TIN TỨC

Trường ca hiện đại cần những gì?

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
961 lượt xem

NGUYỄN TRƯỜNG
(Đọc trường ca MẸ của Trần Thế Tuyển- Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân 2022)

Khác với trào lưu trường ca hiện đại đang thịnh hành, trường ca MẸ của Trần Thế Tuyển vẫn phát huy thế mạnh của tính hiện đại, dạt dào cảm xúc… nhưng trường ca của ông lại có cốt truyện, được xây dựng trên vật liệu của các sự kiện có chọn lọc, mô tả sinh động một thời hào hùng của dân tộc, bởi vậy nó còn mang hồn của sử thi truyền thống. Cốt truyện trong trường ca vô cùng quan trọng, nó như bản kiến trúc hoàn chỉnh, chi tiết để người thợ xây dựng nên tòa nhà. Tòa nhà to, đẹp, hay nhỏ bé, xấu xí, trước hết nằm ở bản vẽ của  kiến trúc sư. Trong trường ca MẸ của Trần Thế Tuyển được tác giả chia làm 5 chương và phần kết Vĩ thanh.

Chương 1: Là nỗi nhớ, nỗi chờ đợi mòn mõi mong con trở về của người mẹ có hai đứa con vào chiến trường miền Nam chống Mỹ:

Mẹ không tin vào đôi mắt

Cuối đường làng có người lính bước nhanh

Từ khi kết thúc chiến tranh

Đã có bao nhiêu hình ảnh ấy

Hình ảnh thân thương

Người bận quân phục màu cỏ cháy

Thời trẻ, hồi kháng chiến chống Pháp, mẹ đã từng đào hầm nuôi giấu cán bộ, anh tên Yên, quê Bắc Ninh:

Đánh bót Văn Đàn, Đông Biên

Mẹ đã đào hầm giấu anh cán bộ tên Yên

Quê hương anh nơi miền Quan họ

Những đêm trăng giặc không ruồng bố

Anh hát dân ca dọc bờ sông

Anh chẳng hát riêng cho mẹ đâu

Mà từng lời vành vạnh, đêm đông

Cứa vào lòng mẹ…”

Mẹ chứng kiến cảnh giặc càn, anh Yên và bao nhiêu đồng đội các miền khác nhau hy sinh. Bây giờ mẹ tiễn hai con ra đi mà lòng thương nhớ, vẫn biết rằng, con mẹ ra đi vì đất nước. Hòa bình, thằng con lớn của mẹ trở về, thằng thứ hai đã nằm lại ở chiến trường xa.

Chương 2:

“Mẹ về thăm quê

Sau hai mươi năm xa cách

Sông Hỗ Đông, vẫn đôi bờ lau lách

Thuyền nan như chiếc lá chơi vơi…”

Thời thiếu nữ mẹ chạy vào Thanh Hóa lánh nạn chiến tranh do quân Pháp càn quét. Mẹ sinh ra trong gia đình quan lại, “bát ngát đất cày” nhưng do cha từ quan, mẹ chưa một ngày được “đóng vai ái nữ”. Mẹ vào Thanh Hóa, làm con nuôi nhà người, chẳng nói cũng biết mẹ phải vượt qua cuộc đời vất vã như thế nào.

Chương 3: Mẹ nhận làm dâu dù chẳng biết người đó mặt mũi ra sao, giàu hay nghèo, sang hay hèn. Chỉ biết đó là một du kích, được nhiều người quý mến, nghe thế mẹ bằng lòng, vì anh cùng lý tưởng với mình. Thân phận mẹ khi làm dâu:

“Túp lều vách đất gió thênh

Lá chuối khô, gối nệm rơm

Thêm đứa con riêng của người chồng ba tuổi…”

Mẹ có đến 6 đứa con, tảo tần nuôi con ăn học, mẹ như thân cò lặn lội sớm khuya.

Hòa bình lập lại, rồi đến chiến tranh chống Mỹ. Máy bay Mỹ kéo đến ném bom bắn phá. Quê hương mẹ trai gái lại lên đường. Thằng Ớt, đứa con đầu lòng học hết lớp 10, đang ôn thi đại học làm đơn tình nguyện lên đường nhập ngũ, rồi vào chiến trường miền Nam. Thằng con thứ hai là Cay lại theo anh lên đường ra trận.

Chương 4: Cảnh quê hương mẹ với gốc đa bến nước sân đình, những biểu tượng văn hóa làng quê gắn bó. Mẹ nhớ bến sông, nơi anh Yên đã hát dân ca quan họ, đã anh dũng hy sinh, nới in dấu chân các con mẹ đi mò cua bắt ốc, nơi cánh đồng lúa bát ngát mênh mông la lã cánh cò. Nơi làng quê gắn bó với nhau khi:

Một nhà có thư, suốt cả canh thâu

Mọi người đến hỏi thăm, chia sẻ

Một nhà nhận tin xót đau

Cả làng khăn tang, dâu bể..”

Đất nước có hậu phương như thế, kẻ thù nào có thể đè bẹp được?

Chương 5: Thằng Cay con của mẹ nằm xuống nơi chiến trường phía Nam, nhưng mộ nơi đâu? Mẹ lại lăn lội vào chiến trường tìm con. Miền Đông, miền Tây, nơi nào là mồ con của mẹ? Mẹ gặp bà má miền Nam cũng có con hy sinh nơi địa đầu Tổ quốc, chống quân Trung Quốc xâm lược:

“Không chỉ thế, bao bà mẹ héo hon

Gửi những đứa con

Từ miền Nam ra, gửi thân nơi đất Bắc

Trên mảnh đất thân thương hình chữ S

Nơi nào cũng có liệt sĩ như chú Yên, thằng Cay...”

Đất nước mấy nghìn năm, chưa bao giờ nguôi tắt ngọn lửa chiến tranh, quân dân vẫn kiên cường chống ngoại xâm giữ gìn bờ cõi. Nơi nào  không có xương máu những người như con mẹ, ngã xuống để giữ gìn sự bình yên và toàn vẹn lãnh thổ.

Sở dĩ tôi phải tóm tắt từng chương của trường ca MẸ để  minh chứng rằng, trường ca này có cốt truyện, có sự kiện, có số phận nhân vật của một anh hùng ca. Còn trường ca theo trào lưu thời thượng hiếm có cốt truyện, tác giả chỉ đưa ra sự kiện rồi phổ vào đó những cảm xúc, những suy tư về thời thế, thậm chí chẳng có triết lý gì. Bởi thế rất nhiều trường ca xuất hiện ồn ào một dạo rồi rơi vào quên lãng. Trường ca của Trần Thế Tuyển viết về mẹ, về số phận của một người mẹ chịu nhiều gian khổ từ thơ bé đến tuổi già. Mẹ tần tảo nuôi con, giúp bộ đội đánh giặc, lại tiễn con vào chiến trường bảo vệ đất nước. Qua người mẹ cụ thể ấy hiện lên bao bà mẹ của quê hương đất nước. Thấy cả hậu phương bao hùng vĩ. Mẹ không bi lụy, dù con mẹ đã ngã xuống nơi trận tiền. Khi gặp bà mẹ miền Nam cũng có con hy sinh nơi biên giới phía Bắc, mẹ càng hiểu về tầm vóc dân tộc ta. Trái tim mẹ trở nên vĩ đại hơn. Mẹ trong trường ca Trần Thế Tuyển đã trở thành biểu tượng của lòng hy sinh vì đất nước.

Nếu cốt truyện như khung sườn của ngôi nhà thì những câu thơ hay được ví như vật liệu cất lên ngôi nhà ấy. Một trường ca hay phải kết dính bởi nhiều câu thơ hay, nó xây đắp nên mỹ cảm vạm vỡ trong tâm trí người  thưởng thức. Truyện Kiều của Nguyễn Du kì vĩ ở đâu? Phải chăng đó là bởi trùng điệp những câu thơ hay:

“Long lanh đáy nước in trời

Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng…”

Trường ca thường có dung lượng lớn, bởi vậy các tác giả dễ nhiều lời, mà thơ hay yêu cầu phải kiệm lời, phải đa nghĩa, sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật như ẩn dụ, so sánh, “vẽ mây nẩy trăng”... bởi thế, lẩy ra những câu thơ hay trong trường ca càng khó. May thay trong trường ca MẸ của Trần Thế Tuyển  có nhiều câu thơ hay. Anh Yên hay hát dân ca cho dân làng nghe; chắc là mẹ cũng rất cảm tình và thương nhớ anh: Câu thơ da diết trong làn điệu quan họ:

Câu dân ca bay theo ngọn gió

Người ở đừng về, người ơi có nhớ...”

Những người con đã ngã xuống quê mẹ, nơi miền chân sóng:

“Để dòng sông quê mãi mãi ngân nga

Những con sóng như nỗi lòng nhức nhối”…

Và những câu thơ hay khác:

“Tiếng còi tàu thổn thức mỗi đêm

Bao câu hỏi như con thuyền rời bến

Chở mẹ đi trong hạnh phúc, khổ đau”…

“Người thiên hạ uống nước sông nào đây

Mà vồng ngực như trái chín”…

“Các anh không về

Hoa gạo như máu người nhuộm đất”…

“Mảnh vườn và ánh trăng như trời và đất

Như con trai, con gái làng ta”…

Đôi khi cũng cần có những câu thơ nghe trái ngược, như “phi lý hình thức trong hợp lý nội dung:

“Tiếng khóc trẻ thơ như báo hiệu xuân về…”

Trường ca cần lắm nhưng câu thơ có tính khái quát, khái quát từng đoạn, từng chương, thậm chí khái quát cả trường ca để đúc kết nên một vấn đề, một triết lý thời đại. Những kiểu khái quát sâu sắc như:

“Đất nước là nơi ta hò hẹn

Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm…”

(Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm).

“Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn...”

(Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng? - Chế Lan Viên)

Trong trường ca MẸ của Trần Thế Tuyển cũng có những câu thơ khái quát hay như:

“Thân ngã xuống thành đất đai Tổ quốc

Hồn bay lên hóa linh khí quốc gia

“Bao người vợ đêm đêm trông ngóng

Nỗi đợi chờ thành cổ tích, dân ca”...

Trường ca MẸ của Trần Thế Tuyển lôi cuốn người đọc bởi cảm xúc dạt dào của tác giả trước người mẹ hy sinh trọn đời cho quê hương đất nước. Cảm tưởng như tác giả xuất thần bật lên những câu thơ hay, làm trường ca lung linh, mang hơi thở của cuộc sống, của thời đại. Những khái quát phần cuối của Trường ca MẸ khá sâu sắc, rất ấn tượng, nâng tầm cho toàn bộ tác phẩm vượt lên. 

Nguồn: Văn nghệ số 32 (ngày 6/8/22)

Bài viết liên quan

Xem thêm
Những trang văn phảng phất mùi thuốc súng
Bài tham luận của nhà văn Đỗ Viết Nghiệm
Xem thêm
Di cảo thơ Chế Lan Viên: Khi thơ là thuốc, là lời kinh kệ
Chế Lan Viên là người mà sự nghĩ ngợi vận vào thơ như thể thơ cũng là thuốc, thơ chẩn ra được cái bệnh đau của kiếp người, và “Có vào nỗi đau mới có ích cho người”.
Xem thêm
Cảm hứng sinh thái trong thơ Đặng Bá Tiến
 Là một nhà báo, nhà thơ mấy chục năm gắn bó với vùng đất Đắk Lắk, Đặng Bá Tiến đã sáng tác thành công về thiên nhiên, con người và văn hoá Tây Nguyên với nhiều tác phẩm: Lời chân thành với cỏ (Thơ, 2009), Rừng cổ tích (Trường ca, 2012), Hồn cẩm hương (Thơ, 2017), Linh hồn tiếng hú (Thơ, 2020). Anh là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Tây Nguyên đương đại, một nhà thơ “thứ thiệt”[1] có bản sắc riêng, thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo. Nổi bật trong sáng tác của anh là những tác phẩm viết về rừng, về sinh thái văn hoá và nhân văn.      
Xem thêm
Sức bền của ngòi bút
Nguồn: Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 116, ngày 21/3/2024
Xem thêm
Nguyễn Bính ở phương Nam
Nguyễn Bính (1918-1966), tên thật là Nguyễn Trọng Bính (có lúc tên Nguyễn Bính Thuyết), quê ở Nam Định nhưng sống khắp ba miền đất nước. Ông có phong cách một nhà thơ lãng tử, sáng tác về chủ đề tình cảm làng quê và tình yêu, tổ quốc. Thơ tình cảm mộc mạc của ông được rất nhiều người thuộc. Tác phẩm gồm 26 thi tập trong đó có : + 1 kịch thơ : Bóng giai nhân (1942): + 3 truyện thơ : Truyện Tỳ Bà (1942); Trong bóng cờ bay (1957); Tiếng trống đêm xuân (1958): + 1 vở chèo : Người lái đò sông Vỹ (1964) và rất nhiều bài thơ nổi tiếng của ông được nhạc sĩ phổ thành ca khúc : Tiểu đoàn 307 (Nguyễn Hữu Trí phổ nhạc, Quốc Hương ca);  Cô hái mơ (Phạm Duy); Ghen (Trọng Khương), Cô lái đò (Nguyễn Đình Phúc); Chân quê (Minh Quang). Hiện nay, nhiều thành phố có những con đường mang tên ông. Nhà thơ Nguyễn Bính nhận được giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (2000) cùng với Hoài Thanh, Bùi Đức Ái, Nguyễn Quang Sáng, …
Xem thêm
“Đánh thức mình bằng chân lý vô ngôn”
Tôi biết Nguyễn Minh Thuận (nguyên Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Tư pháp Đắk Lắk) làm thơ đã lâu, dễ hơn ba chục năm trước, thỉnh thoảng anh vẫn đọc cho tôi nghe và rải rác anh cho đăng trên facebook Trương Thị Hiền - vợ anh (TS, giảng viên Trường Đại học Tây Nguyên).
Xem thêm
Đọc “Thơ mười năm” của Hoàng Đình Quang
Bài viết của nhà thơ Trần Quang Khánh
Xem thêm
Hoàng hôn chín – chín mọng yêu thương
Về tập thơ in chung của Võ Miên Trường và Triệu Kim Loan
Xem thêm
Thơ Phan Hoàng trong hành trình ngược lối – Tiểu luận của Mai Thị Liên Giang
Tập thơ “Chất vấn thói quen” của Phan Hoàng từng nhận được nhận Giải thưởng Hội Nhà văn TPHCM và Tặng thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012, sau đó tập thơ này được trao Giải thưởng Nghệ thuật Danube năm 2023 của Hungary. Ngoài ra tập trường ca “Bước gió truyền kỳ” của ông cũng được Ủy ban nhân dân TPHCM trao Giải thưởng Văn học Nghệ thuật TPHCM 5 năm lần thứ II. Để hiểu thêm về hành trình sáng tạo thi ca của nhà thơ Phan Hoàng, xin trân trọng giới thiệu bài viết của nhà lý luận phê bình văn học Mai Thị Liên Giang.
Xem thêm
Những giải mã thú vị, khoa học của một người đọc tri âm
Với kiến văn sâu rộng, sự nghiên cứu cẩn trọng mang tính học thuật cao, khai thác nhiều vấn đề tri thức lý luận mới mẻ; Trần Hoài Anh đã đem đến những trang viết tinh tế, khai mở nhiều điều lý thú và bổ ích.
Xem thêm
Hồn xuân trong thơ Hồ Chí Minh
Nhà thơ Trung Quốc Viên Ưng đã nhận định sâu sắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một trí tuệ lớn, một dũng khí lớn, một tâm hồn lớn”.
Xem thêm
“Trung thực và quả cảm” trong sáng tác và phê bình văn học, nghệ thuật
Bài viết của nhà thơ Mai Nam Thắng trên Văn nghệ số 4/2024
Xem thêm
Nguyễn Quang Thiều với ‘Nhật ký người xem đồng hồ’
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa về tập thơ Nhật ký người xem đồng hồ của Nguyễn Quang Thiều
Xem thêm
Nửa lo giá chợ nửa ngây vì trời
Nguồn: Báo Văn nghệ số 4, ra ngày 27/1/2024.
Xem thêm
Dòng kinh yêu thương
Tháng 8 năm 1969, chương trình Thi văn Về Nguồn góp tiếng trên Đài phát thanh Cần Thơ vừa tròn một tuổi. Nhân dịp nầy, cơ sở xuất bản về Nguồn ấn hành đặc san kỷ niệm. Đặc san tập họp sáng tác của bằng hữu khắp nơi, với các thể loại như thơ, truyện, kịch… và phần ghi nhận sinh hoạt văn học nghệ thuật ở miền Tây trong một năm qua. Trong đặc san này, chúng tôi in một sáng tác của nhà thơ Ngũ Lang (Nguyễn Thanh) viết ngày 24/8/1969, gởi về từ Vị Thanh (Chương Thiện), có tựa đề “Đưa em xuôi thuyền trên kinh Xà No” Hơn nửa thế kỷ trôi qua với bao nhiêu biến động, ngay cả tác giả bài thơ chắc cũng không còn nhớ. Xin được chép lại trọn bài thơ của anh đã đăng trong Đặc san kỷ niệm Đệ nhất chu niên Chương trình Thi văn Về Nguồn, phát hành vào tháng 8 năm 1969.
Xem thêm
Minh Anh, người đánh thức thế giới
từng chữ từng chữ/ rơi vào từng dòng từng dòng/ chúng chụp lấy những khoảnh khắc/ đẹp não nùng/ không thể rời khỏi con tim/ cách duy nhất để tự nó đừng nở rộ quá mức/ vượt khỏi ký ức của ta/ là hãy viết xuống (Sự kỳ lạ của nghệ thuật viết).
Xem thêm
Ta sẽ không như cốc trà nguội cuối ngày
Bài viết của Nguyên Bình về tập thơ Vọng thiên hà của Hoa Mai.
Xem thêm
Con người Chí Phèo
Cái chết của Chí phèo như bản cáo trạng về xã hội thực dân nửa phong kiến thối rữa, nhàu nát, là tiếng kêu oan khốc thấu tận trời xanh của những kiếp người “siêu khổ”.
Xem thêm