TIN TỨC

Trường ca hiện đại cần những gì?

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
774 lượt xem

NGUYỄN TRƯỜNG
(Đọc trường ca MẸ của Trần Thế Tuyển- Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân 2022)

Khác với trào lưu trường ca hiện đại đang thịnh hành, trường ca MẸ của Trần Thế Tuyển vẫn phát huy thế mạnh của tính hiện đại, dạt dào cảm xúc… nhưng trường ca của ông lại có cốt truyện, được xây dựng trên vật liệu của các sự kiện có chọn lọc, mô tả sinh động một thời hào hùng của dân tộc, bởi vậy nó còn mang hồn của sử thi truyền thống. Cốt truyện trong trường ca vô cùng quan trọng, nó như bản kiến trúc hoàn chỉnh, chi tiết để người thợ xây dựng nên tòa nhà. Tòa nhà to, đẹp, hay nhỏ bé, xấu xí, trước hết nằm ở bản vẽ của  kiến trúc sư. Trong trường ca MẸ của Trần Thế Tuyển được tác giả chia làm 5 chương và phần kết Vĩ thanh.

Chương 1: Là nỗi nhớ, nỗi chờ đợi mòn mõi mong con trở về của người mẹ có hai đứa con vào chiến trường miền Nam chống Mỹ:

Mẹ không tin vào đôi mắt

Cuối đường làng có người lính bước nhanh

Từ khi kết thúc chiến tranh

Đã có bao nhiêu hình ảnh ấy

Hình ảnh thân thương

Người bận quân phục màu cỏ cháy

Thời trẻ, hồi kháng chiến chống Pháp, mẹ đã từng đào hầm nuôi giấu cán bộ, anh tên Yên, quê Bắc Ninh:

Đánh bót Văn Đàn, Đông Biên

Mẹ đã đào hầm giấu anh cán bộ tên Yên

Quê hương anh nơi miền Quan họ

Những đêm trăng giặc không ruồng bố

Anh hát dân ca dọc bờ sông

Anh chẳng hát riêng cho mẹ đâu

Mà từng lời vành vạnh, đêm đông

Cứa vào lòng mẹ…”

Mẹ chứng kiến cảnh giặc càn, anh Yên và bao nhiêu đồng đội các miền khác nhau hy sinh. Bây giờ mẹ tiễn hai con ra đi mà lòng thương nhớ, vẫn biết rằng, con mẹ ra đi vì đất nước. Hòa bình, thằng con lớn của mẹ trở về, thằng thứ hai đã nằm lại ở chiến trường xa.

Chương 2:

“Mẹ về thăm quê

Sau hai mươi năm xa cách

Sông Hỗ Đông, vẫn đôi bờ lau lách

Thuyền nan như chiếc lá chơi vơi…”

Thời thiếu nữ mẹ chạy vào Thanh Hóa lánh nạn chiến tranh do quân Pháp càn quét. Mẹ sinh ra trong gia đình quan lại, “bát ngát đất cày” nhưng do cha từ quan, mẹ chưa một ngày được “đóng vai ái nữ”. Mẹ vào Thanh Hóa, làm con nuôi nhà người, chẳng nói cũng biết mẹ phải vượt qua cuộc đời vất vã như thế nào.

Chương 3: Mẹ nhận làm dâu dù chẳng biết người đó mặt mũi ra sao, giàu hay nghèo, sang hay hèn. Chỉ biết đó là một du kích, được nhiều người quý mến, nghe thế mẹ bằng lòng, vì anh cùng lý tưởng với mình. Thân phận mẹ khi làm dâu:

“Túp lều vách đất gió thênh

Lá chuối khô, gối nệm rơm

Thêm đứa con riêng của người chồng ba tuổi…”

Mẹ có đến 6 đứa con, tảo tần nuôi con ăn học, mẹ như thân cò lặn lội sớm khuya.

Hòa bình lập lại, rồi đến chiến tranh chống Mỹ. Máy bay Mỹ kéo đến ném bom bắn phá. Quê hương mẹ trai gái lại lên đường. Thằng Ớt, đứa con đầu lòng học hết lớp 10, đang ôn thi đại học làm đơn tình nguyện lên đường nhập ngũ, rồi vào chiến trường miền Nam. Thằng con thứ hai là Cay lại theo anh lên đường ra trận.

Chương 4: Cảnh quê hương mẹ với gốc đa bến nước sân đình, những biểu tượng văn hóa làng quê gắn bó. Mẹ nhớ bến sông, nơi anh Yên đã hát dân ca quan họ, đã anh dũng hy sinh, nới in dấu chân các con mẹ đi mò cua bắt ốc, nơi cánh đồng lúa bát ngát mênh mông la lã cánh cò. Nơi làng quê gắn bó với nhau khi:

Một nhà có thư, suốt cả canh thâu

Mọi người đến hỏi thăm, chia sẻ

Một nhà nhận tin xót đau

Cả làng khăn tang, dâu bể..”

Đất nước có hậu phương như thế, kẻ thù nào có thể đè bẹp được?

Chương 5: Thằng Cay con của mẹ nằm xuống nơi chiến trường phía Nam, nhưng mộ nơi đâu? Mẹ lại lăn lội vào chiến trường tìm con. Miền Đông, miền Tây, nơi nào là mồ con của mẹ? Mẹ gặp bà má miền Nam cũng có con hy sinh nơi địa đầu Tổ quốc, chống quân Trung Quốc xâm lược:

“Không chỉ thế, bao bà mẹ héo hon

Gửi những đứa con

Từ miền Nam ra, gửi thân nơi đất Bắc

Trên mảnh đất thân thương hình chữ S

Nơi nào cũng có liệt sĩ như chú Yên, thằng Cay...”

Đất nước mấy nghìn năm, chưa bao giờ nguôi tắt ngọn lửa chiến tranh, quân dân vẫn kiên cường chống ngoại xâm giữ gìn bờ cõi. Nơi nào  không có xương máu những người như con mẹ, ngã xuống để giữ gìn sự bình yên và toàn vẹn lãnh thổ.

Sở dĩ tôi phải tóm tắt từng chương của trường ca MẸ để  minh chứng rằng, trường ca này có cốt truyện, có sự kiện, có số phận nhân vật của một anh hùng ca. Còn trường ca theo trào lưu thời thượng hiếm có cốt truyện, tác giả chỉ đưa ra sự kiện rồi phổ vào đó những cảm xúc, những suy tư về thời thế, thậm chí chẳng có triết lý gì. Bởi thế rất nhiều trường ca xuất hiện ồn ào một dạo rồi rơi vào quên lãng. Trường ca của Trần Thế Tuyển viết về mẹ, về số phận của một người mẹ chịu nhiều gian khổ từ thơ bé đến tuổi già. Mẹ tần tảo nuôi con, giúp bộ đội đánh giặc, lại tiễn con vào chiến trường bảo vệ đất nước. Qua người mẹ cụ thể ấy hiện lên bao bà mẹ của quê hương đất nước. Thấy cả hậu phương bao hùng vĩ. Mẹ không bi lụy, dù con mẹ đã ngã xuống nơi trận tiền. Khi gặp bà mẹ miền Nam cũng có con hy sinh nơi biên giới phía Bắc, mẹ càng hiểu về tầm vóc dân tộc ta. Trái tim mẹ trở nên vĩ đại hơn. Mẹ trong trường ca Trần Thế Tuyển đã trở thành biểu tượng của lòng hy sinh vì đất nước.

Nếu cốt truyện như khung sườn của ngôi nhà thì những câu thơ hay được ví như vật liệu cất lên ngôi nhà ấy. Một trường ca hay phải kết dính bởi nhiều câu thơ hay, nó xây đắp nên mỹ cảm vạm vỡ trong tâm trí người  thưởng thức. Truyện Kiều của Nguyễn Du kì vĩ ở đâu? Phải chăng đó là bởi trùng điệp những câu thơ hay:

“Long lanh đáy nước in trời

Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng…”

Trường ca thường có dung lượng lớn, bởi vậy các tác giả dễ nhiều lời, mà thơ hay yêu cầu phải kiệm lời, phải đa nghĩa, sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật như ẩn dụ, so sánh, “vẽ mây nẩy trăng”... bởi thế, lẩy ra những câu thơ hay trong trường ca càng khó. May thay trong trường ca MẸ của Trần Thế Tuyển  có nhiều câu thơ hay. Anh Yên hay hát dân ca cho dân làng nghe; chắc là mẹ cũng rất cảm tình và thương nhớ anh: Câu thơ da diết trong làn điệu quan họ:

Câu dân ca bay theo ngọn gió

Người ở đừng về, người ơi có nhớ...”

Những người con đã ngã xuống quê mẹ, nơi miền chân sóng:

“Để dòng sông quê mãi mãi ngân nga

Những con sóng như nỗi lòng nhức nhối”…

Và những câu thơ hay khác:

“Tiếng còi tàu thổn thức mỗi đêm

Bao câu hỏi như con thuyền rời bến

Chở mẹ đi trong hạnh phúc, khổ đau”…

“Người thiên hạ uống nước sông nào đây

Mà vồng ngực như trái chín”…

“Các anh không về

Hoa gạo như máu người nhuộm đất”…

“Mảnh vườn và ánh trăng như trời và đất

Như con trai, con gái làng ta”…

Đôi khi cũng cần có những câu thơ nghe trái ngược, như “phi lý hình thức trong hợp lý nội dung:

“Tiếng khóc trẻ thơ như báo hiệu xuân về…”

Trường ca cần lắm nhưng câu thơ có tính khái quát, khái quát từng đoạn, từng chương, thậm chí khái quát cả trường ca để đúc kết nên một vấn đề, một triết lý thời đại. Những kiểu khái quát sâu sắc như:

“Đất nước là nơi ta hò hẹn

Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm…”

(Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm).

“Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn...”

(Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng? - Chế Lan Viên)

Trong trường ca MẸ của Trần Thế Tuyển cũng có những câu thơ khái quát hay như:

“Thân ngã xuống thành đất đai Tổ quốc

Hồn bay lên hóa linh khí quốc gia

“Bao người vợ đêm đêm trông ngóng

Nỗi đợi chờ thành cổ tích, dân ca”...

Trường ca MẸ của Trần Thế Tuyển lôi cuốn người đọc bởi cảm xúc dạt dào của tác giả trước người mẹ hy sinh trọn đời cho quê hương đất nước. Cảm tưởng như tác giả xuất thần bật lên những câu thơ hay, làm trường ca lung linh, mang hơi thở của cuộc sống, của thời đại. Những khái quát phần cuối của Trường ca MẸ khá sâu sắc, rất ấn tượng, nâng tầm cho toàn bộ tác phẩm vượt lên. 

Nguồn: Văn nghệ số 32 (ngày 6/8/22)

Bài viết liên quan

Xem thêm
Tần Hoài Dạ Vũ – Người thầy mẫu mực đất Quảng
Tần Hoài Dạ Vũ – nhà thơ, nhà báo, nhà giáo, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian…xin được gọi ông là nhà nào đây ạ? Tần Hoài Dạ Vũ cười hiền lành, đầy khiêm tốn: “Cứ gọi tôi nhà giáo là được rồi!”. Người tôi nói đến, đó chính là thầy giáo Nguyễn Văn Bổn (bút danh Tần Hoài Dạ Vũ).
Xem thêm
Văn truyện của Phạm Ngọc Dũ - Cảm xúc chân thành và đầy tính nhân văn
Trước khi khai thác về văn truyện của anh, tôi xin giới thiệu đôi dòng về nhà văn Phạm Ngọc Dũ: Phạm Ngọc Dũ sinh năm 1957 tại Quảng Ngãi, hiện sống và viết tại tp HCM, Hội viên Hội Nhà văn TPHCM. Anh hiện đang là chủ biên của Tạp san Sông Quê.
Xem thêm
Dấu chân thơ – những thiên du ký bằng thơ sâu lắng ngọt ngào
Bài viết của nhà thơ Phố Giang, hội viên Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh
Xem thêm
Cuộc du ngoạn bằng thơ đầy cảm xúc
“NHỮNG DẤU CHÂN THƠ” Là tập thơ thứ Ba của tác giả Trần Kim Dung do nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành vào đầu tháng Sáu năm 2023.
Xem thêm
‘Mười năm một quãng đường người xót xa’
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa về tập Thơ mười năm của Hoàng Đình Quang, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2023
Xem thêm
Dòng ban mai trong thơ Trần Hùng
Tập thơ Mắt mắt khuya từng đàn (NXB Hội Nhà văn, 2023) của Trần Hùng dẫn tôi vào một sớm đang tan sương, có thể ứng với bất kỳ mùa nào trong năm. Khi ấy hừng đông đã rạng, sưởi ấm cho khắp miền không gian nơi con người cùng vạn vật vừa thức dậy. Một ban mai không ngưng đọng mà dịch chuyển, cuộn chảy trong bầu không khí thanh sạch, tinh khôi. Dòng chảy ấy khai mở một ngày mới trong tâm tưởng bạn đọc, bảng lảng, đột sáng và trong suốt.
Xem thêm
Đại thi hào Nga Pushkin – Một thời để yêu, một thời để chết
Cái chết bi thảm của đại thi hào Nga Aleksandr Pushkin cách đây gần 200 năm sau cuộc quyết đấu bên bờ sông Đen (thuộc ngoại ô Peterburg) đã làm dấy lên một làn sóng phẫn nộ trong công chúng, đồng thời đổ ập lên đầu Natalya – vợ ông – biết bao điều tiếng…
Xem thêm
Hành trình văn học Nga ở Việt Nam: Dòng chảy không đứt đoạn
Quan hệ ngoại giao giữa Liên Xô (nay là Liên bang Nga) và Việt Nam được chính thức xác lập từ ngày 30/1/1950 song mối quan hệ văn chương Nga – Việt đã hình thành từ trước đó rất lâu, dưới hai hình thức: sự giao lưu văn hóa và sự tiếp nhận của những người cộng sản Việt Nam từ nền văn hóa, văn học Nga. Đi suốt thế kỷ XX và ở những năm đầu thế kỷ XIX, tuy có những lúc thăng trầm, song mối quan hệ văn chương ấy chưa bao giờ đứt đoạn!
Xem thêm
Triết lý nhân sinh trong cảm thức thơ của Hoàng Vũ Thuật
Đối với thi sĩ, cái tôi trữ tình phần nào đại diện cho những kiếp nhân sinh mà họ quan sát, gặp gỡ và cảm tưởng. Con người thi ca tìm thấy và chịu đựng được khổ đau của mình, nhưng không chịu đựng được khổ đau của nhân loại. Họ cất tiếng thay cho nhân loại, bằng trái tim đã thấm thía những nỗi đời riêng.
Xem thêm
Vàng của tâm hồn, vàng của văn chương
Bài viết của nhà văn Ngô Xuân Hội về nhà văn Nguyễn Trí
Xem thêm
Bùi Giáng - Người chưa bao giờ già
Bùi Giáng (1926 – 1998) là người hay được nhắc đến với biệt danh “trung niên thi sĩ” do ông tự nhận. Quãng đời sáng tác của ông không chỉ gắn với những bài thơ hay, đầy chất ngẫu hứng, mà còn gắn với những câu chuyện kể nửa hư nửa thực. Nhân kỷ niệm 25 năm ngày ông qua đời, nhìn lại hành trình thơ của ông, thấy được người “trung niên thi sĩ” này chưa bao giờ già trong con mắt của độc giả.Bùi Giáng (1926 – 1998) là người hay được nhắc đến với biệt danh “trung niên thi sĩ” do ông tự nhận. Quãng đời sáng tác của ông không chỉ gắn với những bài thơ hay, đầy chất ngẫu hứng, mà còn gắn với những câu chuyện kể nửa hư nửa thực. Nhân kỷ niệm 25 năm ngày ông qua đời, nhìn lại hành trình thơ của ông, thấy được người “trung niên thi sĩ” này chưa bao giờ già trong con mắt của độc giả.
Xem thêm
Từ khải ca họa mi đến thực mơ giữa đôi bờ chùa – chợ!...
Bài bình 2 bài thơ của doanh nhân - nhà thơ Trương Vạn Thành.
Xem thêm
“Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao
Sau ca khúc “Tiến về Hà Nội” đúng 26 năm, vào mùa xuân 1976, nhạc sĩ thiên tài Văn Cao khi có dịp vào TP.HCM, ông lại sáng tác ca khúc “Mùa xuân đầu tiên”, viết về những cảm xúc tràn ngập tâm hồn ông trong “mùa xuân đầu tiên” sau khi nước nhà hòa bình thống nhất.
Xem thêm
Người nữ và con đường tình yêu trong Đối thoại đêm
Đọc Đối thoại đêm của Triệu Kim Loan, NXB Hội Nhà văn, 2023
Xem thêm
Đào Phong Lan - hồn thơ vẫn mềm như cỏ
Tham luận của nhà thơ Lê Thiếu Nhơn đọc tại buổi ra mắt tập thơ “Em không thể nói lời từ biệt”
Xem thêm
Nhà văn Trịnh Minh Hiếu và “Giấc cỏ dụ”
Cách đây tròn 10 năm, năm 2013, Trịnh Minh Hiếu ra mắt tập truyện ngắn đầu tay “Tiếng chuông trên đỉnh Cô Thình” (NXB Hội Nhà văn 2013). Tròn một năm sau, chị lại cho ra mắt tập truyện ngắn thứ hai mang tên “Thúy Mầu” (NXB Hội Nhà văn 2014). Hai tập truyện ngắn có cá tính riêng của chị ngày ấy khuấy động làng văn chương không ít.
Xem thêm
Đào Phong Lan “không thể nói lời từ biệt” với thơ!
Bài viết của Bảo Gia đăng trên tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 98, ngày 02/11/2023.
Xem thêm
Đò đầy vơi, bến cũ chẳng quên người!
Bài viết của PGS.TS Ngô Minh Oanh về tập thơ Đối thoại đêm của Triệu Kim Loan.
Xem thêm