TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • So sánh bài thơ Cây đánh đu của Lê Thánh Tông và bài thơ Đánh đu của Hồ Xuân Hương

So sánh bài thơ Cây đánh đu của Lê Thánh Tông và bài thơ Đánh đu của Hồ Xuân Hương

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2024-08-23 16:00:01
mail facebook google pos stwis
1413 lượt xem

                               Vũ Nho

Trong số những bài thơ của Hồ Xuân Hương (HXH) do hai ông Lê Quý và Nguyễn Văn Đại được Antony Landes thuê về tận nhà của Trưởng tràng Tử Minh, học trò cụ Hồ Phi Diễn sưu tầm, có một số bài nghi là hai ông đã chép lại của Lê Thánh Tông, sửa đổi một số chữ nhằm lấy…thưởng! (Vì càng nhiều bài sưu tầm được thì tiền trả càng hậu). TS. Phạm Trọng Chánh từng viết rằng : “Tập thơ này nhiều bài lẫn lộn với thơ vua Lê Thánh Tôn, tôi cho rằng đó là những bài thơ Hồ Xuân Hương yêu thích, là mẫu mực thi ca của bậc thầy, cần thiết trả lại các bài thơ Chợ Trời, Đánh Đu, đền Khán Xuân.. cho ông Vua Thơ Nôm Lê Thánh Tôn”. ( nguồn : https://vietbao.com/a310365/ho-xuan-huong-chan-dung-va-tac-pham.).

Đây là bài thơ của vua Lê Thánh Tông:

CÂY ĐÁNH ĐU

Bốn cột lang, nha cắm để chồng,

 Ả thì đánh cái, ả còn ngong.

Tế hậu thổ, khom khom cật,

Vái hoàng thiên, ngửa ngửa lòng.

Tám bức quần hồng bay phới phới,

Hai hàng chân ngọc đứng song song.

Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy,

Nhổ cột đem về để lỗ không.

(nguồn: thivien.net)

Lang, nha được chú thích -  Lang: Cây cau. Nha: Cây dừa, những thứ cây cứng dùng làm cột cây đu.

Còn bài Đánh đu được xem là của Hồ Xuân Hương

ĐÁNH ĐU

Tám cột khen ai khéo khéo trồng

Người thì lên đánh kẻ ngồi trông

Giai du gối hạc khom khom cật

Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng

Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới

Hai hàng chân ngọc duỗi song song

Chơi xuân đã biết xuân chăng tá?

Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không

 

Mầy điều nhận xét

Một đằng là thơ của thi sĩ nhà vua từ thế kỉ 15, một đằng là thơ được cho là của Hồ Xuân Hương (HXH), thế kỉ 18. Có khác biệt ở nhan đề: Cây đánh đu – Đánh đu. Khác biệt là nhà vua nói vật liệu dựng đu gồm cau và dừa. Nhà vua tả các cô gái chơi đu: Ả thì đánh cái, ả còn ngong (1). HXH  không nói vật liệu, lại tả đu đôi, một nam một nữ. Nhà vua miêu tả động tác của người nhún đu mô phỏng lễ nghi: tế hậu thổ khom khom cật, vái hoàng thiên ngửa ngửa lòng. HXH tả giới tính của người  chơi đu: Giai du gối hạc khom khom cật/ Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng. Nhà vua  tả: Tám bức quần hồng (2) bay phới phới/Hai hàng chân ngọc đứng song song. Hai cô gái nên tám bức quần hồng. HXH tả: Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới/ Hai hàng chân ngọc duỗi song song. Vì tả 1 cô nên giảm số quần hồng xuống còn một nửa (Tám/ Bốn). Nhà vua viết “đứng”, HXH thay bằng “duỗi”.

Câu thơ kết, nhà vua nhận xét:

Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy,
 Nhổ cột đem về để lỗ không.

HXH thì nêu câu hỏi:

Chơi xuân đã biết xuân chăng tá?

 Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không

Đáng chú ý là cột dựng đu, nhà vua hai lần nhắc “cột”, HXH đầu bài viết “cột”, cuối bài lại viết là “cọc”!

Có thể nhận xét tổng quan rằng bài “Đánh đu” rõ ràng dựa trên bài “Cây đánh đu” có làm khác biệt đi một số điều. Việc làm sai khác này rõ nhất là tả một NAM, một NỮ chơi đu. Lại còn tả cụ thể:

Giai du gối hạc khom khom cật

Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng

Rồi thay cho “chân đứng” bằng “chân duỗi”, thay “cột” bằng “cọc”!

Những sự thay đổi này nhằm gợi chuyện “đánh đu” với  “chuyện ấy”! Đây không phải là HXH chép lại thơ của vua Lê Thánh Tông như là “mẫu mực thi ca” như TS Phạm Trọng Chánh nhận định. HXH đã nhuận sắc bài “Cây đánh đu” thành bài “Đánh đu”. Và xu hướng gợi “chuyện ấy” rõ ràng, nổi trội hẳn lên so với bài của nhà vua. Bài “Đánh đu” là một bài thơ khác hẳn bài “Cây đánh đu”!

Trong cuốn khảo cứu của mình, tôi xếp bài “Đánh đu” vào mục tồn nghi (Vũ Nho – Hồ Xuân Hương đời và thơ trên những tư liệu mới, nxb Hội Nhà Văn, 2022, trang 175-176). Nay so sánh 2 bài, có thể nghĩ rằng HXH đã nhuận sắc bài thơ kia thành một văn bản mới, đậm chất HXH.  Nếu bài “Cây đánh đu” của vua Lê Thánh Tông chỉ nói về việc đánh đu của chị em phụ nữ, thì rõ ràng bài “Đánh đu” của HXH không chỉ nói chuyện đánh đu, mà con gợi chuyện dục tình. Nó đúng với thơ HXH mà GS. John Balabal (Mĩ), người đã dịch thơ HXH ra tiếng Anh và xuất bản hơn 20.000 bản ở Mĩ đã nhận xét: “…Sự thực gây kinh ngạc nhất chính là: một phần lớn các bài thơ của bà – mà mỗi bài là một kiệt tác viết theo thể thơ đường luật - đều chứa đựng hai nghĩa song trùng. Mỗi bài ẩn giấu trong chính nó một bài thơ khác với ý nghĩa dục tình”. (Kỉ yếu Hội thảo khoa học quốc tế, tập 1, Nhà xuất bản Nghệ An, 2022, tr. 123).

Có thể coi đây là bài riêng của HXH mà hai ông Lê Quý và Nguyễn Văn Đại đã về tận làng Nghi Tàm, gặp con của Trưởng tràng Tử Minh để ghi chép lại.

Xin các vị cao minh chỉ giáo cho!

                                     Hà Nội, 4 tháng 5 năm 2024

V.N

-------

  1. Có thể coi việc chơi đu là môn thể thao  chủ yếu dành cho chị em phụ nữ. Bài thơ của vua Lê Thánh Tông  tả các chị em chơi đu. Sau này Nguyễn Khuyến cũng viết:

Cậy sức cây đu nhiều chị nhún

Tham tiền cột mỡ lắm anh leo

( Hội Tây)

  1.  Quần hồng - Hồng quần : chỉ chị em phụ nữ. Quần màu hồng, con gái nhà quyền quý thời cổ Trung Hoa thường mặc. Chỉ  phụ nữ nói chung. Đoạn trường tân thanh có câu: “Phong lưu rất mực hồng quần”.

        

Bài viết liên quan

Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm