TIN TỨC

“Chị Thoi” – tượng đài của một niềm đau bất tử

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-02-21 09:17:53
mail facebook google pos stwis
799 lượt xem

LÊ XUÂN LÂM

CHỊ THOI
 

Ngày em đi, chị là cô giáo

Hây hẩy má hồng, cầu nghiêng nón trắng

Dòng kênh xanh lá dừa xanh xào xạc nhớ

Chị âm thầm mong hết chiến tranh

Một mối tình đầu thư nhàu cỏ úa

Nhớ anh, hiu hắt cả mùa hoa muống trắng!

 

Ngày em về phép, chị vẫn xinh tươi

Hàm răng lóa nắng, chị cười

- Em vào nớ, gặp anh không?

Chiến tranh khốc liệt, dẫu cùng sư đoàn nhưng đâu gặp

Biển lặng lẽ, sóng chao lòng chị

Một lời sẻ chia: rồi anh sẽ về!

 

Ngày hòa bình, em hớn hở đi tìm gặp chị

- Chị đây ư, chị Thoi của tôi?

Túp lều rơm gió lùa hoang lạnh

Biển cô đơn biển vỗ đau bờ

Chị ngồi đó và chị ngồi đếm cát

Đôi mắt hoang và bài hát ngu ngơ

“Trời thì thấp, đất thì cao

một ông sao sáng, hai ông sáng sao

tiên sư đứa nào đã cướp chồng tao...”

 

Đau xé lòng, tôi gọi chị ơi!

Chị ngơ ngác, như tôi đến từ hành tinh lạ?

Mưa nắng rạc úa màu cô lẻ

Dòng kênh cũ, bến trăng xưa đâu rồi

Chị tôi ngồi ngẩn ngẩn ngơ ngơ

Đầu đội một vòng hoa muống trắng

Bài hát tuổi thơ lạc bến, tã mùa!

 

Tôi gọi chị, nghẹn lòng gọi chị

Những chiếc lá thu bay úa cả chân trời

1995.

(Trịnh Xuân Thu - Bài thơ “Chị Thoi”, rút từ tập THU CỐM, Nxb Hội Nhà văn, 2014, tr. 79)

........

Bài thơ như một Thiên ký sự, một Thiên tình sử... về một tình yêu...


1.  Thiên ký sự chia làm ba chương, khởi đầu từ ba thời điểm, với bắt đầu bằng những ẩn dụ không gian, thời gian: “Ngày em đi, ...”, “Ngày em về phép,...”, “Ngày hòa bình,...”. “Ngày em”,  “Ngày em”... Nhưng có phải là ngày tháng năm nào đâu. Người kể, chỉ cốt kể với ta câu chuyện tình của chị mình, mà giờ đã thành một Thiên tình sử!

1.1.  Chương một, câu chuyện khép lại với nổi “Nhớ anh, hiu hắt cả mùa hoa muống trắng!”. Người kể không cho ta cái xác định chị là vợ anh, hay là người yêu của anh. Mà chỉ cho thấy một tình yêu nồng nàn, say đắm, được kể lại bằng khắc họa với những tình tiết sinh động. Những là “má hồng”, “nón trắng”, “kênh xanh”, và cây dừa bên bờ kênh nữa, cây dừa cũng “lá... xanh”... Những thứ ấy, tất thảy những thứ ấy... đều “hây hẩy” sắc mầu, nghiêng cầu “nón trắng”, “xào xạc” nhớ mong... Nhớ mong!... Chao ôi là nổi mong nhớ của “Một mối tình đầu thư nhầu cỏ úa”...

Và... Hốt nhiên... tôi giật mình... khi bị đẩy vào “... cả một mùa hoa muống trắng!”... Một dự cảm? Một điềm báo trước nỗi tang thương?... Trắng, “hoa muống trắng!”, sao lại là Hoa Muống trắng?!...

1.2.  Chương hai, hy vọng của tình yêu!

Những gì đã kể trong cái “Ngày em về phép,...”  tưởng không phải nói gì nữa về nỗi niềm hoài vọng trong biết mấy hy vọng. Tôi không thể nói gì thêm về tính chân thực của chữ nghĩa ở bài thơ, một sự chân thực mà ai đọc cũng dễ dàng bị cảm hóa đến mức tự nhiên, như bởi vì nó vốn thế, chị từ bấy vẫn như “Biển lặng lẽ...”  hy vọng chờ mong, dẫu vẫn sống trong những đợt “... sóng chao lòng chị”.

Có hiện thực nào chân thực đến thế không? Tôi đọc thơ mà không còn thấy thơ... Tôi như đứa em cùng dõi theo Thiên tình sử của chị tôi...

1.3.  Thế rồi cái gì đến cũng đã đến! Chương ba là câu chuyện “Ngày hòa bình,”...

Bạn hãy đọc đi, ngẫm suy đi! Tôi đã cảm nhận được và đã thấy trước mắt mình bức tượng đài khi đọc đến hai câu thơ cuối của chương này:

“Đầu đội một vòng hoa muống trắng

Bài hát tuổi thơ lạc bến, tả mùa!”

 

Tượng đài: “Đầu đội một vòng hoa muống trắng” . Và dưới Tượng đài là... bài hát nào ở đây vậy? Một đồng giao! Nhưng chỉ còn là hư ảo!... “Trời thì thấp, đất thì cao”, thực mà hư, hư mà thực... “lạc bến”, “tả mùa”... vô thường, hằng tưởng!...

2.  “Tôi gọi chị, nghẹn lòng gọi chị

       Những chiếc lá thu bay úa cả chân trời”

Lại là một ẩn dụ náo động không gian: “... lá thu bay úa cả chân trời”...

Thu! Không phải khởi đầu, cũng không phải kết thúc, mà chỉ là một chỉ giới khắc ghi... Tình yêu của chị mãi mãi trường tồn một Vòng hoa Muống biển trắng trong bất tử trên sóng cát muôn mãi trãi theo bờ đại dương!...

3.  CHỊ THOI, xin cảm ơi tác giả Trịnh Xuân Thu đã cho tôi được đọc bài thơ này!

Bài thơ như một thiên ký sự về một NIỀM ĐAU, mà khi đọc xong ký sự ấy, NIỀM ĐAU  “Chị Thoi” đã thành một TƯỢNG ĐÀI, như một Hòn Vọng phu, nhưng không sừng sững trên núi cao, mà chài chải trên sóng cát một Vòng hoa Muống trắng ven bờ biển quê hương! Hòn Vọng phu ôm con chờ chồng với một niềm hy vọng dựng hình đá núi; còn Vòng hoa Muống trắng kia, như trôi trên cát, đã thành hằng hà sa số làn sóng cát vỗ bờ, với một NIỀM ĐAU  trắng trong dựng một vòng HƯ VÔ bất tử!...        

Bài viết liên quan

Xem thêm
Người chiến sĩ Điện Biên Nguyễn Thiện Thuật - Mùa hoa ban đẹp mãi
Đối với mỗi người Việt Nam chúng ta hôm nay, cái tên Điện Biên Phủ đã như một dấu mốc luôn hiện lên sừng sững mỗi khi nhắc đến. Ai cũng rưng rưng xúc động bởi máu xương của cha anh, của nhân dân đã đổ xuống để làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là không thể đo đếm hết được.
Xem thêm
Những trang văn phảng phất mùi thuốc súng
Bài tham luận của nhà văn Đỗ Viết Nghiệm
Xem thêm
Di cảo thơ Chế Lan Viên: Khi thơ là thuốc, là lời kinh kệ
Chế Lan Viên là người mà sự nghĩ ngợi vận vào thơ như thể thơ cũng là thuốc, thơ chẩn ra được cái bệnh đau của kiếp người, và “Có vào nỗi đau mới có ích cho người”.
Xem thêm
Cảm hứng sinh thái trong thơ Đặng Bá Tiến
 Là một nhà báo, nhà thơ mấy chục năm gắn bó với vùng đất Đắk Lắk, Đặng Bá Tiến đã sáng tác thành công về thiên nhiên, con người và văn hoá Tây Nguyên với nhiều tác phẩm: Lời chân thành với cỏ (Thơ, 2009), Rừng cổ tích (Trường ca, 2012), Hồn cẩm hương (Thơ, 2017), Linh hồn tiếng hú (Thơ, 2020). Anh là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Tây Nguyên đương đại, một nhà thơ “thứ thiệt”[1] có bản sắc riêng, thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo. Nổi bật trong sáng tác của anh là những tác phẩm viết về rừng, về sinh thái văn hoá và nhân văn.      
Xem thêm
Sức bền của ngòi bút
Nguồn: Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 116, ngày 21/3/2024
Xem thêm
Nguyễn Bính ở phương Nam
Nguyễn Bính (1918-1966), tên thật là Nguyễn Trọng Bính (có lúc tên Nguyễn Bính Thuyết), quê ở Nam Định nhưng sống khắp ba miền đất nước. Ông có phong cách một nhà thơ lãng tử, sáng tác về chủ đề tình cảm làng quê và tình yêu, tổ quốc. Thơ tình cảm mộc mạc của ông được rất nhiều người thuộc. Tác phẩm gồm 26 thi tập trong đó có : + 1 kịch thơ : Bóng giai nhân (1942): + 3 truyện thơ : Truyện Tỳ Bà (1942); Trong bóng cờ bay (1957); Tiếng trống đêm xuân (1958): + 1 vở chèo : Người lái đò sông Vỹ (1964) và rất nhiều bài thơ nổi tiếng của ông được nhạc sĩ phổ thành ca khúc : Tiểu đoàn 307 (Nguyễn Hữu Trí phổ nhạc, Quốc Hương ca);  Cô hái mơ (Phạm Duy); Ghen (Trọng Khương), Cô lái đò (Nguyễn Đình Phúc); Chân quê (Minh Quang). Hiện nay, nhiều thành phố có những con đường mang tên ông. Nhà thơ Nguyễn Bính nhận được giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (2000) cùng với Hoài Thanh, Bùi Đức Ái, Nguyễn Quang Sáng, …
Xem thêm
“Đánh thức mình bằng chân lý vô ngôn”
Tôi biết Nguyễn Minh Thuận (nguyên Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Tư pháp Đắk Lắk) làm thơ đã lâu, dễ hơn ba chục năm trước, thỉnh thoảng anh vẫn đọc cho tôi nghe và rải rác anh cho đăng trên facebook Trương Thị Hiền - vợ anh (TS, giảng viên Trường Đại học Tây Nguyên).
Xem thêm
Đọc “Thơ mười năm” của Hoàng Đình Quang
Bài viết của nhà thơ Trần Quang Khánh
Xem thêm
Hoàng hôn chín – chín mọng yêu thương
Về tập thơ in chung của Võ Miên Trường và Triệu Kim Loan
Xem thêm
Thơ Phan Hoàng trong hành trình ngược lối – Tiểu luận của Mai Thị Liên Giang
Tập thơ “Chất vấn thói quen” của Phan Hoàng từng nhận được nhận Giải thưởng Hội Nhà văn TPHCM và Tặng thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012, sau đó tập thơ này được trao Giải thưởng Nghệ thuật Danube năm 2023 của Hungary. Ngoài ra tập trường ca “Bước gió truyền kỳ” của ông cũng được Ủy ban nhân dân TPHCM trao Giải thưởng Văn học Nghệ thuật TPHCM 5 năm lần thứ II. Để hiểu thêm về hành trình sáng tạo thi ca của nhà thơ Phan Hoàng, xin trân trọng giới thiệu bài viết của nhà lý luận phê bình văn học Mai Thị Liên Giang.
Xem thêm
Những giải mã thú vị, khoa học của một người đọc tri âm
Với kiến văn sâu rộng, sự nghiên cứu cẩn trọng mang tính học thuật cao, khai thác nhiều vấn đề tri thức lý luận mới mẻ; Trần Hoài Anh đã đem đến những trang viết tinh tế, khai mở nhiều điều lý thú và bổ ích.
Xem thêm
Hồn xuân trong thơ Hồ Chí Minh
Nhà thơ Trung Quốc Viên Ưng đã nhận định sâu sắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một trí tuệ lớn, một dũng khí lớn, một tâm hồn lớn”.
Xem thêm
“Trung thực và quả cảm” trong sáng tác và phê bình văn học, nghệ thuật
Bài viết của nhà thơ Mai Nam Thắng trên Văn nghệ số 4/2024
Xem thêm
Nguyễn Quang Thiều với ‘Nhật ký người xem đồng hồ’
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa về tập thơ Nhật ký người xem đồng hồ của Nguyễn Quang Thiều
Xem thêm
Nửa lo giá chợ nửa ngây vì trời
Nguồn: Báo Văn nghệ số 4, ra ngày 27/1/2024.
Xem thêm
Dòng kinh yêu thương
Tháng 8 năm 1969, chương trình Thi văn Về Nguồn góp tiếng trên Đài phát thanh Cần Thơ vừa tròn một tuổi. Nhân dịp nầy, cơ sở xuất bản về Nguồn ấn hành đặc san kỷ niệm. Đặc san tập họp sáng tác của bằng hữu khắp nơi, với các thể loại như thơ, truyện, kịch… và phần ghi nhận sinh hoạt văn học nghệ thuật ở miền Tây trong một năm qua. Trong đặc san này, chúng tôi in một sáng tác của nhà thơ Ngũ Lang (Nguyễn Thanh) viết ngày 24/8/1969, gởi về từ Vị Thanh (Chương Thiện), có tựa đề “Đưa em xuôi thuyền trên kinh Xà No” Hơn nửa thế kỷ trôi qua với bao nhiêu biến động, ngay cả tác giả bài thơ chắc cũng không còn nhớ. Xin được chép lại trọn bài thơ của anh đã đăng trong Đặc san kỷ niệm Đệ nhất chu niên Chương trình Thi văn Về Nguồn, phát hành vào tháng 8 năm 1969.
Xem thêm
Minh Anh, người đánh thức thế giới
từng chữ từng chữ/ rơi vào từng dòng từng dòng/ chúng chụp lấy những khoảnh khắc/ đẹp não nùng/ không thể rời khỏi con tim/ cách duy nhất để tự nó đừng nở rộ quá mức/ vượt khỏi ký ức của ta/ là hãy viết xuống (Sự kỳ lạ của nghệ thuật viết).
Xem thêm
Ta sẽ không như cốc trà nguội cuối ngày
Bài viết của Nguyên Bình về tập thơ Vọng thiên hà của Hoa Mai.
Xem thêm