TIN TỨC

Sức hấp dẫn và chiều sâu văn chương Nguyễn Quang Sáng

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-12-08 11:40:28
mail facebook google pos stwis
680 lượt xem

VÕ VĂN NHƠN

(Bài viết tham luận cho Hội thảo "Nguyễn Quang Sáng - cuộc đời và sự nghiệp")

Trong các nhà văn thuộc đội ngũ văn nghệ giải phóng miền Nam, Nguyễn Quang Sáng có lẽ là nhà văn có phong cách Nam Bộ nhất. Giọng văn của ông hồn hậu, mộc mạc, tự nhiên như cảnh sắc thiên nhiên của Nam Bộ, nói như nhà thơ Trần Đăng Khoa từng nhận xét là “nó sục lên mùi vị của sông nước Tháp Mười, cả cái chất đậm đặc không thể trộn lẫn” (Khôi Vũ, 2014). Tính cách Nam Bộ thể hiện ngay trong bút danh của ông. Trong khi các nhà văn khác lúc vào miền Nam phải đổi bút danh để giữ bí mật, như Nguyễn Văn Bổng đổi thành Trần Hiếu Minh, Lê Khâm đổi thành Phan Tứ, Bùi Đức Ái đổi thành Anh Đức, Nguyên Ngọc đổi thành Nguyễn Trung Thành, Ca Lê Hiến đổi thành Lê Anh Xuân, Bùi Minh Quốc đổi thành Dương Hương Ly… thì Nguyễn Quang Sáng chỉ đơn giản lược bỏ chữ lót trong tên mình để thành Nguyễn Sáng.


PGS.TS Võ Văn Nhơn đọc tham luận tại Hội thảo, sáng 6/12/2024.

Sức hấp dẫn của truyện Nguyễn Quang Sáng trước hết là ở tài kể chuyện, câu chuyện của ông bao giờ cũng tạo nên một không khí đầy kịch tính với nhiều chi tiết sinh động, đắt giá. Nhà văn Khôi Vũ kể trong một lần nói chuyện với lớp bồi dưỡng viết văn trẻ năm 1982, Nguyễn Quang Sáng đã cho biết: “Viết cái truyện mà không có không khí thì “giục” đi cho rồi. Còn cái truyện mà không có chi tiết nào đặc biệt thì người ta sẽ không nhớ lâu đâu!” (Khôi Vũ, 2014). Truyện của ông thường có những kết thúc bất ngờ, thú vị, như Quán rượu người câm, Chiếc lược ngà, Bông cẩm thạch chẳng hạn. Các chi tiết trong truyện của ông cũng rất gây ấn tượng. Chúng ta hẳn không quên chi tiết thằng bé mới mấy tháng tuổi được ba mẹ bọc vào túi ni lông dìm xuống nước để tránh trực thăng địch đi càn trong phim Cánh đồng hoang, bộ phim được Huy chương vàng ở liên hoan phim quốc tế Moskva do nghệ sĩ Nguyễn Hồng Sến làm đạo diễn và Nguyễn Quang Sáng viết kịch bản.

Nhưng hồn nhiên, mộc mạc, tự nhiên không có nghĩa là truyện Nguyễn Quang Sáng không có chiều sâu. Khi viết về đề tài chiến tranh, một trong những thử thách lớn cho các nhà văn miền Nam là bên cạnh việc xây dựng những chân dung anh hùng cách mạng, những người nông dân Nam Bộ trượng nghĩa, những hình tượng rất đẹp về người phụ nữ miền Nam trong chiến đấu, đó là làm thế nào khắc họa được chân dung của kẻ thù một cách sâu sắc, thuyết phục. Thường thì người đọc sẽ thấy “thằng ngụy”, thằng Mỹ nào cũng gian xảo, độc ác, không có tình người, ăn gan uống máu người không một chút ghê tởm. Và đặc biệt là lính Mỹ luôn có một mùi hôi đặc trưng, khiến chúng dù nằm phục kích cách cả cây số nhưng chúng ta vẫn nghe được mùi hôi đó. Phạm Văn Sĩ trong công trình Văn học giải phóng miền Nam có nói đến thử thách này đối với các nhà văn: “nhà văn miền Nam đã có ý thức tìm hiểu kẻ thù để mô tả chúng với những âm mưu khác nhau của chúng, những biểu hiện nhiều vẻ khác nhau của chúng cũng như hình dáng của chúng. Đó là thành tựu bước đầu. Tuy nhiên, tìm hiểu kẻ thù và và mô tả chúng cho được chân thật và sâu sắc là một việc lâu dài, khó khăn. Nhà văn chúng ta nói chung chưa có hoàn cảnh thuận lợi để hiểu kẻ thù thật sâu. Vì vậy, ngoài một số nhân vật phản diện được mô tả có tìm tòi với một số nét tạo hình, một số nét tâm lý có chiều sâu, phần lớn nhân vật phản diện trong tiểu thuyết miền Nam hoặc chưa đạt được trình độ tính cách văn học hoặc còn là những nét phác thảo châm biếm” (Phạm Văn Sĩ, tr. 101).

Nguyễn Quang Sáng cũng rất ý thức về vấn đề này: “Đọc của anh em và tự nghĩ những sáng tác của mình, tôi có một băn khoăn. Viết về cán bộ, bộ độ, du kích và nhân dân, các tác giả miền Nam - mỗi người theo một phong cách riêng, đều đạt đến những đỉnh cao. Những con người, những nhân vật chính diện trong các tác phẩm ấy, đã trở thành những điển hình sống, phong phú, đa dạng, có sức chinh phục và thuyết phục lòng người, đã trở thành những tấm gương sống cho người đọc.

Ngược lại những con người, những nhân vật đầy kính yêu ấy, thằng Mỹ, thằng ngụy – nhân vật phản diện trong tác phẩm thì hãy còn mờ nhạt. Nó tàn bạo đó, nó giết người đó, nó ăn cả thịt người nữa – nó lố lăng nó lưu manh, nhưng đọc rồi, ta cứ vẫn thấy nó méo mó. Bởi vì ta chỉ thấy cái bên ngoài hơn là cuộc sống bên trong của nó… Tôi cũng cố gắng khắc phục bằng cách tìm hiểu đối tượng đó trong công tác binh vận. Một đôi lần, tôi tìm cách gặp gỡ một số binh sĩ quân đội Sài Gòn trong những dịp đình chiến, tôi đã tìm nắm những bà mẹ vừa có con “đi giải phóng” vừa có con vì lẽ này lẽ nọ đang cầm súng cho giặc. Qua đó tôi thấy, nói riêng về thằng ngụy, nó còn có cái riêng của nó cần phải được khai thác thêm” (Nhiều tác giả, tr. 29).

Từ suy nghĩ này, Nguyễn Quang Sáng đã xây dựng những hình tượng về “thằng ngụy” sâu sắc, đa dạng và đời hơn, hiện thực hơn, như thiếu úy Khanh, đại úy Long chẳng hạn. Đại úy Long trong tiểu thuyết Mùa gió chướng là một tên ác ôn nhưng lại yêu nhạc Trịnh Công Sơn và rất yêu đứa con chưa đầy tuổi tôi của mình. Chính vì vậy mà hắn cam tâm để cho đội du kích của cô Sáu Linh bắt sống khi đang bồng con trên tay. Nếu khắc họa một tên đại úy ngụy ác ôn không nhân tính theo kiểu cũ thì nhà văn hẳn đã cho hắn ta tàn nhẫn quăng đứa con nhỏ để tìm đường thoát thân cho riêng mình.

Chiều sâu trong sáng tác của Nguyễn Quang Sáng còn thể hiện ở chỗ ông rất quan tâm đến những tình cảm sâu lắng, giàu giá trị nhân bản như tình cha con, tình mẹ con, tình vợ chồng. Truyện ngắn Chiếc lược ngà của ông, nếu xử lý non tay sẽ dễ trở thành một tác phẩm minh họa đơn giản cho nhũng bi kịch của chiến tranh, nhưng qua tay ông, tác phẩm đã đạt đến một chiều sâu nhân văn cao cả, vì thế đã lay động bao trái tim bạn đọc. Quán rượu người câm cũng nói lên được những thay đổi không ngờ tới của con người khi trải qua sự thử thách ác liệt của chiến tranh.

Không chỉ có thế, Nguyễn Quang Sáng còn đem đến cho người đọc nhiều bất ngờ thú vị. Văn chương ông mộc mạc, tự nhiên, có lúc lại rất hóm hỉnh như với Tôi thích làm vua chẳng hạn. Đó cũng là truyền thống của văn chương Nam Bộ xưa nay, từ Phi Vân ở đầu thế kỷ XX cho đến Sơn Nam của giai đoạn 1954 – 1975. Nhưng cũng có lúc ông làm ta ngạc nhiên như với truyện Con mèo của Foujita chẳng hạn, một truyện ngắn rất hiện đại với thủ pháp đồng hiện, với những hiểu biết về hội họa đương đại. Có lẽ vì thế mà Trần Đăng Khoa khi nói về Nguyễn Quang Sáng đã có những kết luận rất xác đáng: “Đọc Nguyễn Quang Sáng, không hiểu sao, tôi cứ hình dung nhà văn có nét gì đó của một người nông dân Nam Bộ ngang tàng, coi những chuyện nguy hiểm chết người cũng bông phèng như trò chơi con trẻ, có thể chống xuồng lao ve vé giữa lúc bom đạn đang vây bủa mù mịt, cũng có thể ngồi thì lì trong một cái quán rượu tạm bợ, dựng tồng tềnh bên vệ cỏ, ngoảnh ra phía sông nước mà nhậu lai rai, nhậu tối ngày. Con người ấy hình như vừa đơn giản, lại vừa phức tạp đến bí hiểm. Hình như đó là một phần của thiên nhiên Nam Bộ, do thiên nhiên chắt ra, bởi thế có lúc hồn nhiên như cỏ dại, có lúc ương ngạnh như vách đá”.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm