêu quê hương đất nước, Trần Bảo Định đến với văn chương. Nhà văn Long An để lại dấu ấn đáng kể trong sinh hoạt văn chương từ những năm 2010 đến nay. Bên cạnh bộ sách Đất và người Nam Bộ mến yêu gồm 14 tập truyện ngắn, Trần Bảo Định còn có 6 tập thơ, 5 tập tiểu luận phê bình. Năm 2024, nhà văn trình làng tuyển tập Đất Việt trời Nam liệt truyện gồm 3 tập (thượng, trung, hạ) do Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành. Tái hiện diễn trình lịch sử vùng đất Nam Bộ từ hồi một 1620, hồi hai 1859, đến hồi ba 1900, tuyển tập có thể xem như trường thiên tiểu thuyết ca ngợi tinh thần đấu tranh yêu nước anh dũng của nhân dân Nam Bộ, như lời giới thiệu của Nhà xuất bản: “Chính các anh hùng vô danh mới thể hiện toàn bộ chủ đích nghệ thuật của Trần Bảo Định, cho thấy tư tưởng: nhân dân anh hùng!”
Xem thêm
Thơ tình Nguyên Bình đắm đuối
(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Các nhà thơ từ cổ chí kim không nhiều thì ít đều viết thơ tình, điều đó không có gì lạ; vì tâm hồn họ lãng mạn, mơ mộng, tôn thờ phái đẹp. Nhà thơ Nguyên Bình không nằm ngoài số đó. Anh viết văn làm thơ từ thời sinh viên, cả trước và sau năm 1975. Những bài thơ tình, anh không dám trao tay cô nữ sinh xinh đẹp xứ Huế anh yêu say đắm: Vẫn mãi “Là bài thơ còn hoài trong vở/Giữa giờ chơi mang đến lại mang về” thơ Đỗ Trung Quân.
Xem thêm
Mỹ cảm của kiểu tự sự trong suốt trong tập tản văn “Nỗi buồn trong suốt” của Nguyễn Đức Phú Thọ
Tản văn là một thể loại dễ tiếp cận với mọi mặt của đời sống thông qua những lát cắt hiện thực, nhưng trung tâm tinh thần của thể loại này lại là cái tôi tư tưởng, cảm xúc của người nghệ sĩ. Tản văn vừa đậm chất trữ tình, vừa mang bản chất tự sự. Mỗi tác phẩm là một cách diễn giải về “Thế giới như tôi thấy”, đồng thời cũng là một tấm gương phản chiếu cấu trúc nội tâm của nhà văn.
Xem thêm
Cảm nhận thơ Trần Xuân Hóa từ một góc nhìn đa cảm
Bài viết của nhà thơ CCB Trần Trí Thông
Xem thêm
Hơi thở đất quê trong miền nhớ của Huỳnh Khang
Chủ đề và nội dung trong MIỀN NHỚ xoay quanh ký ức quê hương, tình mẫu tử, nghĩa làng nghĩa xóm, thiên nhiên, tình yêu đôi lứa, nỗi buồn mất mát, cùng những triết lý đời thường.
Xem thêm
Tiếng văn từ phía “bạn nguồn”
Nguyễn Minh Sơn, Hồ Tấn Vũ và Nguyễn Thị Như Hiền là ba cây bút thuộc thế hệ 7X và 9X
Xem thêm
Về trên dặm trường thiên lý “Miền Ô châu”
Tiếp theo các cuốn tản văn Sông vẫn chảy đời sông (NXB Thanh Niên 2023), Bốn mùa thương nhớ (NXB Thanh Niên 2024), nhà văn Nguyễn Linh Giang vừa ra mắt cuốn tản văn mới: “Miền Ô Châu” (NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2025).
Xem thêm
Thơ ca chào đón Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Cách mạng tháng Tám - 1945 thành công, mở ra trang sử vàng chói lọi cho dân tộc. Bác Hồ đọc “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập. Hai tiếng Việt Nam vang lên đầy phấn khởi, tự hào trên trường quốc tế, đã khơi nguồn, làm bừng dậy biết bao cảm hứng về thơ ca, nhạc, họa thật mới mẻ, mãnh liệt và sôi nổi, làm không khí văn nghệ đổi sắc thay da. Từ đây nền văn học của ta chỉ còn duy nhất một trào lưu là văn học cách mạng.
Xem thêm