TIN TỨC

Đọc bài thơ “Ngõ thời gian” của nhà thơ Phùng Hiệu

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-08-16 18:08:40
mail facebook google pos stwis
1661 lượt xem

TUẤN TRẦN

Đọc thơ, tôi thường bắt đầu từ cái hữu duyên. Có hữu duyên mới có sự đồng điệu, mới nhận diện rõ gương mặt của người thơ. Tôi ít khi đọc tập, chỉ đọc các chùm thơ, hoặc ít nhất một bài thơ để có thể đi sâu, chi tiết, soi ngắm kĩ càng mới cho ra cái nhìn khái quát tổng thể. Theo tôi, tinh thần thơ của một nhà thơ nào đó có thể nắm bắt được thông qua một ý thơ, một câu thơ, một bài thơ, một cụm thơ chứ không hẳn cần cả một mùa thơ của họ.

Đến với thơ Phùng Hiệu, tôi cộng hưởng với anh ở cái nghiệm thức thời gian với bao cuộc lật trở chuyển dời mênh mông, trong vòng tròn niên hạn của đời người. Trong sự đọc hữu duyên đó, tôi đã thấy ánh nhìn hồi cố độc đáo trong thơ anh. Có thể nói, thơ anh mở ra một khu vườn hoài niệm, người đọc bước vào với vô số hương, sắc của nắng, gió, trăng, nước đang đong đựng những tiếc nuối, nhớ thương về một thời mới chớm cái nắm tay đầu đời.

Trong Ngõ thời gian, tác giả sử dụng khá nhiều ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Gợi về những thứ đã qua vẫn sống động hiện hữu hôm nay để ta có thể hứng, rót, chạm, sờ…Đó là lối tạo ngôn tinh tế, và các câu thơ hai chữ: “mong manh”, “bất chợt”, “lặng lẽ” xuất hiện như một biện pháp hiệu quả để gợi giác. Một cảm giác da diết, ngậm ngùi, tiếc xót, u/ ẩn đọng buồn. Chính cái độc đáo trong các câu thơ hai chữ đó đã khoác y áo mới cho cái cảm xúc, hình ảnh tương đối “sến” cũ trong thơ.

Bài thơ tên Ngõ thời gian: Thời gian là là thứ chảy trôi vô thủy vô chung của vũ trụ. Nó đâu phải thứ neo bám, buộc lại, xây phá, tạo dựng được mà lại có thể có “ngõ”. Đây là liên tưởng ngoài đối tượng. Như vậy cái “ngõ thời gian” được nói đến ở đây là “ngõ thời gian” của nhân sinh, của kiếp người. Nơi đó chứa đựng những chi tiết rất người về một thời đẹp đẽ bên nhau. Hình ảnh: “Nhặt tuổi thơ”, “Hứng giọt thời gian”, “Rót vào trang vở”, được đặt trong câu hỏi “Em có về nhặt lại…” đồng hiện giới thiệu “em”, bắt đầu cuộc “độc thoại kép”.

Các động từ “hứng”, “nhặt”, “rót” gợi hình về con ngõ thời gian trong trạng thái ngưng kết, chứ không ở thế tốc hành, biến dịch khôn lường như thời gian “nhất khứ bất phục phản” của vũ trụ. Nhưng gợi cảm giác sự nghiệt ngã nhiều hơn thế. Khi thứ còn lại chỉ là vặt vãnh, nhỏ nhoi phải nhặt nhạnh, hứng từng giọt mà cũng chẳng thấm lắng. Đó là cảm thức về sự phôi pha.

Sự đồng hiện của “tuổi thơ”, “em” cùng với những ánh nhớ chớm nẩy nở trong trong tâm linh vào buổi đầu biết yêu luôn ở trạng thái mơ hồ. Cái tôi nhà thơ đang hành trình quá vãng về với những kỉ niệm buổi mới thành đôi đã hư loãng trên lối ngõ: “Mong manh/ Những ảo ảnh mơ hồ”.

Thời gian mài mòn đi tất cả, để chỉ còn lại những mỏng mảnh, nhặt chẳng đặng. Hành trình trở về đó, dường như cũng là hành trình đi về phía ga cuối của một đời người. Vị thơ đã đúng quy luật của tâm lý. Khi qua bên kia con dốc của một vòng đời, con người thường mới có đủ can đảm cho một sự ngoái nhìn. Lúc đó, họ thường nhìn về những chi tiết nhân sinh đã tạo ra ấn tượng nội tâm mạnh mẽ nhất, là ngày gặp em. Bởi ngọn lửa thề nguyền luôn là khởi sự của tất cả khổ đau…

Trong khổ thơ tiếp theo, tác giả tiếp tục đặt ra câu hỏi và lại ngồi trong thơ mà “độc thoại kép”, nhưng về cấp độ thương thảm đã tăng tiến. Nếu như khổ một là sự “nhặt” về những ảnh tượng tượng trưng: “Thời gian” và cái để về cũng là cái bối cảnh, thời/ không gian đã từng qua: “Tuổi thơ”. Thì khổ hai là cái cụ thể, tiệm cận hơn với “ngõ thời gian”: “lối thu”. Có phải “lối thu” dẫn về “ngõ thời gian!” Ảnh tượng “lối thu” là biểu tượng cho sự bắt đầu những phai tàn. Mùa khởi đầu của những hành trình không hẹn định. “Lối thu” thì chỉ còn lại những lá rụng đơn độc. Giọng thơ đã thay đổi. Nếu như ở trên tác giả nói về cái ngõ thời gian bao quát, thì lúc này là cái nhìn gần hơn với nỗi đau. Cái mơ hồ đã được hiển lộ rõ, cơn đau được bồi thấn:

“Em có về qua lối thu xưa?
Nhặt xác lá cuối mùa run rẩy gọi
Vạt nắng chiều rưng rưng thầm hỏi
Kỷ niệm ơi!
Chìm khuất phương nào?”

Xác lá cuối mùa thì chỉ còn lại những đường gân mỏng mảnh, hư nát và chẳng còn ra thù hình. Nắng chiều thì sắp nhường chỗ cho hoàng hôn tím đọng. Hai hình ảnh trên đã mang ý vị biểu tượng rất ưu sầu lại được gắn thêm cụm từ “run rẩy gọi”“rưng rưng thầm hỏi” gợi ra không gian trữ tình đầy si ám. Giống như ngọn đèn sắp tắt bỗng dưng vụt sáng hay cục than nóng bỏng nhất vào thời điểm sắp tàn. Tiếng gọi run rẩy và cái rưng rưng hỏi kia như sự “rên xiết” cuối cùng cho sự mất đi vĩnh viễn của một niềm tin đã từng hiện hữu. Thấm đẫm dư vị của lòng nuối tiếc.

Giọng thơ thều thào từ từ cho đến lúc tắt nghỉ:

“Lối em về tháng chạp có còn không?
Cơn gió lạnh mùa này
Bất chợt!
Anh đối diện lòng mình xa xót...
Ngõ thời gian...
Lặng lẽ
Riêng mình!”

Ở khổ thơ cuối, dấu vết của thời gian thực tế đã xuất lộ: “Tháng chạp” đi kèm với “gió lạnh”. Thời gian dịch chuyển từ cuối thu, sang cuối đông. Từ cái thời gian tượng trưng sang gọi tên cụ thể. Từ phai tàn sang lạnh lùng, rét buốt. Từ đang sót lại chút dư vị sang hoàn toàn mất mát. Và chủ thể trữ tình đã nhắc tới chính mình với đại từ “Anh” vào độ năm cuối (cuối năm) trong tâm thế buộc/ bị đối diện với lòng mình. Nếu như ở hai khổ trên, nhân vật trữ tình đã lắng nghe, trải nghiệm, xúc chạm được những dư âm của kí ức từ ngoại cảnh, thông qua các biểu tượng thuộc về không gian sinh tồn như “xác lá”, “nắng”. Thì khổ cuối là sự quay về lắng nghe trong thăm thẳm lòng mình. Đối diện với những tuyệt vọng trong mình. Không thể thoát ra những nỗi cô đơn giữa cái mênh mông vô lối đã vắng mặt “em”.

“Ngõ thời gian” là một địa điểm biểu tượng. Nhưng cũng có thể là sự mô hình hóa về thứ cách ngăn con người, tạo ra vách thành ngăn cách sự tìm đến hoặc tìm về bên nhau. Trong thơ cổ, cũng có những hình ảnh điển hình để ước lệ, tượng trưng cho sự ngăn trở giữa người với người: Lầu, song, ô, cửa sổ, xó, góc... Thế nhưng con người với cái nhãn tuyến siêu hình của mình vẫn có thể thoát khỏi sự trói buộc của những ngục thất tinh thần đó, để lưu luyến, tiếc nhớ, than thở, ngâm ca sầu oán và tìm đến nhau bằng “thần giao cách cảm”…Con người vẫn có thể giao cảm với sự vật “vẻ non xa, ánh trăng gần”. Đến với thơ Phùng Hiệu, hình ảnh “Ngõ thời gian” như một sự tự trói buộc của cảm quan cá thể, khiến cho mọi mối cộng thông, đồng cảm hoàn toàn mất liên lạc. Ám chỉ nỗi cô đơn đến vô cùng khi một mình đứng nơi “Ngõ thời gian” trước cái vô tận, thăm thẳm, siêu nghiệm của vũ trụ. Như vậy, có thể nói song ô, cửa sổ là thứ ngắn cách nhãn giới, cái nhìn thực tế của con người. Còn “Ngõ thời gian” đã đóng lại cái nhìn tâm giới của con người, khiến họ hoàn toàn bị dày vò, chịu đựng bởi cái mênh mông, miên viễn đến đáng sợ của chiều kích vũ trụ và nằm lại ở đó không thể nào có thể đồng cảm cùng nhau nữa.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm