TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • So sánh bài thơ Cây đánh đu của Lê Thánh Tông và bài thơ Đánh đu của Hồ Xuân Hương

So sánh bài thơ Cây đánh đu của Lê Thánh Tông và bài thơ Đánh đu của Hồ Xuân Hương

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2024-08-23 16:00:01
mail facebook google pos stwis
1058 lượt xem

                               Vũ Nho

Trong số những bài thơ của Hồ Xuân Hương (HXH) do hai ông Lê Quý và Nguyễn Văn Đại được Antony Landes thuê về tận nhà của Trưởng tràng Tử Minh, học trò cụ Hồ Phi Diễn sưu tầm, có một số bài nghi là hai ông đã chép lại của Lê Thánh Tông, sửa đổi một số chữ nhằm lấy…thưởng! (Vì càng nhiều bài sưu tầm được thì tiền trả càng hậu). TS. Phạm Trọng Chánh từng viết rằng : “Tập thơ này nhiều bài lẫn lộn với thơ vua Lê Thánh Tôn, tôi cho rằng đó là những bài thơ Hồ Xuân Hương yêu thích, là mẫu mực thi ca của bậc thầy, cần thiết trả lại các bài thơ Chợ Trời, Đánh Đu, đền Khán Xuân.. cho ông Vua Thơ Nôm Lê Thánh Tôn”. ( nguồn : https://vietbao.com/a310365/ho-xuan-huong-chan-dung-va-tac-pham.).

Đây là bài thơ của vua Lê Thánh Tông:

CÂY ĐÁNH ĐU

Bốn cột lang, nha cắm để chồng,

 Ả thì đánh cái, ả còn ngong.

Tế hậu thổ, khom khom cật,

Vái hoàng thiên, ngửa ngửa lòng.

Tám bức quần hồng bay phới phới,

Hai hàng chân ngọc đứng song song.

Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy,

Nhổ cột đem về để lỗ không.

(nguồn: thivien.net)

Lang, nha được chú thích -  Lang: Cây cau. Nha: Cây dừa, những thứ cây cứng dùng làm cột cây đu.

Còn bài Đánh đu được xem là của Hồ Xuân Hương

ĐÁNH ĐU

Tám cột khen ai khéo khéo trồng

Người thì lên đánh kẻ ngồi trông

Giai du gối hạc khom khom cật

Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng

Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới

Hai hàng chân ngọc duỗi song song

Chơi xuân đã biết xuân chăng tá?

Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không

 

Mầy điều nhận xét

Một đằng là thơ của thi sĩ nhà vua từ thế kỉ 15, một đằng là thơ được cho là của Hồ Xuân Hương (HXH), thế kỉ 18. Có khác biệt ở nhan đề: Cây đánh đu – Đánh đu. Khác biệt là nhà vua nói vật liệu dựng đu gồm cau và dừa. Nhà vua tả các cô gái chơi đu: Ả thì đánh cái, ả còn ngong (1). HXH  không nói vật liệu, lại tả đu đôi, một nam một nữ. Nhà vua miêu tả động tác của người nhún đu mô phỏng lễ nghi: tế hậu thổ khom khom cật, vái hoàng thiên ngửa ngửa lòng. HXH tả giới tính của người  chơi đu: Giai du gối hạc khom khom cật/ Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng. Nhà vua  tả: Tám bức quần hồng (2) bay phới phới/Hai hàng chân ngọc đứng song song. Hai cô gái nên tám bức quần hồng. HXH tả: Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới/ Hai hàng chân ngọc duỗi song song. Vì tả 1 cô nên giảm số quần hồng xuống còn một nửa (Tám/ Bốn). Nhà vua viết “đứng”, HXH thay bằng “duỗi”.

Câu thơ kết, nhà vua nhận xét:

Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy,
 Nhổ cột đem về để lỗ không.

HXH thì nêu câu hỏi:

Chơi xuân đã biết xuân chăng tá?

 Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không

Đáng chú ý là cột dựng đu, nhà vua hai lần nhắc “cột”, HXH đầu bài viết “cột”, cuối bài lại viết là “cọc”!

Có thể nhận xét tổng quan rằng bài “Đánh đu” rõ ràng dựa trên bài “Cây đánh đu” có làm khác biệt đi một số điều. Việc làm sai khác này rõ nhất là tả một NAM, một NỮ chơi đu. Lại còn tả cụ thể:

Giai du gối hạc khom khom cật

Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng

Rồi thay cho “chân đứng” bằng “chân duỗi”, thay “cột” bằng “cọc”!

Những sự thay đổi này nhằm gợi chuyện “đánh đu” với  “chuyện ấy”! Đây không phải là HXH chép lại thơ của vua Lê Thánh Tông như là “mẫu mực thi ca” như TS Phạm Trọng Chánh nhận định. HXH đã nhuận sắc bài “Cây đánh đu” thành bài “Đánh đu”. Và xu hướng gợi “chuyện ấy” rõ ràng, nổi trội hẳn lên so với bài của nhà vua. Bài “Đánh đu” là một bài thơ khác hẳn bài “Cây đánh đu”!

Trong cuốn khảo cứu của mình, tôi xếp bài “Đánh đu” vào mục tồn nghi (Vũ Nho – Hồ Xuân Hương đời và thơ trên những tư liệu mới, nxb Hội Nhà Văn, 2022, trang 175-176). Nay so sánh 2 bài, có thể nghĩ rằng HXH đã nhuận sắc bài thơ kia thành một văn bản mới, đậm chất HXH.  Nếu bài “Cây đánh đu” của vua Lê Thánh Tông chỉ nói về việc đánh đu của chị em phụ nữ, thì rõ ràng bài “Đánh đu” của HXH không chỉ nói chuyện đánh đu, mà con gợi chuyện dục tình. Nó đúng với thơ HXH mà GS. John Balabal (Mĩ), người đã dịch thơ HXH ra tiếng Anh và xuất bản hơn 20.000 bản ở Mĩ đã nhận xét: “…Sự thực gây kinh ngạc nhất chính là: một phần lớn các bài thơ của bà – mà mỗi bài là một kiệt tác viết theo thể thơ đường luật - đều chứa đựng hai nghĩa song trùng. Mỗi bài ẩn giấu trong chính nó một bài thơ khác với ý nghĩa dục tình”. (Kỉ yếu Hội thảo khoa học quốc tế, tập 1, Nhà xuất bản Nghệ An, 2022, tr. 123).

Có thể coi đây là bài riêng của HXH mà hai ông Lê Quý và Nguyễn Văn Đại đã về tận làng Nghi Tàm, gặp con của Trưởng tràng Tử Minh để ghi chép lại.

Xin các vị cao minh chỉ giáo cho!

                                     Hà Nội, 4 tháng 5 năm 2024

V.N

-------

  1. Có thể coi việc chơi đu là môn thể thao  chủ yếu dành cho chị em phụ nữ. Bài thơ của vua Lê Thánh Tông  tả các chị em chơi đu. Sau này Nguyễn Khuyến cũng viết:

Cậy sức cây đu nhiều chị nhún

Tham tiền cột mỡ lắm anh leo

( Hội Tây)

  1.  Quần hồng - Hồng quần : chỉ chị em phụ nữ. Quần màu hồng, con gái nhà quyền quý thời cổ Trung Hoa thường mặc. Chỉ  phụ nữ nói chung. Đoạn trường tân thanh có câu: “Phong lưu rất mực hồng quần”.

        

Bài viết liên quan

Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm