TIN TỨC

Biên bản thặng dư – một vẻ đẹp nhân văn

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2021-11-11 09:15:35
mail facebook google pos stwis
1613 lượt xem

TS. HOÀNG THỊ THU THỦY

Cầm tập thơ “Biên bản thặng dư” do nhà thơ Phùng Hiệu gửi tặng, bất giác tôi tự hỏi: “Nghệ sỹ - anh là ai?”, sao anh có thể viết được những câu thơ hay đến như thế này: “Chị quét cả đời nhưng rác chảy về đâu/ Khi dấu chân dẫm mòn tuổi tác/ Và năm tháng rót dần khô cạn/ Sáu mươi năm mà rác vẫn tuần hoàn… Đến cuối cuộc đời người ta quét chị ra/ Vì ngỡ rác trong khu nhà ổ chuột” (Quét rác). Hiện thực trần trụi đã xuất hiện trong thơ anh, không mĩ miều, không ngợi ca, mà như những trang đời trên mỗi trang thơ. Người đọc hẳn còn nhớ “tiếng chổi tre” trong thơ Tố Hữu, nhưng tiếng chổi tre đó còn lãng mạn và thi vị lắm; với cái nhìn của thi sĩ Phùng Hiệu chuyện quét rác tuần hoàn không đổi, bởi: “Chị quét cả đời nhưng rác mãi phát sinh”.

“Nghệ sỹ - anh là ai?” - là người sáng tạo các giá trị thẩm mĩ, trước hết là cái đẹp. Nghệ sỹ lao động tự nguyện, đam mê sáng tạo ra tác phẩm, và tác phẩm chứa đựng tình yêu, niềm tin và lòng nhân ái của nghệ sỹ. Và tôi lại bắt gặp cái nhìn chứa đựng nỗi đau của thi nhân trong bài thơ “Biên bản thặng dư”, những công nhân ngày đêm tăng ca, tăng giờ làm, để những ngày giờ bán hết sức lao động, chỉ số thặng dư của họ thu về bằng mồ hôi và nước mắt: “Chị mang về hơn một tháng lương/ Chỉ thừa ra bữa cơm lao động/ Sau những đêm cày ải đến không ngờ… Anh run tay nhận việc ngoài giờ/ Sáu tiếng thặng dư được tính tròn ngày chẵn/ Và kiệt sức sau mười bốn giờ căng thẳng/ Với đôi chân rách tướp công trường”. Nếu không có cái nhìn thẳm sâu, cái nhìn cảm thông, cái nhìn đong đếm được sức lực người công nhân bỏ ra, cố kiếm tìm thêm những đồng lương tăng ca của thi nhân và viết thành những bài thơ như thế này thì làm sao người ta hiểu được nỗi khổ của những con người lao động “đầu tắt mặt tối”, nỗi khổ của những con người “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”. “Chị đẩy cuộc đời về phía mưu sinh/ Từ gánh ve chai lấm màu tri thức… Chị đẩy vào đời giấc ngủ cu li/ Những đứa con thơ vật vờ trên vỉa hè thành phố… Những mảnh đời loang lổ dấu chân đêm” (Cuộc mưu sinh).

“Nghệ sỹ - anh là ai?” Sáng tác của anh là quá trình tìm tòi, sáng tạo. Sáng tạo của anh thuộc về những người lao động nghèo khổ, thuộc về những mảnh đời bất hạnh, những mảnh đời vất vưởng trên hè phố… Trong “Giấc mơ hiện thực”, thi nhân viết: “Năm 14 “lòn” vào xí nghiệp/ Tấm giấy thông hành có tên rất lạ/ Tôi được ngụy trang như đã trưởng thành… Những đứa như tôi vắng bóng mái trường… trong một lần kiệt sức mê man/ tôi bắt gặp giấc mơ/ Giấc mơ tôi được làm người/ một con người thực sự tự do/ Một con người mang tên bình đẳng/ một giấc mơ hiện thực/ được hình thành trong tiểu thuyết chiêm bao”. Đọc xong bài thơ, tôi thấy mắt mình cay. Tôi nhớ, tôi từng giảng về bộ ba tự truyện của M.Gorki về những con người cùng khổ, những cảnh đời bất hạnh. Nhà văn kể chuyện bằng tiểu thuyết, nhà thơ kể chuyện bằng thơ. Một bài thơ ngắn đọc xong như một câu chuyện kể về một cuộc đời, chất tự sự thấm đẫm trong mỗi bài thơ qua cái nhìn cảm thông, thương xót của Phùng Hiệu.

Cảm thông và sẻ chia với “Tết của người công nhân góa phụ” “Chị cầm tháng lương nép vào bóng đêm” – câu thơ như kể, như gợi, thấm vào trong ta một nỗi buồn về những mảnh đời nghèo khổ. Giấu đi tiếng nấc nghẹn để kể về “Sự mất tích của người công nhân” khi “Anh rơi xuống từ tầng 18…” và khi “Dự án hoàn thành, dự án được vinh danh”, còn “anh bị xóa tên”. Nhà văn Lê Thiếu Nhơn nói rất đúng về thi nhân Phùng Hiệu: Trên vai anh có mồ hôi người thợ và trong tim anh có nỗi trắc ẩn thi sĩ.

Cảm hứng thơ trong anh là những mảnh đời bất hạnh, từ những công nhân nghèo khổ, cô đơn, gặp tai họa khi lao động; đến những người bán vé số, những phận đời với tấm giấy thông hành có tên rất lạ; cả những con người làm những công việc mà “Phía sau ánh đèn lừa dối”, thi nhân nhận ra số phận của họ thật hẩm hiu: “em hiện diện như một nàng tiên chơi trò chuyển nhượng/ giữa thế giới dối lừa/ đam mê phó mặc/ hoang phí thanh xuân/ giễu cợt ái tình…”. Đọc thơ anh, bất giác tôi nhớ đến tứ thơ: “Ta cứ mãi với sắc huyền hỏi ngã/ phóng to đêm/ khuyếch đại chiều tà/ Ta vẫn thấy cuộc đời vô căn cước/ sáu nan đề/ sáng đẹp sáu vầng trăng/ câu thơ số cuối ngày đang mã hóa/ bàn phím văn chương/ thiếu chữ em cần” (Thi sĩ – Phan Thanh Bình). Là nghệ sỹ, thi sĩ hãy viết về nhân dân, viết về những con người đau khổ, đấy mới là thiên chức. “Một ngày thản nhiên/ Cuộc sống bỗng dưng đảo lộn/ Những cánh đồng trắng lưng phố xá… Người nông dân tự nhiên mất đất/ Những cung đường tự do siết chặt…” (Quy hoạch tự do). Cái nhìn của thi nhân thật nhân văn với phận đời những em bé thất học, những cụ già kiếm cơm từ xấp vé số: “Em lớn lên bằng vòng tay vé số/ Em lớn lên từ ve chai sắt vụn/ Em lớn lên bằng sự thờ ơ lạnh lẽo” (Em vẫn lớn lên); “Trên những cung đường quen thuộc tuổi tên/ Một bà lão chống gậy bằng đôi tay vé số” (Đằng sau tờ vé số). Tôi vẫn tự hỏi mình, không biết thi nhân đã lang thang mất bao lâu trên mọi ngả đường, theo sau mỗi phận người để viết, hay cái nhìn của thi nhân đã thật thẳm sâu về những phận đời bất hạnh và khi trái tim đó thật đau thì sẽ viết ra những vần thơ xa xót. Khi đọc bài thơ “Phía sau bức tường giải tỏa”, có cảm giác như ai đó đang bóp nghẹt tim mình bởi một cảm giác bất lực với những phận người “thấp cổ bé họng”: “Tấm bản đồ quy hoạch tự nhiên/ Cuộc mưu sinh đến ngày định giá/ Từ trong những ngôi mộ cổ/ Từ trong những túp lều quy hoạch/ những dây thép gai mọc lên/ Từ những khối bê tông được kết đông bằng máu đỏ/ Cho những tòa nhà cao ốc tự do/ Sững sững vươn lên/ Bằng nhiều mảnh đời khép lại/ đoàn người lại tiếp tục ra đi/ Nhưng triết lý thặng dư/ Vẫn lập trình những bước chân vô sản”.

Nhà thơ Phùng Hiệu

Viết về nhân dân, về những người lao động, anh còn viết về Tổ Quốc qua cái nhìn về biển đảo, những bài thơ mang hơi thở thời đại. Nhưng với tôi, khi đọc những vần thơ viết về những mảnh đời, những thân phận bất hạnh trong thơ anh, tôi đã hiểu thêm về quan niệm nghệ thuật của anh trong bài thơ “Ngôn ngữ lên ngôi”, anh đã khẳng định những vần thơ nhân cách của mình bởi đối tượng trữ tình là hiện thực, hiện thực chân thực, tự nhiên và có phần trần trụi: “Chợt một ngày tôi nhận ra tôi/ Từng lang thang dưới bầu trời chữ nghĩa/ Tôi nghe được tiếng hát của mưa/ Tiếng cười của nắng/ Tiếng nói của cỏ cây/ Tiếng rên của mây/ Tiếng buồn của đất…/ Tiếng núi đồi hoa cỏ yêu nhau!/ Tôi nghĩ thế giới này có thể sẽ mất đi/ Nhưng còn lại vần thơ nhân cách”.

Để có những vần thơ nhân cách, anh đã viết bằng chính trái tim mình, đối mặt với hiện thực, nói rõ sự thật nghiệt ngã và sự thật nghiệt ngã bao giờ cũng chứa đựng những đau đớn, xót xa. Và thơ anh đã trả lời cho câu hỏi mà nhân loại vẫn băn khoăn: “Nghệ sỹ - anh là ai?”. Anh là người của nhân dân, đứng về phía những người lao động, anh đang viết về họ với cái nhìn thương cảm. Có thể đâu đó vẫn còn vài câu thơ anh viết “bằng trái tim nóng”, mà anh quên giữ cho mình “cái đầu lạnh”, độc giả cũng sẽ cảm thông cho anh. Bởi cái hăm hở, cái nhiệt huyết, cái tình yêu tha nhân đã dồn nén trên câu chữ trong tập thơ “Biên bản thặng dư”.

Huế, 31/10/2019
TS. H T T T.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm