TIN TỨC

Trương Nam Hương - câu thơ trong trẻo nỗi buồn

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2021-08-25 08:08:24
mail facebook google pos stwis
2093 lượt xem
ANH THƯ
 
Trương Nam Hương sinh năm 1963, tuổi Quý Mão, nhằm mệnh Kim, là một trong những gương mặt thơ hiện đại được bạn đọc yêu mến. Những tập thơ tiêu biểu của anh như: “Khúc hát người xa xứ” (NXB Trẻ - 1995), “Cỏ, tuổi hai mươi’ (NXB Văn nghệ - 1992), “Ban mai xanh” (NXB Đồng Nai, 1994), “Ngoảnh lại tháng năm” (NXB Văn học - 1995), “Viết tặng những mùa xưa” (NXB Thanh Niên -1999) “Ra ngoài ngàn năm” (NXB Văn Học - 2008). Ở thời điểm kết nạp vào Hội nhà văn Việt Nam, anh là hội viên trẻ tuổi nhất sở hữu giải thưởng thơ danh giá...
 
1. Nhiều lần tôi có ý định viết về anh, nhưng một phần vì chưa đọc anh đầy đủ, phần nữa là anh em quen biết đã lâu, để viết về nhau không dễ. Đôi khi, sự lạ lẫm, những ấn tượng ban đầu lại làm nên sức hấp dẫn cho câu chữ hơn là những điều đã thấu tỏ.
 
Trương Nam Hương gốc Huế, cha tập kết ra Bắc, mẹ là con gái Bắc Ninh. Anh sinh ra, lớn lên ở Hà Nội. Mười hai tuổi theo gia đình vào Sài Gòn. Mẹ mất sớm. Ám ảnh mồ côi, ám ảnh tha hương cứ đi suốt theo anh, đặc biệt mạnh mẽ và da diết trong những năm tháng tuổi đôi mươi. Trải nghiệm ấy giúp anh có được nhiều bài thơ, nhiều câu thơ hay:
 
“Trong cha có một câu hò / Trong câu hò có con đò sông Hương / Trong sông Hương có nỗi buồn / Trong thăm thẳm có vô thường thi ca...”
 
Tôi chưa có dịp nào hỏi anh, rằng vì sao cha mẹ anh lại đặt tên anh như vậy. Nam Hương có phải là phía nam sông Hương, như sự gợi nhắc về nơi chôn nhau cắt rốn? Trong giới cầm bút, Trương Nam Hương không trùng bút danh với ai, cho đến tận bây giờ. Từ họ, đệm, và tên đều là vần bằng - nhẹ nhõm, tĩnh tại, ngát xanh như dòng Hương mở ra bao la nhớ. Tên vận vào người. Tên vận vào thơ. Vậy nên thơ anh gợi nhiều ám ảnh, u hoài nhưng vô cùng trong sáng. Những nỗi nhớ kết tinh, lắng lọc, day dứt. Điều ấy có thể nhận ra ngay từ nhan đề: “Khúc hát người xa xứ”, “Ngoảnh lại tháng năm”, “Viết tặng những mùa xưa”.
 
Sẽ có ý kiến phải biện lại rằng: Bản chất thơ ca là hướng nội. Văn chương viết về cái đã qua thường sâu sắc thấm thía hơn là viết về những điều đang và sẽ xảy ra. Trương Nam Hương đâu có gì khác biệt. Đúng vậy. Anh không ở ngoài dòng chung đó. Nhưng những day dứt trong anh dường như sâu nặng hơn, là một phần cấu thành nên hơi thở, tâm hồn và cả con người sinh học của anh. Trương Nam Hương trung thành với những yêu mến của mình, có thể giúp đỡ ai đó một cách vô tư, và bao năm cứ thủy chung giữ cách ứng xử như vậy, chẳng để ý đến vật đổi sao dời. Hai mươi tám tuổi giành giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam với tập thơ đầu tay - một giải thưởng danh giá của nền văn học nước nhà những năm tháng ấy. Cũng ở thời điểm kết nạp vào Hội nhà văn Việt Nam, anh là hội viên trẻ tuổi nhất nhưng đã định hình một giọng thơ riêng, da diết, tài hoa, dễ chạm vào các tầng bậc cảm xúc. Tới nay, những giải thưởng anh nhận được không ít, đặc biệt là những danh hiệu như: “Nhà thơ được yêu thích nhất” do báo Người lao động bình chọn năm 1992, “Gương mặt văn học 20 năm thành phố Hồ Chí Minh 1975 - 1995”, “Gương mặt văn học 30 năm thành phố Hồ Chí Minh 1975 - 2005”, chứng tỏ thơ anh không chỉ thuyết phục bạn viết mà còn đến được với người yêu thơ rộng rãi.
.
2. Ở tuổi trung niên, thơ Trương Nam Hương không còn cái cồn cào thao thiết nhưng đằm mặn hơn - vị đằm mặn của người đã đi qua mất mát, đổ vỡ, đã chứng thực, trải nghiệm và thấm thía. Anh trân trọng hơn thời gian hiện hữu. Sự hóm hỉnh không bị mất đi, mà được đặt đúng lúc đúng chỗ. Anh vẫn thích ngồi cà phê cùng anh em bạn bè, nhưng phải là bạn bè thân quý nhau. Anh vẫn thích đọc thơ mình, những câu thơ chợt đến, những câu thơ đã viết từ thủa nào cũng ùa về hợp tình hợp cảnh.
 
“Mời em vào quán Thời gian / nâng ly ký ức uống làn hương xưa / Mời em vào quán Không mùa / ta chia nhau ngọn gió mùa rét căm / Mời em vào quán Không năm / để nghe nhớ khóc ướt đầm ngón tay / Mời em vào quán Không ngày / để xem trời thả heo may - Để buồn.../ Đắng lòng môi chạm yêu thương / Thời gian quên bỏ chút đường đấy em!” (Quán Thời gian).
 
Có vẻ như, nhịp sống này, với những đổi thay chóng mặt không phù hợp tạng người như anh. Gắn bó với Sài Gòn từ thuở thiếu niên, thành công và thanh danh cũng ở đây, yêu vẻ đẹp hiện đại của Sài Gòn nhưng hồn thơ anh thuộc về xứ Huế, thuộc về Kinh Bắc và đặc biệt là thuộc về Hà Nội. Dù không sống ở quê cha, anh vẫn nhận ra giọng chàng trai xứ Huế chỉ qua câu nói đầu tiên. Thương miền quan họ, bởi mối dây ràng buộc thiêng liêng từ mẹ. Và Hà Nội - Hà Nội có cả mẹ cả cha, cả một bầu trời tuổi nhỏ. Trong thơ và trong đời, Trương Nam Hương thường thực hiện nhiều chuyến trở về Hà Nội, nơi ắp đầy mùi hương, âm thanh và dáng vẻ vốn đã nằm sâu trong tâm trí đứa trẻ lên mười: Làn gió heo may, hương hoa sữa, quả bàng chín, trái sấu rơi, tiếng tàu điện leng keng... Những hình ảnh bình dị đời thường đi vào thơ anh mang vẻ đẹp riêng, trong trẻo, bởi anh đã viết bằng trực giác, bằng cái tình nồng nã cùng nỗi nhớ ngậm ngùi, trong nỗi nhớ có không ít nỗi thương mình, thương và nhớ mẹ. Anh thích cái mênh mang sâu thẳm của Hồ Tây nhưng cảm thấy ấm áp hơn với không gian Hồ Gươm xinh nhỏ. Nhìn làn sóng nước Hồ Gươm là nhớ đến làn tóc mẹ. Bên mênh mang sông Hồng lại chạnh lòng thân phận mồ côi:
 
Con xa mẹ xa quê biền biệt thế / Hỡi hoa xoan ký ức tuổi lên mười / Chỉ sông Hồng thương mẹ hát đơn côi / Phù sa đỏ như miếng trầu mẹ quệt / Ăn hạt gạo mãi giờ con mới biết / Có sông và đời mẹ ở bên trong” (Với sông Hồng)
 
3. Trương Nam Hương viết là “xa mẹ” chứ không bao giờ viết là “mất mẹ”. Mẹ vẫn ở trong anh, sâu thẳm, thiêng liêng, truyền cho anh động lực sống và yêu thương cuộc đời. Anh có nhiều bạn bè ở các vùng miền đất nước, trọng nhau vì tài, quý mến nhau vì tính, nhưng tôi dám chắc anh ít người tri kỷ. Ngay cả người bạn thân nhất, có lẽ giữa anh và bạn vẫn chút ít khoảng cách, cái khoảng cách tự nhiên không có lỗi. Bá Nha Tử Kỳ, Nguyễn Khuyến Dương Khuê xưa nay có mấy người. Nếu không tìm được tri âm cũng không phải quá bận lòng. Hạnh phúc vốn được ví như chiếc chăn hẹp, làm sao có thể trọn vẹn cho tất cả. Anh lại còn có thơ. Thơ đem đến cho anh bạn đọc, bạn bè, ít nhiều thành công nổi tiếng. Thơ cũng chưa từng bỏ anh lúc hoạn nạn khó khăn. Bù lại, anh chọn một lối sống giản dị, kín đáo, để không lợi dụng, không làm đau, không phụ bạc chữ nghĩa. Dù đôi khi có thoáng qua chua chát “cũ mèm vần điệu khi gieo”, “đời thơ bèo bọt dăm câu bọt bèo”, thì đấy cũng là tự trách mình, chứ chẳng thể trách thơ. Bằng chứng là khi có tập thơ mới, anh mua riêng một cây bút để nắn nót viết lời đề tặng rồi gửi đi, đầy trân trọng đối với bạn bè gần xa.
 
Trương Nam Hương mang nhiều nỗi buồn. Nỗi buồn có lý do và cả những nỗi buồn không có lý do, thuộc về bản chất, tạng người, như thể vu vơ không dễ gì nắm bắt, dễ trở thành lạc lõng giữa đám đông. Lần gặp gần đây nhất, anh khoe đã bỏ thuốc lá thành công. Nước da có phần sạm hơn do tuổi tác, nhưng nụ cười thêm tươi tắn an nhiên. Anh như vội vàng hơn, muốn nâng niu, muốn níu giữ, muốn đầm mình sâu hơn vào cái lạnh mùa đông Hà Nội. Nhớ Bắc, anh vẫn giữ giọng Bắc, thích ăn cơm Bắc, và vẫn uống cà phê theo phong cách Hà Nội ở giữa Sài Gòn. Song bây giờ nếu trở về sống ở Hà Nội thì chắc chắn anh không lựa chọn. Bởi Hà Nội trong anh đã thuộc về tâm thức. Hãy cứ để miền ký ức ấy sáng mãi trong lồng ngực, thi thoảng được đập rộn lên hay se thắt. Hà Nội hôm nay đã khác. Nếu chạm vào, sợ rằng miền ký ức ấy sẽ tan vỡ, những ảnh hình không còn tồn tại, và anh dễ gì làm lại được từ những trống vắng? Yêu thương không phải là chiếm hữu. Chính là xa Huế, xa Kinh Bắc, xa Hà Nội, chính là những khắc khoải về thân phận tha hương, cái đa tình đa đoan, nét cứng cỏi đứng ngoài vòng danh lợi, Trương Nam Hương mới có được những vần thơ làm day dứt lòng người:
 
“Tạ ơn Hà Nội trọn đời / Nuôi tôi thương khó. Tôi thời trong veo...” (Hà Nội một thời).
A.T.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Minh Châu và sự đổi mới tư duy trong việc phản ánh hiện thực chiến tranh cách mạng
Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Sự nghiệp văn học của ông không chỉ gắn liền với cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc ở những năm kháng chiến mà còn gắn với những tháng năm đầy ưu tư của thời hậu chiến với bước chuyển dạ diệu kỳ, chuẩn bị cho tiến trình đổi mới đất nước về mọi phương diện, trong đó có văn học.
Xem thêm
Hữu Thỉnh và chiến sĩ xe tăng
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước gian nan khốc liệt của dân tộc Việt Nam trong gần một phần tư thế kỷ như một bản trường ca âm vang giai điệu trầm lắng bi hùng, đã phản ánh phẩm chất cao đẹp sáng ngời của mọi tầng lớp nhân dân ở cả ba miền. Những người tham gia vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc, cầm súng trực diện đấu tranh với quân thù có những chiến sĩ làm văn nghệ thuộc đủ binh chủng như: Nguyễn Thi (1928-1968), Lê Anh Xuân (1940-1968), … và Hữu Thỉnh. Trong đó, xuất thân từ một chiến sĩ xe tăng, Hữu Thỉnh được coi là một gương mặt thơ xuất sắc nổi trội trong nền văn học có lửa của giai đoạn 1954-1975.
Xem thêm
Lê Quang Sinh và nghệ thuật phê bình thơ
Bài viết của PGS.TS Hồ Thế Hà
Xem thêm
Anh nằm đây – trẻ mãi tuổi hai mươi
Bài viết về thơ Trần Ngọc Phượng
Xem thêm
Lê Tiến Vượng và hai tập lục bát liền hơi
Bài viết của nhà thơ Vũ Quần Phương về hai tập lục bát của Lê Tiến Vượng xuất bản cuối năm 2016 (Lục bát khóc cười) và cuối năm 2018 (Lục bát phố).
Xem thêm
“Gặp” lại nhà văn Lưu Thành Tựu với “Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5”
Nhà văn Lưu Thành Tựu hiện là phó ban điều hành phân hội văn học, hội văn học nghệ thuật Bình Dương. Truyện ngắn Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5 của anh là tác phẩm đạt giải tại Cuộc thi truyện ngắn Đông Nam bộ năm 2022, đã đăng trên vanvn.vn và Tạp chí Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh như một sự ra mắt sau khi tác giả được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam.
Xem thêm
Chất Folklore trong Lục bát khóc cười và Lục bát phố
Cầm hai tập thơ thuần thể loại lục bát quen thuộc, nghĩ đọc cũng hơi ngại bởi cứ đều đều một điệu, dễ chán. Nhưng đọc một vài bài mở đầu trong tập “Lục bát khóc cười” và “Lục bát phố” của Lê Tiến Vượng thì cảm giác ấy dần mất đi và thay vào đó là cảm giác hào hứng và thú vị.
Xem thêm
Trăn trở sự tồn tại người - Gía trị nhân bản trong thơ Văn Cao
Đọc thơ Văn Cao, ở nhiều thi phẩm như: Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Những người trên cửa biển, Khuôn mặt em, Một đêm đàn lạnh trên sông Huế, Lá, Trôi, Thời gian, Cánh cửa, Thu cô liêu, Năm buổi sáng không có trong sự thật, Ba biến khúc tuổi 65, Linh cầm tiến… bạn đọc cũng có thể thấy sự đa dạng cung bậc cảm xúc, có xôn xao, có sâu lắng bâng khuâng… nhưng dường như chủ đạo vẫn là những thì thầm tự vấn, suy tư trăn trở, đau buồn và thậm chí nhiều khi hoang mang, kinh hãi, lo âu. Phải chăng, tất cả những thể nghiệm cảm xúc nội tâm ấy bắt nguồn sâu xa từ những “chấn thương” tinh thần của tác giả bởi tác động của hoàn cảnh sống? Và dưới tầng sâu lớp ngôn từ của mỗi thi phẩm ẩn giấu bao mỹ cảm mà chúng ta cần suy ngẫm“giải mã”?
Xem thêm
Nguyễn Trọng Tạo mà đời vẫn say, mà hồn vẫn gió
Hôm nay 12/6, Nhà lưu niệm nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo (1947-2019) được khánh thành tại đội 6, xã Diễn Hoa, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
Xem thêm
Số phận các nhân vật nữ trong tập truyện ngắn “Đảo” của Nguyễn Ngọc Tư
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư Sinh năm 1976 tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, là nhà văn, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Năm 2018, cô được trao Giải thưởng Văn học Liberaturpreis 2018 do Litprom (Hiệp hội quảng bá văn học châu Á, châu Phi, Mỹ Latin ở Đức) bình chọn, dựa trên việc xem xét các bản dịch tiếng Đức tác phẩm nổi bật của các tác giả nữ đương đại tiêu biểu trong khu vực. Giải thưởng được trao hàng năm nhằm vinh danh các tác giả nữ đến từ châu Á, Phi, Mỹ Latin, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) và vùng Caribe.
Xem thêm
Lê Khánh Mai và hành trình nhà thơ nữ bứt phá
Nhà thơ, nhà văn Lê Khánh Mai đến nay (năm 2024) đã ấn hành 12 đầu sách, trong đó có 7 tập thơ, 1 tiểu thuyết, 1 tập truyện ngắn, 1 chuyên luận văn học, 1 tập tiểu luận phê bình văn học, 1 tập tản văn và tuỳ bút. Sức sáng tạo ở một tác giả nữ như vậy là liên tục và rất mạnh mẽ. Thơ là thể loại chính của ngòi bút Lê Khánh Mai nhưng văn xuôi và lý luận, phê bình cũng đạt nhiều thành tựu. Tất cả làm nên tên tuổi của một nhà thơ, nhà văn tiêu biểu của tỉnh Khánh Hoà và của văn học Việt Nam hiện đại.
Xem thêm
Trần Đàm đi tìm một bản ngã
Đã ngoài tám mươi mà mỗi lần theo ông, cánh hậu sinh chúng tôi cách ông cả giáp vẫn thấy hụt hơi. Đúng là không nói ngoa cả khi leo dốc, đường trường lẫn khi viết lách, chơi bời.
Xem thêm
Đọc Người xa lạ của Albert Camus bằng chiếc gương soi của chủ nghĩa hiện sinh
Giàu Dương Nếu triết học cổ điển đề cao bản chất và dấn thân vào việc tìm kiếm những định nghĩa về bản chất, thì trào lưu hiện sinh tập trung vào sự tồn tại của bản thể, lấy đó làm điểm khởi nguyên cho mọi sự phóng chiếu vào thực tại khách quan. Người xa lạ (L’Étranger) của Albert Camus ra đời như một dấu ấn sâu sắc của triết thuyết hiện sinh ở giai đoạn nửa sau thế kỷ XX. Là một triết gia, nhà văn tài hoa, Camus đã mở ra những cánh cửa để người đọc bước vào thế giới của “kẻ xa lạ” Meursault – một người đàn ông tự mình chọn lấy thế đứng bên lề của xã hội. Hành trình của Meursault không đi tìm một kết luận duy nhất của sự tồn tại mà chỉ trình bày sự tồn tại như nó vốn là.
Xem thêm
Một thế giới rất ‘đời’ trong sáng tác của Tản Đà
Nhà thơ, nhà báo Tản Đà (SN 1889), quê làng Khê Ngoại, xã Sơn Đà, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây.
Xem thêm
Cây có cội, nước có nguồn
Nguồn: Báo Văn nghệ số 19/2024
Xem thêm
Khát vọng Dế Mèn
Sự ra đời của Giải thưởng Dế Mèn cùng với phát ngôn của đại diện Hội Nhà văn Việt Nam đã chạm đến khát vọng lâu nay vẫn nằm đâu đấy trong những người yêu và hiểu rõ hiện trạng văn học thiếu nhi nước nhà…
Xem thêm