TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Tiếng vọng với những suy tư, trăn trở của người cựu binh Trần Ngọc Phượng

Tiếng vọng với những suy tư, trăn trở của người cựu binh Trần Ngọc Phượng

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-08-01 07:41:42
mail facebook google pos stwis
4517 lượt xem

NGUYỄN VĂN HÒA
(Nhân đọc tập thơ Tiếng vọng của Trần Ngọc Phượng, Nxb Hội Nhà văn)

 

Tiếng vọng là tập thơ thứ 4 của nhà thơ Trần Ngọc Phượng. Tập sách được ấp ủ, chắt chiu bằng tất cả tấm lòng của một người từng đi qua cuộc chiến cùng với những thăng trầm, dâu bể của thời cuộc. Tiếng vọng chính là những tiếng lòng trắc ẩn, sự trăn trở thao thức của một con người sống có trách nhiệm, nghĩa tình với đồng chí, đồng đội và cả những ân tình sâu nặng với quê hương, xứ sở.

Tiếng vọng là cách nói đầy ám gợi, để từ đó nhà thơ Trần Ngọc Phượng có dịp thủ thỉ, tâm tình, chuyện trò, giãi bày những nỗi niềm sâu kín của lòng mình, thế hệ mình về một thời đã qua và cả những điều đáng nói hôm nay.

Thành phố sau lưng/ Bom đạn nổ vang trời/ Tiếng sóng vỗ biển khơi/ Tiếng gọi đò nơi mom sông ngày đó/ Tiếng em, nhẹ như hơi thở/ Khắp nẻo đường cứ thủ thỉ bên anh/ Tiếng vọng dội lên/ Từ những vinh quang/ Tiếng vọng chìm sâu/ Trong đau buồn thương nhớ/ Tiếng gần, tiếng xa/ Tiếng to tiếng nhỏ/ Tiếng lòng ta trong tiếng vọng quê hương (Tiếng vọng Thành Nam).

Là một người lính từng từng tham gia chiến đấu vào những năm tháng ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước nên những ký ức về người lính, về đồng đội trở thành mạch ngầm xuyên suốt trong thơ Trần Ngọc Phượng.

79 bài thơ trong tập sách thể hiện rõ các cung bậc cảm xúc của chính anh về quê hương, đất nước, về gia đình, về những năm tháng gian lao mà hào hùng của cả dân tộc. Ở đó, còn là tiếng nói trữ tình da diết với những trăn trở, chiêm nghiệm, suy tư về những điều đã qua, những cái của hiện thời và cả những dự cảm về tương lai.

Giờ đây, sau gần 50 năm đất nước hòa bình, những người may mắn như Trần Ngọc Phượng vẫn còn sống đó là điều vô cùng hạnh phúc. Ngày gặp mặt, bao ký ức thuở nào lại ùa về, nhà thơ Trần Ngọc Phượng hồi tưởng: Hồi ấy lính tụi mình trẻ lắm/ Vượt Trường Sơn sốt rét xanh rờn/ Vào sư đoàn mang tên lạ lẫm/ Công trường 5, đất đỏ miền Đông// Núi Mây Tàu lá reo suối hát/ Buổi xuất quân đánh Võ Đắc, Ông Đồn/ Đêm rừng Lá nghe chân voi rậm rịch/ Tiếng pháo bầy, bom tọa độ nổ dồn// Ngày giặc càn đói quay đói quắt/ Hái măng le, đào củ chụp thay cơm/ Bên miệng hầm võng mắc chung một cọc/ Điếu thuốc rê chia nhau hút xoay vòng// Rồi đến trận Long Tân, Núi Đất/ Đường trượt trơn úp lật bàn chân/ Tiểu đoàn mình vơi đi gần hết/ Xác đến nay đồng đội vẫn đang tìm (Họp mặt Sư đoàn).

Những năm tháng gian lao mà hào hùng ấy đã trở thành niềm tin yêu bất diệt cho những người may mắn còn sống đến hôm nay. Các địa danh, tên núi, tên đất, tên làng, tên các trận đánh... và cả những mất mát hy sinh đã hằn sâu trong tâm khảm của người cựu binh Trần Ngọc Phượng. Anh trân trọng, kính phục và dành tình yêu thương vô hạn với những người đã khuất.

Trần Ngọc Phượng không giấu nổi những cảm xúc nghẹn ngào khi nghĩ về những người đồng chí, đồng đội của mình đã ngã xuống ở khắp các chiến trường. Sau mấy mươi năm đất nước hòa bình nhưng có người đến hiện tại vẫn chưa tìm được hài cốt. Đó cũng chính là nỗi đau đến khôn cùng của những ruột thịt và cả những người đồng chí, đồng đội như anh. Dịp họp mặt hay các chuyến đi về những nghĩa trang nơi quy tụ các liệt sĩ, lòng anh lại quặn thắt.

Chiều Trường Sơn/ Lặng ngắt/ Các anh nằm/ ngay hàng thẳng tắp/ nghe tắc kè kêu khắc khoải/ Sắp về// Về đây/ Những đội hình/ Xếp theo tỉnh, theo thành/ theo làng, theo xã/ Như buổi giao quân/ Trống reo rộn rã/ Mẹ và em đẫm lệ nhìn theo// Anh nằm đây/ Heo hút núi đèo/ Vài nén nhang không đủ ấm ngàn ngôi mộ/ Mẹ cha ta đã thành thiên cổ/ Em ta tất bật mưu sinh/ Còn mấy lính già/ Chống gậy ngồi bên (Chiều Nghĩa trang Trường Sơn).

Những câu thơ tạo nên sức gợi hình, gợi cảm. Ở đó không chỉ là tình cảm thương nhớ mà còn là nỗi ám ảnh day dứt của những người đã từng đi qua chiến tranh.

Bên mộ em những lính già đứng lặng/ Nhớ một thời trai trẻ mê say/ Ta tặng nhau mảnh khăn dù pháo sáng/ Chiếc lược nhôm làm bằng xác máy bay (Mười cô gái Ngã Ba Đồng Lộc).

Những năm tháng tham gia kháng chiến nơi rừng sâu, núi xa, biết bao gian khó hiểm nguy, cái chết luôn cận kề nhưng chưa bao giờ làm cho anh nản chí. Chỉ có nỗi nhớ quê, nhớ mẹ cha, gia đình... luôn canh cánh đêm ngày. Vì thế người chiến sĩ Trần Ngọc Phượng đã nhiều đêm “mất ngủ”.

Đêm không ngủ đếm từng hạt mưa rơi/ Lòng bâng khuâng xao xuyến bồi hồi/ Ta tự hỏi đã bao đêm không ngủ/ Thả tâm hồn thương nhớ không nguôi// Về đây mắt người thân mong đợi/ Ta in hình trong xứ sở quê hương/ Những đường phố chạy dài sôi nổi/ Những dòng sông lặng lẽ tắm hoàng hôn// Mẹ ơi mẹ! Con ra đi buổi ấy/ Súng vác vai không hẹn ngày về/ Mẹ ôm con, đứa con trai của Mẹ/ Giữa mùa hoa bưởi trắng làng quê// Con đi qua bao núi bao sông/ Đã bốn mùa mưa đã năm mùa nắng/ Đón hoàng hôn về giữa buổi hành quân// Đêm Trường Sơn ấm tình đồng đội/ Bên bếp lửa hồng kể chuyện quê hương/ Rừng miền Đông những ngày giặc bố/ Chia nhau từng củ chuối thay cơm// Con đi như những dòng sông chảy/ Quen vượt thác ghềnh chẳng ngại gian nan/ Chỉ thương mẹ ngày cày sâu cuốc bẫm/ Đêm thương con thức suốt những canh tàn... (Đêm không ngủ).

Chính những năm tháng ấy đã trui rèn nên một Trần Ngọc Phượng giàu đức tin, luôn vượt qua bao gian khó của cuộc sống. Ở đó, luôn có bóng dáng của mẹ, của cha, của em, của quê hương và của đồng chí, đồng đội... Thế giới hoài niệm được Trần Ngọc Phượng vẽ nên qua những bài thơ với những cảm xúc sâu lắng, chạm đến tận cùng cái tôi bản thể... Góc quê, Tiếng vọng thời gian, Bên mộ Cha, Cái ba lô con cóc, Nam Định những phố xưa, Giao mùa, Con sông tuổi thơ, Vay mượn cuộc đời, Hoa tím lục bình, Viếng mộ cụ Tú, Em là Sài Gòn đấy anh ơi!, Gặp bạn lính Mậu Thân, Họp mặt Sư đoàn, Mười cô gái Ngã Ba Đồng Lộc, Hoa bằng lăng tháng Tư, Những mùa thu đã qua...

Đất nước hòa bình, trở về cuộc sống bình yên nhưng tận trong sâu thẳm tâm can người cựu binh Trần Ngọc Phượng vẫn còn nhiều nỗi lo lắng, bất an. Tinh thần trách nhiệm và ý thức công dân của người luôn quan tâm, dõi theo những gì đang diễn ra quanh mình, thời đại mình đang sống; nhà thơ trăn trở, day dứt không yên trước những thực trạng đáng buồn của hôm nay:

Đất nước hòa bình/ Nhưng nào đã bình yên/ Giặc ngoại xâm, nội xâm đe dọa/ Biển trước mặt/ Phơi đầy xác cá/ Rừng sau lưng/ Trơ trọi gốc cây/ Trẻ đến trường/ Phải lội suối, đu dây.

Trần Ngọc Phượng cảm nhận rất rõ những mất mát và tổn thương. Khát vọng đan xen với nỗi buồn, hoài niệm đồng hiện với thực tại khi có những sự thật không hay đang diễn ra từng ngày từng giờ. Nạn tham nhũng, những bất công ngang trái, bao bất cập của đời sống vẫn ngày một nhiều; giặc ngoại xâm luôn lăm le và có ý đồ xâm lấn biển đảo...

Thuyền ngư dân/ Bị đâm từ “tàu lạ”/ Anh nằm đây/ Có lúc nào yên ả/ Sóng biển Đông/ Rung động chỗ anh nằm!// Hương khói bay/ lồng lộng gió ngàn/ Đang bật dậy/ Những linh hồn/ Bất tử (Chiều Nghĩa trang Trường Sơn).

Thơ Trần Ngọc Phượng cô đọng cảm xúc và ý tưởng, dễ đi vào lòng người đọc.  Nhất là anh viết về những người đồng đội, những chiến sĩ đã hy sinh. Điều đặc biệt trong tập thơ Tiếng vọng, Trần Ngọc Phượng có nhiều bài thơ viết về người lính, về tháng Tưtháng Bảy. Bởi khi nhắc đến đề tài người lính và những tháng ngày đó, nhà thơ có nhiều hoài niệm, lòng dậy lên bao khắc khoải thương nhớ, đau đáu, tiếc nuối, xót xa... Đâu đó còn là tiếng thở dài, tiếng khóc nấc nghẹn của một người cựu binh đa cảm như anh. Kỷ niệm xưa như phù sa đọng lắng/ Nước cứ trôi cỏ vẫn mọc xanh đồng/ Anh vẫn là anh của bão giông/ Mũ tai bèo băng qua lửa khói/ Em vẫn là em tóc tỏa hương bồ kết/ Lao mình trong chớp lửa bom rơi/ Thời gian nhuộm trắng tóc ta rồi/ Bao nhiêu điều để quên để nhớ/ Anh với em một quãng đời cất giữ/ Có lẽ nào ta lại quên nhau (Có lẽ nào).

Năm tháng cứ trôi đi, năm tháng khác lại về; những ngày tháng cũ và cả những tháng năm của hiện tại, của tương lai... có điều gì đó giăng mắc, có điều gì đó rưng rưng:

Tháng Bảy/ Tri ân/ Những người đã mất/ Nhớ bạn xưa/ Đói rừng quay quắt/ Mâm cỗ cao đầy/ Gọi nhau về họp mặt/ Những linh hồn/ Uẩn khuất bốn phương/ Hãy về đây/ Phán xét/ Bao dung (Tháng Bảy).

Sự đối lập rõ nét giữa quá khứ với hiện tại: Đói rừng quay quắt - Mâm cỗ cao đầy. Những người còn sống tề tựu về họp mặt còn người mất là: Những linh hồn - Uẩn khuất muôn phương... Và lời khẩn cầu: Hãy về đây/ Phán xét/ Bao dung. Có lẽ những  linh hồn kia đã hòa mình trong cỏ cây, hoa lá, hòa vào hồn thiêng sông núi, họ đã bất tử hóa.

Tháng Tư này/ Có họp mặt được không? Bốn mươi nhăm năm/ Có năm nào vắng mặt/ Từ tóc xanh nay thành đầu bạc/ Bước chân xưa, thần tốc xung phong/ Ngày thống nhất non sông/ Vỡ òa hạnh phúc (Tháng Tư này).

Tháng Tư lịch sử, tháng Tư của hạnh phúc và niềm đau. Điều ấy, những người trong cuộc sẽ thấu rõ hơn hết. Trong bài Những bài thơ tháng Tư, Trần Ngọc Phượng sẻ chia bằng những lời ngậm ngùi, đắng chát, cả sự vỡ òa hạnh phúc khi biết cố nén vết thương lòng. Những bài thơ tháng Tư/ Viết làm sao cho hết/ Như nước nguồn chẳng cạn/ Như tình đời da diết// Tháng Tư đánh Long Khánh/ Cánh cửa thép mở toang/ Nơi bạn tôi nằm lại/ Nở tím hoa bằng lăng// Ngày thống nhất non sông/ Vỡ òa trong hạnh phúc/ Nén vết đau trong lòng/ Khóc, cười trong nước mắt// Sài Gòn ơi! Sài Gòn/ Nơi chôn nhau cắt rốn/ Tháng Tư xóa hận thù/ để nối vòng tay lớn...

Bài thơ Tháng Tư về, Trần Ngọc Phượng viết tặng anh Nguyễn Xuân Khảm và các bạn đồng đội Đoàn 814 Long Khánh – Bà Rịa, biểu hiện của một tấm lòng nhân hậu, mỗi câu chữ đều ứ động cảm xúc, chạm đến đáy sâu tâm hồn. Bởi đó không chỉ là tâm sự riêng mà trở thành nỗi niềm chung của tất cả mọi người.  Tháng Tư về/ Rừng cao su thay lá/ Đất trời oi ả/ Đang khát khao/ Cơn mưa mát đầu mùa/ Để nơi bạn tôi nằm/ Nở tím cánh hoa mua// Tháng Tư về/ Gọi nhau họp mặt/ Lính già ơi!/ Tóc bạc trắng hết rồi/ Năm nay có đứa nào vắng mặt?/ Có đứa nào phải chống gậy đến không?// Tháng Tư về/ Áo lính bạc màu/ Ngồi bên nhau không kể chuyện chiến công/ Hương khói bay/ Con heo quay cúng bạn/ Chỉ thương nó/ Một thời bom đạn/ Ngày ra đi chưa được bữa ăn no// Tháng Tư này/ Khác tháng Tư xưa/ Vẫn cờ hoa, sắc màu rực rỡ/ Đốt cháy niềm tin/ Khơi lên ngọn lửa/ Để tháng Tư về/ Trọn vẹn ước mong.

Nhà thơ nhận ra cái chân lý sâu xa trong những điều giản đơn, bình dị, gần gũi từ cuộc sống bằng cảm quan riêng của người nghệ sĩ giàu trải nghiệm. Ta có là cát bụi/ Cuốn bay theo lốc đời/ Hay là con sóng dội/ Bạc đầu giữa biển khơi// Chiếc lá cũng rơi nghiêng/ Xoay tròn trong cơn gió/ Hạt mưa cũng bay xiên/ Như dốc chiều, bóng đổ// Bến bờ neo cuối đời/ Cũng bên bồi bên lở/ Đắng cay và ngọt bùi/ Là tình đời muôn thủa (Tự cảm).

Trần Ngọc Phượng sống thật với chính mình, nên thơ anh cũng vô cùng chân thật, không cầu kỳ, không màu mè hoa lá. Từ những điều thực tế ấy, nhà thơ đã tự lựa chọn và xác định cho chính bản thân mình cách sống: Bây giờ tuổi xế hoàng hôn/ Người xưa cảnh cũ, ta còn với ai/ Hít thật sâu, thở thật dài/ Xòe tay buông bỏ tháng ngày xót xa// Tưởng gần mà lại hóa xa/ Tưởng sâu đậm lắm hóa ra nhạt phèo/ Đời cho ta có bấy nhiêu/ Chuông chùa thức tỉnh những điều hư vô (Chơi vơi).

Trước bao ấm lạnh của cõi người, đôi lúc nhà thơ Trần Ngọc Phượng muốn tìm cho mình một lối sống, hướng đến sự thanh thản trong tâm hồn, buông bỏ những chuyện không đâu, hướng đến cuộc sống vô tư của một người có tuổi. Bảy mươi tuổi thời a còng là bài thơ tự thuật về mình với lời thơ dí dỏm, rất đỗi chân thành của nhà thơ. Rồi chợt giật mình nhận ra mình đã bảy mươi... khi nghe có tiếng ai chào: “Cụ ơi!”

Cần gì suy nghĩ đăm chiêu/ Lý sự tranh cãi những điều linh tinh/ Trong tay điện thoại thông minh/ Một giờ lướt mạng, ngàn tin trên đời// Sáng đi bộ, chiều đi bơi/ Vui đùa Nắng Gió thảnh thơi tinh thần/ Đường đời còn mấy bước chân/ Cái gì mình thích cứ “mần” tới nơi// Phận mình như thế xong rồi/ Giàu nghèo xấu tốt số trời đã cho/ Ngổn ngang cuộc sống xô bồ/ Thương con cũng chẳng biết lo thế nào// Sống thì khỏe, chết thì mau/ Đỡ phiền con cháu, cơm hầu nước bưng/ Thôi mà! Đừng nghĩ lung tung/ Để mười năm nữa chúc mừng tám mươi.

Tiếng vọng của Trần Ngọc Phượng đã cắt nghĩa được hiện thực cuộc sống thời đạn bom và hòa bình qua những trải nghiệm, ngẫm ngợi, suy tư của một trái tim nhạy cảm, rất đỗi chân thành, hồn hậu. Ở đó, nhà thơ luôn hướng về những điều bình dị, gần gũi với tất cả niềm tin yêu và cả những trăn trở, tiếc nuối, day dứt, khắc khoải...

Đất nước hòa bình, một thời đại mới lại đặt ra những thách thức mới. Cuộc đấu tranh trong thời bình cũng không kém phần cam go, quyết liệt, thậm chí còn phức tạp hơn nhiều so với súng đạn. Bởi kẻ thù không hiện hình mà trá hình dưới nhiều hình thức. Hơn nữa, giá trị đạo đức, giá trị người, giá trị sống đang có những biểu hiện xói mòn, chao đảo trước những cám dỗ của vật chất...

Bây giờ lắm của, nhiều tiền/ Lương tâm đổi chác, chức quyền bán mua/ Nên nhớ, còn nợ ngày xưa?/ Cốt xương liệt sĩ vẫn chưa tìm về (Ngày xưa).

Bài viết liên quan

Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm