TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Nỗi niềm suy tư, trăn trở về con người và thời gian trong thơ Phùng Hiệu

Nỗi niềm suy tư, trăn trở về con người và thời gian trong thơ Phùng Hiệu

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-05-17 18:18:49
mail facebook google pos stwis
4257 lượt xem

NGUYỄN VĂN HÒA

Nhà thơ Phùng Hiệu không chỉ tư duy bằng ngôn ngữ mà còn tư duy bởi những ám ảnh của biểu tượng, nỗi ưu tư về thân phận con người. Chính điều này tạo nên chiều sâu mỹ cảm trong thế giới nghệ thuật thơ anh.

Nhà thơ Phùng Hiệu

Thơ Phùng Hiệu càng về sau cảm thức hiện sinh càng được thể hiện rõ nét. Vì thế thơ anh đã tạo được những dấu ấn nhất định đối với bạn đọc. Nếu các tập thơ trước đây như: Tình không dám ng (NXB Văn học, 2008); Thc gic (tập thơ, NXB Thanh Niên 2010) còn thiên về bày tỏ tình cảm có vẻ sướt mướt, vì phần nhiều viết theo lối truyền thống thì đến Trong thế gii ngụy trang (NXB Trẻ Wikibook, 2014), Du chân bin c (NXB Văn hóa Văn nghệ, 2018); Biên bn thặng dư (NXB Hội Nhà văn, 2019) đã dần chuyển sang hướng khác: thể nghiệm các hình thức biểu đạt mới, mở rộng biện độ tự do trong sáng tạo, phản ánh và lý giải hiện thực bề bộn, phức tạp của đời sống con người thời hiện đại.

Bởi Phùng Hiệu ý thức về con đường đến và đi cùng với thi ca nên anh đã tự biết điều chỉnh chính mình. Ngay từ khi bắt đầu sáng tác anh làm thơ theo kiểu truyền thống, nhưng khi đã tiếp cận với thực tế không gian thi ca đương đại thì Phùng Hiệu đã dần chuyển hướng để hòa nhập theo nhịp điệu ấy. Đây là sự cố gắng và nỗ lực rất đáng được ghi nhận đối với một cây bút thơ như anh.

Bởi theo anh, muốn làm nên bản sắc riêng thì phải chọn cho mình cách viết khác. Do vậy, Phùng Hiệu đã dần thay đổi cách thể hiện, bày tỏ tình cảm, thái độ của mình trong thơ. Anh từng giãi bày rằng: Cht mt ngày tôi nhn ra tôi/ Từng lang thang dưới bu tri chữ nghĩa/ Tôi nghe được tiếng hát của mưa/ Tiếng cười ca nng/ Tiếng nói ca c cây/ Tiếng rên ca mây/ Tiếng bun của đất…/ Tiếng núi đồi hoa c yêu nhau!// Tôi nghĩ thế gii này có th mất đi/ Nhưng còn li vần thơ và nhân cách (Ngôn ng lên ngôi).

Sự thức ngộ sâu sắc như vậy đã giúp Phùng Hiệu vững tin hơn để sống, để yêu và làm tròn bổn phận của một công dân chân chính, một nhà thơ luôn đứng về nhân dân, luôn ở bên những người lao động nghèo khổ, những số phận không may…

Phía sau hoàng hôn/ Tôi nhn diện được bóng đêm/ Là hành trình lương tri lộ din… (K h bình minh)

Trong thế gii ngy trang và Biên bn thặng dư của Phùng Hiệu là 2 tập thơ thể hiện rõ nét những dấu ấn cá nhân trong hành trình thể nghiệm theo cách viết mới, mang hơi thở của nhịp sống đương đại, là một bước nhảy vọt trên con đường sáng tạo nghệ thuật của Phùng Hiệu. Ở đó không chỉ mang đến cho độc giả những nội dung đa dạng mà còn độc đáo cả về hình thức nghệ thuật và giọng điệu thơ. Phùng Hiệu đã làm cuộc đối thoại với chính mình để tự tìm ra lối đi mới, tránh những cũ kĩ, sáo mòn… đưa thơ về với đời thực nhằm lý giải sự hiện tồn của con người trong một xã hội đầy biến động, nhiều nghịch lý và lắm bất an.

Nhà thơ Phùng Hiệu không chỉ tư duy bằng ngôn ngữ mà còn tư duy bởi những ám ảnh của biểu tượng, nỗi ưu tư về thân phận con người. Chính điều này tạo nên chiều sâu mỹ cảm trong thế giới nghệ thuật thơ anh.

Cái tôi trữ tình với nỗi suy tư trăn trở, chiêm nghiệm trở thành mạch nguồn chủ đạo xuyên suốt trong dọc đường thơ của Phùng Hiệu. Để rồi từ chính những chiêm nghiệm về hiện thực có vẻ như xô bồ, bất an đó, nhà thơ thức nhận sâu sắc hơn về lẽ sống, niềm tin ở cuộc đời này. Cái ác không có trong tâm hồn nhà thơ/ Cái ác không hình thành trong tư tưởng nhà văn/ Cái ác không tồn tại trong tư duy con người lương thiện/ Nó ch hin din ở nơi không có lương tri/ Và thường trú trong tim ca những con người khước từ đạo đức…/ S lãng mạn không mang đến nguy hại cho con người/ Ch có th làm nên tên tui (S lãng mn và cái ác).

Với nhà thơ Phùng Hiệu sáng tạo thi ca là cách để nhà thơ cảm thấy mình đang tồn tại và vững tin hơn để sống có ích, để chống lại bao điều vô nghĩa, phi lý, bất công vẫn cứ hiện tồn. Vì thế, anh đã cất công đi tìm “giấc mơ hiện thực” để bóc tách và tìm hiểu ngọn ngành làm thế nào để trở thành một con người tự do, bình đẳng theo đúng nghĩa của nó. Từ trong giấc mơ đó nhà thơ gửi gắm đến cuộc đời những trăn trở, thao thức, khát vọng của chính mình cho thực tại và cả tương lai phía trước. Nhưng dường như điều ấy vẫn chỉ là trong giấc mơ. Tôi đi tìm giấc mơ/ Mang tên công lý/ Trong sut hành trình tuyên chiến vi thặng dư/ Giấc mơ nhọc nhn trôi qua thiên niên k…// Trong mt ln kit sc mê man/ Tôi bt gp giấc mơ/ Giấc mơ tôi được làm người/ Một con người tht s t do/ Một con người mang tên bình đẳng/ Mt giấc mơ hiện thực/ Được hình thành trong tiu thuyết chiêm bao!

Thơ Phùng Hiệu không phải bài nào cũng hay nhưng lại có nhiều câu thơ hay. Bởi những câu thơ ấy bất chợt phụt hiện từ trong thẳm sâu tâm thức của anh trước một sự việc, hình ảnh nào đó của đời sống gây cho anh sự ám ảnh.

– Ch quét cả đời nhưng rác chảy về đâu

Khi du chân dm mòn tui tác

Và năm tháng rót dần khô cn…

 (Quét rác).

– Cuc sng bỗng dưng đảo ln/ Những cánh đồng trắng lưng phố xá… Người nông dân t nhiên mất đất/ Những cung đường t do siết cht… (Quy hoch t do).

– Chị đẩy cuộc đời về phía mưu sinh/ Từ gánh ve chai lm màu tri thc (Cuộc mưu sinh).

Khi nhìn vào chiếc ly/ Tôi bng thy c sông ngòi và đại dương trong đó/ Chảy miên man hình tượng ngôn t

Cht mt ngày tôi nhn ra tôi/ Từng lang thang dưới bu tri ch nghĩa

Tôi nghe được tiếng hát của mưa/ Tiếng cười ca nng…

Tôi nghĩ thế gii này có th s mất đi/ Nhưng còn li vần thơ nhân cách (Ngôn ng lên ngôi)

– Bng mt ngày da nt vết thương khô/ Những git nh r sâu vào tâm thc/ Nếu anh biết giữa đôi bờ hư thực/ Là mong manh s sng qu tim lành (Điểm danh quá kh).

S thật như những cơn mơ/ Và những cơn mơ luôn đánh lừa s tht

Phía sau bình minh/Tôi nhn diện được bóng đêm/Và sự tht luôn b đánh la/ Sau k h bình minh (K h bình minh)

Những câu thơ cất lên tiếng nói tâm trạng của nhân vật trữ tình, mang những thông điệp có ý nghĩa đối với cuộc sống. Tôi cho rằng đây chính là những câu thơ đẹp, mang giá trị nhân văn, bởi nó được viết ra như chính con tim anh mách bảo.

Nhiều từ ngữ, hình ảnh được nhà thơ sử dụng mang đậm tính hiện thực và hơi thở của nhịp sống đương đại.

Chị đẩy cuộc đời mình về phía mưu sinh/ Từ gánh ve chai lm màu tri thc/ Thành phố này văn minh phồn thc/ Rác chảy ra đường qua li tái sinh// Chị đẩy vào đời gic ng cu li/ Những đứa con thơ vật v trên va hè thành phố/ Đứa bán kẹo/ Đứa giác hơi/ Đứa đánh giầy/ Đứa rao vé s/ Nhng mảnh đời loang l du chân chim (Cuộc mưu sinh).

Vẫn còn đó bao mảnh đời đáng thương, bất hạnh. Từ thực tại khách quan nhà thơ quan sát và chuyển tải vào thơ bằng cái nhìn sẻ chia, xa xót. Trên cung đường quen thuc tui tên/ Mt bà lão chng gy bằng đôi tay vé số…/ Phía góc ch/ mt hình hài chất độc da cam/ Ú tng câu ai mua vé số…/ Nơi ngã tư đèn đỏ/ Anh thương binh lặng thm/ T chiến trường xưa lê đôi chân rách/ Li hát “Ngày tr v…” trên chiếc bàn vé s. Nhà thơ thốt lên trong tột cùng của nỗi đau bằng hành động và tiếng thở dài trĩu nặng, đầy khắc khoải. Ôi! Nhng t vé s chng minh s phận/ Tôi đau thương cầm mấy mươi nghìn…/ Không th nào xoa du nỗi đau/ Cho em bé đến trường/ Bng tiếng rao/ Vé s… (Đằng sau t vé s).

Cuộc sống thời mở cửa bên cạnh những điều tích cực thì vẫn còn đó biết bao bất cập, tiềm ẩn nhiều nguy cơ, thách thức, đánh đố con người, nhất là nơi phố thị. Bằng cách nói ẩn dụ nhà thơ Phùng Hiệu đã khái quát và chỉ ra được những giả tạo, lọc lừa từ “phía sau ánh đèn lừa dối” trong một thế giới xô lệch, được ngụy trang bởi lắm chiêu trò, mưu chước…

… Trong ánh đèn dối la/ nhan sắc được phô trương bằng những đường cong/ thân th/ bng sự ghen tuông, đố k, tranh giành/ em quên mt câu tam tòng tứ đức của cha già ngày đêm mong mỏi/ em hin diện như một nàng tiên chơi trò chuyển nhượng/ gia thế gii di lừa/ đam mê phó mặc/ hoang phí thanh xuân/ giu ct ái tình… Bng mt hôm/ em nhn ra mình đứng nơi góc phố/ cung đường ngã giá về đêm… Lời thơ nghẹn ngào, nỗi đau quặn thắt về nhân tình thế thái bởi cạm bẫy cuộc người, để rồi một ngày “em cũng đứng nơi góc phố, hành nghề buôn phấn bán hương”.  

Biên độ thẩm mỹ của từng bài thơ, câu thơ được mở rộng nhờ sự liên tưởng và đối sánh trong khuôn diện, cách nhìn, cách lý giải mang tính thời đại. Ri mt ngày nhan sắc được phô trương/ Bằng giá tr phn son, bằng đường con thân th/ Em tr thành cánh chim hoang lc/ Bay v phía vô cùng// Đêm tan…/ Những bước chân hoang ln v công s/ Em git mình tnh gic/ Và rã ri trong hạnh phúc thuê bao!// Đến mt ngày em nhn ra em/ Thì giấc mơ đã tan v chn cũ/ Chiếc Iphone thưa thớt khách hàng/ Một đêm vắng trên màn hình ế m/ Gi em v sa thi một cơn mơ (Sa thi một cơn mơ).

Nhà thơ nhìn thấy nỗi buồn đau và bao bất hạnh đổ dồn về những thân phận, kiếp người trong xã hội thời anh sống. Đọc bài thơ Quét rác, lòng ngổn ngang bao câu hỏi về con người, cuộc đời và cả cách đối xử “bất nhân” của chính đồng loại:

Ch quét cả đời nhưng rác chảy về đâu/ Khi dấu chân dm mòn tuổi tác/ Và năm tháng rót dần khô cạn/ Sáu mươi năm mà rác vẫn tuần hoàn… / Đến cui cuộc đời người ta quét ch ra/ Vì ng rác trong khu nhà chut (Quét rác).

Những lo toan, bao góc khuất của những thân phận người nghèo được dần khám phá. Tết của người công nhân góa ph là một ví dụ về nỗi đời cơ cực thông qua việc nhà thơ liệt kê ra hàng loạt nỗi trắc trở, thiếu thốn, khó nhọc trong hành trình cuộc đời. Ch cầm tháng lương nép vào bóng đêm/ ngoài kia/ những vì sao git mình tr gic/ những bước chân âm thm tháng chp/ gi nhau v sau tiếng kng tan ca// chị ước bu trời không có mùa đông/ cho những đứa con thơ đừng đòi mua áo m/ cho bà m gy còm đêm sương ướt đẫm/ nhng chén cơm rơi run rẩy phía sau ngày// Tiếng kng mùa này không cha ni giấc mơ/ sau buổi tan ca/ ch nghe âm vang t quê nhà réo rt/ nhng tấm áo đàn con se thắt/ cái tết nghèo – giá tr thặng dư// Đêm giao thừa khói bếp lạnh như đông/ nhìn lũ trẻ mơ về nhau chiếc áo/ nơi chái bếp xuân về dăm ký gạo/ với dưa cà cơm mắm đợi mùa sang.

Sự trăn trở, day dứt, thảng thốt về hạnh phúc và khổ đau của đồng loại đã thôi thúc anh cất lên tiếng nói từ chính trái tim yêu của mình để lan tỏa yêu thương.

Mỗi năm dăm trận bão lùa/ Đồng hoang t do my mùa trng tay/ vịn đêm em bước qua ngày/ Nước ngp ngang ngc tim dày vết đau// Vách thưa chìm đáy sông sâu/ Khăn tang trắng toát mái đầu em tôi/ M trôi v phía dòng khơi/ Mình em lng gia bi bời khói hương! (Em gia min Trung).

Phùng Hiệu vốn là một nhà báo, đồng thời anh cũng là người làm nghề xây dựng, nên đôi lúc anh tận mắt chứng kiến cảnh người dân bị tai nạn giao thông khi anh đi tác nghiệp hay người  công nhân gặp nạn khi đang làm công trình…  Lòng anh chùng xuống, rưng rưng; bởi có điều gì đó nghe não nề, chua chát… “anh bị xóa tên”. Sự vô thường, mong manh của kiếp người đặt ra nhiều câu hỏi day dứt cho người đang sống.

Anh rơi xuống t tng 18

Theo khu lnh bo h an toàn

Cánh ca dự án đóng im…

… Anh b xóa tên

Như chưa bao giờ hin diện nơi đậy…

(S mt tích của người công nhân)

Bên cạnh nỗi suy tư trăn trở của cái tôi cá nhân, Phùng Hiệu còn chuyển tải những suy ngẫm về thân phận con người thời đại, bao tổn thương, mất mát đã và đang xảy cùng với những dự cảm về tương lai của dân tộc. Các anh không v mắt đảo rưng rưng… Cánh chim bám binBiên bn ch quyn có thể xem là những bài thơ hay. Bởi ở đó nhà thơ thể hiện rõ nét nhất tình cảm, ý thức trách nhiệm, sự khẳng khái và cả những lo âu của anh đối với chủ quyền biển đảo, lãnh thổ quốc gia.

Thời gian và tình người trở thành thứ tài sản quý giá nhất đối với con người thời hiện đại. Do đó, người đọc dễ nhận ra yếu tố thời gian và mối quan hệ giữa con người với con người được Phùng Hiệu quan tâm hơn tất cả. Những bài thơ: Giấc mơ hiện thc, Tết của người công nhân góa phụ, Phía sau ánh đèn lừa di, Cuộc mưu sinh, Sa thi một cơn mơ, Kẻ h bình minh… đã phần nào chứng minh cho điều tôi vừa nói ở trên. Nhưng có một sự thật và đồng thời cũng là nghịch lý khi càng quan tâm đến con người và thời gian thì nhà thơ lại càng nhận ra những bất cập, thậm chí là mâu thuẫn, xung đột phũ phàng với hiện tại. Do vậy, nhà thơ phải trầm tĩnh để nhận diện cuộc sống và con người trong cái nhìn đa chiều, nhất là nhìn sâu vào bản thể cá nhân và cuộc sống đời thường.

Với lối tư duy đa chiều, thơ Phùng Hiệu trở nên giàu hàm lượng nghĩa, chuyển tải được nhiều vấn đề cấp thiết, những nghịch lý của xã hội, đặc biệt là những thân phận bé mọn trong cõi nhân sinh rộng lớn này. Nhà thơ trăn trở, đối thoại và gieo vào thơ những cảm thức mới để đưa thơ gần gũi với đời hơn.

Hành trình sáng tạo nghệ thuật nói chung, thơ ca nói riêng là một hành trình đầy khó nhọc, lắm thác ghềnh. Vì thế đã dấn thân và dám hy sinh để theo đuổi đam mê đó là điều không phải ai cũng đủ can đảm để làm được. Với Phùng Hiệu, tôi tin anh có đủ dũng khí và hội đủ những yếu tố, phẩm chất thi sĩ để anh đi, để anh thực hiện đến đích khát vọng của đời mình.

Nguồn: https://vanvn.vn/

Bài viết liên quan

Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm