TIN TỨC

Đọc bài thơ “Ngõ thời gian” của nhà thơ Phùng Hiệu

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-08-16 18:08:40
mail facebook google pos stwis
1434 lượt xem

TUẤN TRẦN

Đọc thơ, tôi thường bắt đầu từ cái hữu duyên. Có hữu duyên mới có sự đồng điệu, mới nhận diện rõ gương mặt của người thơ. Tôi ít khi đọc tập, chỉ đọc các chùm thơ, hoặc ít nhất một bài thơ để có thể đi sâu, chi tiết, soi ngắm kĩ càng mới cho ra cái nhìn khái quát tổng thể. Theo tôi, tinh thần thơ của một nhà thơ nào đó có thể nắm bắt được thông qua một ý thơ, một câu thơ, một bài thơ, một cụm thơ chứ không hẳn cần cả một mùa thơ của họ.

Đến với thơ Phùng Hiệu, tôi cộng hưởng với anh ở cái nghiệm thức thời gian với bao cuộc lật trở chuyển dời mênh mông, trong vòng tròn niên hạn của đời người. Trong sự đọc hữu duyên đó, tôi đã thấy ánh nhìn hồi cố độc đáo trong thơ anh. Có thể nói, thơ anh mở ra một khu vườn hoài niệm, người đọc bước vào với vô số hương, sắc của nắng, gió, trăng, nước đang đong đựng những tiếc nuối, nhớ thương về một thời mới chớm cái nắm tay đầu đời.

Trong Ngõ thời gian, tác giả sử dụng khá nhiều ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Gợi về những thứ đã qua vẫn sống động hiện hữu hôm nay để ta có thể hứng, rót, chạm, sờ…Đó là lối tạo ngôn tinh tế, và các câu thơ hai chữ: “mong manh”, “bất chợt”, “lặng lẽ” xuất hiện như một biện pháp hiệu quả để gợi giác. Một cảm giác da diết, ngậm ngùi, tiếc xót, u/ ẩn đọng buồn. Chính cái độc đáo trong các câu thơ hai chữ đó đã khoác y áo mới cho cái cảm xúc, hình ảnh tương đối “sến” cũ trong thơ.

Bài thơ tên Ngõ thời gian: Thời gian là là thứ chảy trôi vô thủy vô chung của vũ trụ. Nó đâu phải thứ neo bám, buộc lại, xây phá, tạo dựng được mà lại có thể có “ngõ”. Đây là liên tưởng ngoài đối tượng. Như vậy cái “ngõ thời gian” được nói đến ở đây là “ngõ thời gian” của nhân sinh, của kiếp người. Nơi đó chứa đựng những chi tiết rất người về một thời đẹp đẽ bên nhau. Hình ảnh: “Nhặt tuổi thơ”, “Hứng giọt thời gian”, “Rót vào trang vở”, được đặt trong câu hỏi “Em có về nhặt lại…” đồng hiện giới thiệu “em”, bắt đầu cuộc “độc thoại kép”.

Các động từ “hứng”, “nhặt”, “rót” gợi hình về con ngõ thời gian trong trạng thái ngưng kết, chứ không ở thế tốc hành, biến dịch khôn lường như thời gian “nhất khứ bất phục phản” của vũ trụ. Nhưng gợi cảm giác sự nghiệt ngã nhiều hơn thế. Khi thứ còn lại chỉ là vặt vãnh, nhỏ nhoi phải nhặt nhạnh, hứng từng giọt mà cũng chẳng thấm lắng. Đó là cảm thức về sự phôi pha.

Sự đồng hiện của “tuổi thơ”, “em” cùng với những ánh nhớ chớm nẩy nở trong trong tâm linh vào buổi đầu biết yêu luôn ở trạng thái mơ hồ. Cái tôi nhà thơ đang hành trình quá vãng về với những kỉ niệm buổi mới thành đôi đã hư loãng trên lối ngõ: “Mong manh/ Những ảo ảnh mơ hồ”.

Thời gian mài mòn đi tất cả, để chỉ còn lại những mỏng mảnh, nhặt chẳng đặng. Hành trình trở về đó, dường như cũng là hành trình đi về phía ga cuối của một đời người. Vị thơ đã đúng quy luật của tâm lý. Khi qua bên kia con dốc của một vòng đời, con người thường mới có đủ can đảm cho một sự ngoái nhìn. Lúc đó, họ thường nhìn về những chi tiết nhân sinh đã tạo ra ấn tượng nội tâm mạnh mẽ nhất, là ngày gặp em. Bởi ngọn lửa thề nguyền luôn là khởi sự của tất cả khổ đau…

Trong khổ thơ tiếp theo, tác giả tiếp tục đặt ra câu hỏi và lại ngồi trong thơ mà “độc thoại kép”, nhưng về cấp độ thương thảm đã tăng tiến. Nếu như khổ một là sự “nhặt” về những ảnh tượng tượng trưng: “Thời gian” và cái để về cũng là cái bối cảnh, thời/ không gian đã từng qua: “Tuổi thơ”. Thì khổ hai là cái cụ thể, tiệm cận hơn với “ngõ thời gian”: “lối thu”. Có phải “lối thu” dẫn về “ngõ thời gian!” Ảnh tượng “lối thu” là biểu tượng cho sự bắt đầu những phai tàn. Mùa khởi đầu của những hành trình không hẹn định. “Lối thu” thì chỉ còn lại những lá rụng đơn độc. Giọng thơ đã thay đổi. Nếu như ở trên tác giả nói về cái ngõ thời gian bao quát, thì lúc này là cái nhìn gần hơn với nỗi đau. Cái mơ hồ đã được hiển lộ rõ, cơn đau được bồi thấn:

“Em có về qua lối thu xưa?
Nhặt xác lá cuối mùa run rẩy gọi
Vạt nắng chiều rưng rưng thầm hỏi
Kỷ niệm ơi!
Chìm khuất phương nào?”

Xác lá cuối mùa thì chỉ còn lại những đường gân mỏng mảnh, hư nát và chẳng còn ra thù hình. Nắng chiều thì sắp nhường chỗ cho hoàng hôn tím đọng. Hai hình ảnh trên đã mang ý vị biểu tượng rất ưu sầu lại được gắn thêm cụm từ “run rẩy gọi”“rưng rưng thầm hỏi” gợi ra không gian trữ tình đầy si ám. Giống như ngọn đèn sắp tắt bỗng dưng vụt sáng hay cục than nóng bỏng nhất vào thời điểm sắp tàn. Tiếng gọi run rẩy và cái rưng rưng hỏi kia như sự “rên xiết” cuối cùng cho sự mất đi vĩnh viễn của một niềm tin đã từng hiện hữu. Thấm đẫm dư vị của lòng nuối tiếc.

Giọng thơ thều thào từ từ cho đến lúc tắt nghỉ:

“Lối em về tháng chạp có còn không?
Cơn gió lạnh mùa này
Bất chợt!
Anh đối diện lòng mình xa xót...
Ngõ thời gian...
Lặng lẽ
Riêng mình!”

Ở khổ thơ cuối, dấu vết của thời gian thực tế đã xuất lộ: “Tháng chạp” đi kèm với “gió lạnh”. Thời gian dịch chuyển từ cuối thu, sang cuối đông. Từ cái thời gian tượng trưng sang gọi tên cụ thể. Từ phai tàn sang lạnh lùng, rét buốt. Từ đang sót lại chút dư vị sang hoàn toàn mất mát. Và chủ thể trữ tình đã nhắc tới chính mình với đại từ “Anh” vào độ năm cuối (cuối năm) trong tâm thế buộc/ bị đối diện với lòng mình. Nếu như ở hai khổ trên, nhân vật trữ tình đã lắng nghe, trải nghiệm, xúc chạm được những dư âm của kí ức từ ngoại cảnh, thông qua các biểu tượng thuộc về không gian sinh tồn như “xác lá”, “nắng”. Thì khổ cuối là sự quay về lắng nghe trong thăm thẳm lòng mình. Đối diện với những tuyệt vọng trong mình. Không thể thoát ra những nỗi cô đơn giữa cái mênh mông vô lối đã vắng mặt “em”.

“Ngõ thời gian” là một địa điểm biểu tượng. Nhưng cũng có thể là sự mô hình hóa về thứ cách ngăn con người, tạo ra vách thành ngăn cách sự tìm đến hoặc tìm về bên nhau. Trong thơ cổ, cũng có những hình ảnh điển hình để ước lệ, tượng trưng cho sự ngăn trở giữa người với người: Lầu, song, ô, cửa sổ, xó, góc... Thế nhưng con người với cái nhãn tuyến siêu hình của mình vẫn có thể thoát khỏi sự trói buộc của những ngục thất tinh thần đó, để lưu luyến, tiếc nhớ, than thở, ngâm ca sầu oán và tìm đến nhau bằng “thần giao cách cảm”…Con người vẫn có thể giao cảm với sự vật “vẻ non xa, ánh trăng gần”. Đến với thơ Phùng Hiệu, hình ảnh “Ngõ thời gian” như một sự tự trói buộc của cảm quan cá thể, khiến cho mọi mối cộng thông, đồng cảm hoàn toàn mất liên lạc. Ám chỉ nỗi cô đơn đến vô cùng khi một mình đứng nơi “Ngõ thời gian” trước cái vô tận, thăm thẳm, siêu nghiệm của vũ trụ. Như vậy, có thể nói song ô, cửa sổ là thứ ngắn cách nhãn giới, cái nhìn thực tế của con người. Còn “Ngõ thời gian” đã đóng lại cái nhìn tâm giới của con người, khiến họ hoàn toàn bị dày vò, chịu đựng bởi cái mênh mông, miên viễn đến đáng sợ của chiều kích vũ trụ và nằm lại ở đó không thể nào có thể đồng cảm cùng nhau nữa.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm