TIN TỨC

Biên bản thặng dư – một vẻ đẹp nhân văn

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-12-18 15:32:11
mail facebook google pos stwis
414 lượt xem

TS. HOÀNG THỊ THU THỦY

Cầm tập thơ “Biên bản thặng dư” do nhà thơ Phùng Hiệu gửi tặng, bất giác tôi tự hỏi: “Nghệ sỹ - anh là ai?”, sao anh có thể viết được những câu thơ hay đến như thế này: “Chị quét cả đời nhưng rác chảy về đâu/ Khi dấu chân dẫm mòn tuổi tác/ Và năm tháng rót dần khô cạn/ Sáu mươi năm mà rác vẫn tuần hoàn… Đến cuối cuộc đời người ta quét chị ra/ Vì ngỡ rác trong khu nhà ổ chuột” (Quét rác). Hiện thực trần trụi đã xuất hiện trong thơ anh, không mĩ miều, không ngợi ca, mà như những trang đời trên mỗi trang thơ. Người đọc hẳn còn nhớ “tiếng chổi tre” trong thơ Tố Hữu, nhưng tiếng chổi tre đó còn lãng mạn và thi vị lắm; với cái nhìn của thi sĩ Phùng Hiệu chuyện quét rác tuần hoàn không đổi, bởi: “Chị quét cả đời nhưng rác mãi phát sinh”.

“Nghệ sỹ - anh là ai?” - là người sáng tạo các giá trị thẩm mĩ, trước hết là cái đẹp. Nghệ sỹ lao động tự nguyện, đam mê sáng tạo ra tác phẩm, và tác phẩm chứa đựng tình yêu, niềm tin và lòng nhân ái của nghệ sỹ. Và tôi lại bắt gặp cái nhìn chứa đựng nỗi đau của thi nhân trong bài thơ “Biên bản thặng dư”, những công nhân ngày đêm tăng ca, tăng giờ làm, để những ngày giờ bán hết sức lao động, chỉ số thặng dư của họ thu về bằng mồ hôi và nước mắt: “Chị mang về hơn một tháng lương/ Chỉ thừa ra bữa cơm lao động/ Sau những đêm cày ải đến không ngờ… Anh run tay nhận việc ngoài giờ/ Sáu tiếng thặng dư được tính tròn ngày chẵn/ Và kiệt sức sau mười bốn giờ căng thẳng/ Với đôi chân rách tướp công trường”. Nếu không có cái nhìn thẳm sâu, cái nhìn cảm thông, cái nhìn đong đếm được sức lực người công nhân bỏ ra, cố kiếm tìm thêm những đồng lương tăng ca của thi nhân và viết thành những bài thơ như thế này thì làm sao người ta hiểu được nỗi khổ của những con người lao động “đầu tắt mặt tối”, nỗi khổ của những con người “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”. “Chị đẩy cuộc đời về phía mưu sinh/ Từ gánh ve chai lấm màu tri thức… Chị đẩy vào đời giấc ngủ cu li/ Những đứa con thơ vật vờ trên vỉa hè thành phố… Những mảnh đời loang lổ dấu chân đêm” (Cuộc mưu sinh).

“Nghệ sỹ - anh là ai?” Sáng tác của anh là quá trình tìm tòi, sáng tạo. Sáng tạo của anh thuộc về những người lao động nghèo khổ, thuộc về những mảnh đời bất hạnh, những mảnh đời vất vưởng trên hè phố… Trong “Giấc mơ hiện thực”, thi nhân viết: “Năm 14 “lòn” vào xí nghiệp/ Tấm giấy thông hành có tên rất lạ/ Tôi được ngụy trang như đã trưởng thành… Những đứa như tôi vắng bóng mái trường… trong một lần kiệt sức mê man/ tôi bắt gặp giấc mơ/ Giấc mơ tôi được làm người/ một con người thực sự tự do/ Một con người mang tên bình đẳng/ một giấc mơ hiện thực/ được hình thành trong tiểu thuyết chiêm bao”. Đọc xong bài thơ, tôi thấy mắt mình cay. Tôi nhớ, tôi từng giảng về bộ ba tự truyện của M.Gorki về những con người cùng khổ, những cảnh đời bất hạnh. Nhà văn kể chuyện bằng tiểu thuyết, nhà thơ kể chuyện bằng thơ. Một bài thơ ngắn đọc xong như một câu chuyện kể về một cuộc đời, chất tự sự thấm đẫm trong mỗi bài thơ qua cái nhìn cảm thông, thương xót của Phùng Hiệu.

Cảm thông và sẻ chia với “Tết của người công nhân góa phụ” “Chị cầm tháng lương nép vào bóng đêm” – câu thơ như kể, như gợi, thấm vào trong ta một nỗi buồn về những mảnh đời nghèo khổ. Giấu đi tiếng nấc nghẹn để kể về “Sự mất tích của người công nhân” khi “Anh rơi xuống từ tầng 18…” và khi “Dự án hoàn thành, dự án được vinh danh”, còn “anh bị xóa tên”. Nhà văn Lê Thiếu Nhơn nói rất đúng về thi nhân Phùng Hiệu: Trên vai anh có mồ hôi người thợ và trong tim anh có nỗi trắc ẩn thi sĩ.

Cảm hứng thơ trong anh là những mảnh đời bất hạnh, từ những công nhân nghèo khổ, cô đơn, gặp tai họa khi lao động; đến những người bán vé số, những phận đời với tấm giấy thông hành có tên rất lạ; cả những con người làm những công việc mà “Phía sau ánh đèn lừa dối”, thi nhân nhận ra số phận của họ thật hẩm hiu: “em hiện diện như một nàng tiên chơi trò chuyển nhượng/ giữa thế giới dối lừa/ đam mê phó mặc/ hoang phí thanh xuân/ giễu cợt ái tình…”. Đọc thơ anh, bất giác tôi nhớ đến tứ thơ: “Ta cứ mãi với sắc huyền hỏi ngã/ phóng to đêm/ khuyếch đại chiều tà/ Ta vẫn thấy cuộc đời vô căn cước/ sáu nan đề/ sáng đẹp sáu vầng trăng/ câu thơ số cuối ngày đang mã hóa/ bàn phím văn chương/ thiếu chữ em cần” (Thi sĩ – Phan Thanh Bình). Là nghệ sỹ, thi sĩ hãy viết về nhân dân, viết về những con người đau khổ, đấy mới là thiên chức. “Một ngày thản nhiên/ Cuộc sống bỗng dưng đảo lộn/ Những cánh đồng trắng lưng phố xá… Người nông dân tự nhiên mất đất/ Những cung đường tự do siết chặt…” (Quy hoạch tự do). Cái nhìn của thi nhân thật nhân văn với phận đời những em bé thất học, những cụ già kiếm cơm từ xấp vé số: “Em lớn lên bằng vòng tay vé số/ Em lớn lên từ ve chai sắt vụn/ Em lớn lên bằng sự thờ ơ lạnh lẽo” (Em vẫn lớn lên); “Trên những cung đường quen thuộc tuổi tên/ Một bà lão chống gậy bằng đôi tay vé số” (Đằng sau tờ vé số). Tôi vẫn tự hỏi mình, không biết thi nhân đã lang thang mất bao lâu trên mọi ngả đường, theo sau mỗi phận người để viết, hay cái nhìn của thi nhân đã thật thẳm sâu về những phận đời bất hạnh và khi trái tim đó thật đau thì sẽ viết ra những vần thơ xa xót. Khi đọc bài thơ “Phía sau bức tường giải tỏa”, có cảm giác như ai đó đang bóp nghẹt tim mình bởi một cảm giác bất lực với những phận người “thấp cổ bé họng”: “Tấm bản đồ quy hoạch tự nhiên/ Cuộc mưu sinh đến ngày định giá/ Từ trong những ngôi mộ cổ/ Từ trong những túp lều quy hoạch/ những dây thép gai mọc lên/ Từ những khối bê tông được kết đông bằng máu đỏ/ Cho những tòa nhà cao ốc tự do/ Sững sững vươn lên/ Bằng nhiều mảnh đời khép lại/ đoàn người lại tiếp tục ra đi/ Nhưng triết lý thặng dư/ Vẫn lập trình những bước chân vô sản”.

Nhà thơ Phùng Hiệu

Viết về nhân dân, về những người lao động, anh còn viết về Tổ Quốc qua cái nhìn về biển đảo, những bài thơ mang hơi thở thời đại. Nhưng với tôi, khi đọc những vần thơ viết về những mảnh đời, những thân phận bất hạnh trong thơ anh, tôi đã hiểu thêm về quan niệm nghệ thuật của anh trong bài thơ “Ngôn ngữ lên ngôi”, anh đã khẳng định những vần thơ nhân cách của mình bởi đối tượng trữ tình là hiện thực, hiện thực chân thực, tự nhiên và có phần trần trụi: “Chợt một ngày tôi nhận ra tôi/ Từng lang thang dưới bầu trời chữ nghĩa/ Tôi nghe được tiếng hát của mưa/ Tiếng cười của nắng/ Tiếng nói của cỏ cây/ Tiếng rên của mây/ Tiếng buồn của đất…/ Tiếng núi đồi hoa cỏ yêu nhau!/ Tôi nghĩ thế giới này có thể sẽ mất đi/ Nhưng còn lại vần thơ nhân cách”.

Để có những vần thơ nhân cách, anh đã viết bằng chính trái tim mình, đối mặt với hiện thực, nói rõ sự thật nghiệt ngã và sự thật nghiệt ngã bao giờ cũng chứa đựng những đau đớn, xót xa. Và thơ anh đã trả lời cho câu hỏi mà nhân loại vẫn băn khoăn: “Nghệ sỹ - anh là ai?”. Anh là người của nhân dân, đứng về phía những người lao động, anh đang viết về họ với cái nhìn thương cảm. Có thể đâu đó vẫn còn vài câu thơ anh viết “bằng trái tim nóng”, mà anh quên giữ cho mình “cái đầu lạnh”, độc giả cũng sẽ cảm thông cho anh. Bởi cái hăm hở, cái nhiệt huyết, cái tình yêu tha nhân đã dồn nén trên câu chữ trong tập thơ “Biên bản thặng dư”.

Huế, 31/10/2019
TS. H T T T.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Dấu chân thơ – những thiên du ký bằng thơ sâu lắng ngọt ngào
Bài viết của nhà thơ Phố Giang, hội viên Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh
Xem thêm
Cuộc du ngoạn bằng thơ đầy cảm xúc
“NHỮNG DẤU CHÂN THƠ” Là tập thơ thứ Ba của tác giả Trần Kim Dung do nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành vào đầu tháng Sáu năm 2023.
Xem thêm
‘Mười năm một quãng đường người xót xa’
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa về tập Thơ mười năm của Hoàng Đình Quang, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2023
Xem thêm
Dòng ban mai trong thơ Trần Hùng
Tập thơ Mắt mắt khuya từng đàn (NXB Hội Nhà văn, 2023) của Trần Hùng dẫn tôi vào một sớm đang tan sương, có thể ứng với bất kỳ mùa nào trong năm. Khi ấy hừng đông đã rạng, sưởi ấm cho khắp miền không gian nơi con người cùng vạn vật vừa thức dậy. Một ban mai không ngưng đọng mà dịch chuyển, cuộn chảy trong bầu không khí thanh sạch, tinh khôi. Dòng chảy ấy khai mở một ngày mới trong tâm tưởng bạn đọc, bảng lảng, đột sáng và trong suốt.
Xem thêm
Đại thi hào Nga Pushkin – Một thời để yêu, một thời để chết
Cái chết bi thảm của đại thi hào Nga Aleksandr Pushkin cách đây gần 200 năm sau cuộc quyết đấu bên bờ sông Đen (thuộc ngoại ô Peterburg) đã làm dấy lên một làn sóng phẫn nộ trong công chúng, đồng thời đổ ập lên đầu Natalya – vợ ông – biết bao điều tiếng…
Xem thêm
Hành trình văn học Nga ở Việt Nam: Dòng chảy không đứt đoạn
Quan hệ ngoại giao giữa Liên Xô (nay là Liên bang Nga) và Việt Nam được chính thức xác lập từ ngày 30/1/1950 song mối quan hệ văn chương Nga – Việt đã hình thành từ trước đó rất lâu, dưới hai hình thức: sự giao lưu văn hóa và sự tiếp nhận của những người cộng sản Việt Nam từ nền văn hóa, văn học Nga. Đi suốt thế kỷ XX và ở những năm đầu thế kỷ XIX, tuy có những lúc thăng trầm, song mối quan hệ văn chương ấy chưa bao giờ đứt đoạn!
Xem thêm
Triết lý nhân sinh trong cảm thức thơ của Hoàng Vũ Thuật
Đối với thi sĩ, cái tôi trữ tình phần nào đại diện cho những kiếp nhân sinh mà họ quan sát, gặp gỡ và cảm tưởng. Con người thi ca tìm thấy và chịu đựng được khổ đau của mình, nhưng không chịu đựng được khổ đau của nhân loại. Họ cất tiếng thay cho nhân loại, bằng trái tim đã thấm thía những nỗi đời riêng.
Xem thêm
Vàng của tâm hồn, vàng của văn chương
Bài viết của nhà văn Ngô Xuân Hội về nhà văn Nguyễn Trí
Xem thêm
Bùi Giáng - Người chưa bao giờ già
Bùi Giáng (1926 – 1998) là người hay được nhắc đến với biệt danh “trung niên thi sĩ” do ông tự nhận. Quãng đời sáng tác của ông không chỉ gắn với những bài thơ hay, đầy chất ngẫu hứng, mà còn gắn với những câu chuyện kể nửa hư nửa thực. Nhân kỷ niệm 25 năm ngày ông qua đời, nhìn lại hành trình thơ của ông, thấy được người “trung niên thi sĩ” này chưa bao giờ già trong con mắt của độc giả.Bùi Giáng (1926 – 1998) là người hay được nhắc đến với biệt danh “trung niên thi sĩ” do ông tự nhận. Quãng đời sáng tác của ông không chỉ gắn với những bài thơ hay, đầy chất ngẫu hứng, mà còn gắn với những câu chuyện kể nửa hư nửa thực. Nhân kỷ niệm 25 năm ngày ông qua đời, nhìn lại hành trình thơ của ông, thấy được người “trung niên thi sĩ” này chưa bao giờ già trong con mắt của độc giả.
Xem thêm
Từ khải ca họa mi đến thực mơ giữa đôi bờ chùa – chợ!...
Bài bình 2 bài thơ của doanh nhân - nhà thơ Trương Vạn Thành.
Xem thêm
“Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao
Sau ca khúc “Tiến về Hà Nội” đúng 26 năm, vào mùa xuân 1976, nhạc sĩ thiên tài Văn Cao khi có dịp vào TP.HCM, ông lại sáng tác ca khúc “Mùa xuân đầu tiên”, viết về những cảm xúc tràn ngập tâm hồn ông trong “mùa xuân đầu tiên” sau khi nước nhà hòa bình thống nhất.
Xem thêm
Người nữ và con đường tình yêu trong Đối thoại đêm
Đọc Đối thoại đêm của Triệu Kim Loan, NXB Hội Nhà văn, 2023
Xem thêm
Đào Phong Lan - hồn thơ vẫn mềm như cỏ
Tham luận của nhà thơ Lê Thiếu Nhơn đọc tại buổi ra mắt tập thơ “Em không thể nói lời từ biệt”
Xem thêm
Nhà văn Trịnh Minh Hiếu và “Giấc cỏ dụ”
Cách đây tròn 10 năm, năm 2013, Trịnh Minh Hiếu ra mắt tập truyện ngắn đầu tay “Tiếng chuông trên đỉnh Cô Thình” (NXB Hội Nhà văn 2013). Tròn một năm sau, chị lại cho ra mắt tập truyện ngắn thứ hai mang tên “Thúy Mầu” (NXB Hội Nhà văn 2014). Hai tập truyện ngắn có cá tính riêng của chị ngày ấy khuấy động làng văn chương không ít.
Xem thêm
Đào Phong Lan “không thể nói lời từ biệt” với thơ!
Bài viết của Bảo Gia đăng trên tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 98, ngày 02/11/2023.
Xem thêm
Đò đầy vơi, bến cũ chẳng quên người!
Bài viết của PGS.TS Ngô Minh Oanh về tập thơ Đối thoại đêm của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Nỗi niềm suy tư, trăn trở về con người và thế sự trong Sóng đời
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa về tập thơ Sóng đời của Trần Ngọc Phượng, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2023.
Xem thêm
Khi văn chương tấn công văn hóa bản địa…
Người viết sử - Truyện ngắn của Nguyễn Trường, lần đầu tiên đề cập đến hậu quả của tác phẩm văn học.
Xem thêm