TIN TỨC

Biên bản thặng dư – một vẻ đẹp nhân văn

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2021-11-11 09:15:35
mail facebook google pos stwis
1694 lượt xem

TS. HOÀNG THỊ THU THỦY

Cầm tập thơ “Biên bản thặng dư” do nhà thơ Phùng Hiệu gửi tặng, bất giác tôi tự hỏi: “Nghệ sỹ - anh là ai?”, sao anh có thể viết được những câu thơ hay đến như thế này: “Chị quét cả đời nhưng rác chảy về đâu/ Khi dấu chân dẫm mòn tuổi tác/ Và năm tháng rót dần khô cạn/ Sáu mươi năm mà rác vẫn tuần hoàn… Đến cuối cuộc đời người ta quét chị ra/ Vì ngỡ rác trong khu nhà ổ chuột” (Quét rác). Hiện thực trần trụi đã xuất hiện trong thơ anh, không mĩ miều, không ngợi ca, mà như những trang đời trên mỗi trang thơ. Người đọc hẳn còn nhớ “tiếng chổi tre” trong thơ Tố Hữu, nhưng tiếng chổi tre đó còn lãng mạn và thi vị lắm; với cái nhìn của thi sĩ Phùng Hiệu chuyện quét rác tuần hoàn không đổi, bởi: “Chị quét cả đời nhưng rác mãi phát sinh”.

“Nghệ sỹ - anh là ai?” - là người sáng tạo các giá trị thẩm mĩ, trước hết là cái đẹp. Nghệ sỹ lao động tự nguyện, đam mê sáng tạo ra tác phẩm, và tác phẩm chứa đựng tình yêu, niềm tin và lòng nhân ái của nghệ sỹ. Và tôi lại bắt gặp cái nhìn chứa đựng nỗi đau của thi nhân trong bài thơ “Biên bản thặng dư”, những công nhân ngày đêm tăng ca, tăng giờ làm, để những ngày giờ bán hết sức lao động, chỉ số thặng dư của họ thu về bằng mồ hôi và nước mắt: “Chị mang về hơn một tháng lương/ Chỉ thừa ra bữa cơm lao động/ Sau những đêm cày ải đến không ngờ… Anh run tay nhận việc ngoài giờ/ Sáu tiếng thặng dư được tính tròn ngày chẵn/ Và kiệt sức sau mười bốn giờ căng thẳng/ Với đôi chân rách tướp công trường”. Nếu không có cái nhìn thẳm sâu, cái nhìn cảm thông, cái nhìn đong đếm được sức lực người công nhân bỏ ra, cố kiếm tìm thêm những đồng lương tăng ca của thi nhân và viết thành những bài thơ như thế này thì làm sao người ta hiểu được nỗi khổ của những con người lao động “đầu tắt mặt tối”, nỗi khổ của những con người “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”. “Chị đẩy cuộc đời về phía mưu sinh/ Từ gánh ve chai lấm màu tri thức… Chị đẩy vào đời giấc ngủ cu li/ Những đứa con thơ vật vờ trên vỉa hè thành phố… Những mảnh đời loang lổ dấu chân đêm” (Cuộc mưu sinh).

“Nghệ sỹ - anh là ai?” Sáng tác của anh là quá trình tìm tòi, sáng tạo. Sáng tạo của anh thuộc về những người lao động nghèo khổ, thuộc về những mảnh đời bất hạnh, những mảnh đời vất vưởng trên hè phố… Trong “Giấc mơ hiện thực”, thi nhân viết: “Năm 14 “lòn” vào xí nghiệp/ Tấm giấy thông hành có tên rất lạ/ Tôi được ngụy trang như đã trưởng thành… Những đứa như tôi vắng bóng mái trường… trong một lần kiệt sức mê man/ tôi bắt gặp giấc mơ/ Giấc mơ tôi được làm người/ một con người thực sự tự do/ Một con người mang tên bình đẳng/ một giấc mơ hiện thực/ được hình thành trong tiểu thuyết chiêm bao”. Đọc xong bài thơ, tôi thấy mắt mình cay. Tôi nhớ, tôi từng giảng về bộ ba tự truyện của M.Gorki về những con người cùng khổ, những cảnh đời bất hạnh. Nhà văn kể chuyện bằng tiểu thuyết, nhà thơ kể chuyện bằng thơ. Một bài thơ ngắn đọc xong như một câu chuyện kể về một cuộc đời, chất tự sự thấm đẫm trong mỗi bài thơ qua cái nhìn cảm thông, thương xót của Phùng Hiệu.

Cảm thông và sẻ chia với “Tết của người công nhân góa phụ” “Chị cầm tháng lương nép vào bóng đêm” – câu thơ như kể, như gợi, thấm vào trong ta một nỗi buồn về những mảnh đời nghèo khổ. Giấu đi tiếng nấc nghẹn để kể về “Sự mất tích của người công nhân” khi “Anh rơi xuống từ tầng 18…” và khi “Dự án hoàn thành, dự án được vinh danh”, còn “anh bị xóa tên”. Nhà văn Lê Thiếu Nhơn nói rất đúng về thi nhân Phùng Hiệu: Trên vai anh có mồ hôi người thợ và trong tim anh có nỗi trắc ẩn thi sĩ.

Cảm hứng thơ trong anh là những mảnh đời bất hạnh, từ những công nhân nghèo khổ, cô đơn, gặp tai họa khi lao động; đến những người bán vé số, những phận đời với tấm giấy thông hành có tên rất lạ; cả những con người làm những công việc mà “Phía sau ánh đèn lừa dối”, thi nhân nhận ra số phận của họ thật hẩm hiu: “em hiện diện như một nàng tiên chơi trò chuyển nhượng/ giữa thế giới dối lừa/ đam mê phó mặc/ hoang phí thanh xuân/ giễu cợt ái tình…”. Đọc thơ anh, bất giác tôi nhớ đến tứ thơ: “Ta cứ mãi với sắc huyền hỏi ngã/ phóng to đêm/ khuyếch đại chiều tà/ Ta vẫn thấy cuộc đời vô căn cước/ sáu nan đề/ sáng đẹp sáu vầng trăng/ câu thơ số cuối ngày đang mã hóa/ bàn phím văn chương/ thiếu chữ em cần” (Thi sĩ – Phan Thanh Bình). Là nghệ sỹ, thi sĩ hãy viết về nhân dân, viết về những con người đau khổ, đấy mới là thiên chức. “Một ngày thản nhiên/ Cuộc sống bỗng dưng đảo lộn/ Những cánh đồng trắng lưng phố xá… Người nông dân tự nhiên mất đất/ Những cung đường tự do siết chặt…” (Quy hoạch tự do). Cái nhìn của thi nhân thật nhân văn với phận đời những em bé thất học, những cụ già kiếm cơm từ xấp vé số: “Em lớn lên bằng vòng tay vé số/ Em lớn lên từ ve chai sắt vụn/ Em lớn lên bằng sự thờ ơ lạnh lẽo” (Em vẫn lớn lên); “Trên những cung đường quen thuộc tuổi tên/ Một bà lão chống gậy bằng đôi tay vé số” (Đằng sau tờ vé số). Tôi vẫn tự hỏi mình, không biết thi nhân đã lang thang mất bao lâu trên mọi ngả đường, theo sau mỗi phận người để viết, hay cái nhìn của thi nhân đã thật thẳm sâu về những phận đời bất hạnh và khi trái tim đó thật đau thì sẽ viết ra những vần thơ xa xót. Khi đọc bài thơ “Phía sau bức tường giải tỏa”, có cảm giác như ai đó đang bóp nghẹt tim mình bởi một cảm giác bất lực với những phận người “thấp cổ bé họng”: “Tấm bản đồ quy hoạch tự nhiên/ Cuộc mưu sinh đến ngày định giá/ Từ trong những ngôi mộ cổ/ Từ trong những túp lều quy hoạch/ những dây thép gai mọc lên/ Từ những khối bê tông được kết đông bằng máu đỏ/ Cho những tòa nhà cao ốc tự do/ Sững sững vươn lên/ Bằng nhiều mảnh đời khép lại/ đoàn người lại tiếp tục ra đi/ Nhưng triết lý thặng dư/ Vẫn lập trình những bước chân vô sản”.

Nhà thơ Phùng Hiệu

Viết về nhân dân, về những người lao động, anh còn viết về Tổ Quốc qua cái nhìn về biển đảo, những bài thơ mang hơi thở thời đại. Nhưng với tôi, khi đọc những vần thơ viết về những mảnh đời, những thân phận bất hạnh trong thơ anh, tôi đã hiểu thêm về quan niệm nghệ thuật của anh trong bài thơ “Ngôn ngữ lên ngôi”, anh đã khẳng định những vần thơ nhân cách của mình bởi đối tượng trữ tình là hiện thực, hiện thực chân thực, tự nhiên và có phần trần trụi: “Chợt một ngày tôi nhận ra tôi/ Từng lang thang dưới bầu trời chữ nghĩa/ Tôi nghe được tiếng hát của mưa/ Tiếng cười của nắng/ Tiếng nói của cỏ cây/ Tiếng rên của mây/ Tiếng buồn của đất…/ Tiếng núi đồi hoa cỏ yêu nhau!/ Tôi nghĩ thế giới này có thể sẽ mất đi/ Nhưng còn lại vần thơ nhân cách”.

Để có những vần thơ nhân cách, anh đã viết bằng chính trái tim mình, đối mặt với hiện thực, nói rõ sự thật nghiệt ngã và sự thật nghiệt ngã bao giờ cũng chứa đựng những đau đớn, xót xa. Và thơ anh đã trả lời cho câu hỏi mà nhân loại vẫn băn khoăn: “Nghệ sỹ - anh là ai?”. Anh là người của nhân dân, đứng về phía những người lao động, anh đang viết về họ với cái nhìn thương cảm. Có thể đâu đó vẫn còn vài câu thơ anh viết “bằng trái tim nóng”, mà anh quên giữ cho mình “cái đầu lạnh”, độc giả cũng sẽ cảm thông cho anh. Bởi cái hăm hở, cái nhiệt huyết, cái tình yêu tha nhân đã dồn nén trên câu chữ trong tập thơ “Biên bản thặng dư”.

Huế, 31/10/2019
TS. H T T T.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm