TIN TỨC

Đừng kể công cho mẹ - Tập thơ mang theo tiếng lòng đau đáu

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
625 lượt xem

TS. Hoàng Thị Thu Thủy

33 bài thơ trong tập thơ “Đừng kể công cho mẹ” của nhà thơ Nguyễn Hữu Quý trùng với 33 năm tuổi đời của mẹ, và cùng với đó là những tháng năm đằng đẵng đau đáu nhớ thương. Nhớ thương trong tâm hồn, rồi xúc cảm thành thơ, đi theo suốt năm tháng và khi chọn lọc để in thành tập thơ là câu chuyện mà nhà thơ Nguyễn Hữu Quý muốn gửi gắm đến độc giả rằng tình mẫu tử thiêng liêng là tình cảm đẹp nhất trên đời.

Nhà thơ Nguyễn Hữu Qúy

 

Đã nhiều lần tôi chọn thơ anh đưa vào kịch bản trang thơ của đài truyền hình Huế - TRT, và có lẽ số bài lựa chọn nhiều nhất vẫn là những bài thơ viết về mẹ, xem như thơ anh viết về mẹ đã có thương hiệu.

Là mẹ đấy, chẳng hùng hồn diễn thuyết/ túi ba gang đựng cau chát, trầu cay/ ru bát ngát bằng nhấp nhô tiếng Việt/ bát ngát ngủ rồi mẹ buộc gió vào cây” (Con nghĩ về mẹ

Nhà thơ Nguyễn Hữu Quý từng tâm sự: “Tôi dùng thi ca để khẳng định giá trị mẹ một cách giản dị và chân thực… Cái tình mẫu tử đích thực đủ sức tỏa sáng vào mỗi hoài niệm, ngẫm suy của người cầm bút trên tinh thần nhân văn của nhân loại bao la...”.

Tứ của bài thơ “Đừng kể công cho mẹ” dung dị như chính những điều giản dị nhất khi con nghĩ về mẹ: “Đừng kể công cho mẹ/ người ăn ít nhất trong mỗi kỳ giáp hạt/ lưng đẫm mồ hôi chông chênh mùa gặt/ mẹ như cánh đồng chìm cuối dòng sông/ có bông lúa vớt lên từ đỉnh lũ/ kể công cho mẹ, bằng thừa” – hình ảnh so sánh “mẹ như cánh đồng chìm cuối dòng sông” gợi thật nhiều thương cảm về nỗi truân chuyên, nhọc nhằn, chịu đựng của mẹ. Có lần, tôi tự hỏi lòng mình: mỗi ngày tôi chỉ ăn chưa đầy một bát cơm, mà sao luôn bận rộn thế nhỉ, vì trách nhiệm với con cái và gia đình hay là thiên chức của phụ nữ. Và chắc chắn cũng không ai để ý vì sao tôi ăn ít thế, nhưng tôi ăn ít không phải vì thiếu đói mà vì giữ dáng; còn mẹ trong thơ Nguyễn Hữu Quý lại “ăn ít nhất trong mỗi kì giáp hạt”, mẹ không chỉ “một nắng hai sương” mà còn như ẩn mình đi trước cái đói, cái rét, cái khổ, nhường nhịn cho chồng con…

Hình ảnh mẹ đi cùng nhà thơ từ tuổi ấu thơ cho đến lúc “nửa đời, tóc ngả màu sương”. Nhà thơ Phùng Quán từng viết: “Có những phút ngã lòng/ Tôi vịn câu thơ và đứng dậy”, sau này nhiều người sử dụng động từ “vịn” như là cách khẳng định niềm tin của mình. Nhà thơ Nguyễn Hữu Quý không chỉ vịn mà còn tựa vào mẹ với một niềm tin bất diệt: “Mẹ ơi,/ con tin ở chốn xa xăm/ mẹ vẫn dõi theo con như hằng bảo lưu ký ức/ mẹ con ta vẫn bên nhau như hơn năm mươi năm trước/ mẹ là con khi san sẻ bát cơm thường./ Mẹ còn đây thấp thoáng nắng sương/ vạt nâu bạc trở hai chiều gió nổi/ hai phía giang sơn/ nơi trập trùng bóng núi/ nơi biển hóa mây bay trên ngọn buồm xa”. (Khúc đồng hành mẫu tử). Thơ anh có những câu lung linh như ngọc quý, biết là hay mà không biết vì sao hay, chỉ biết là những câu thơ đó như chạm khắc vào trong ta về sự tảo tần của mẹ, như cánh cò thuở nào trong ca dao - “vạt nâu bạc trở hai chiều gió nổi” (Khúc đồng hành mẫu tử); “Áo mẹ mặc che hướng nào cũng bão” (Đi tìm đồng xu nhỏ bé)… Kí ức về mẹ trong anh là hình ảnh những người phụ nữ lam lũ tảo tần, bạc vai áo quanh năm không ngơi nghỉ.

Đọc thơ anh nhiều khi cứ rưng rưng, từ cậu bé mồ côi, đến khi trưởng thành cái cô đơn cứ theo anh cùng năm tháng: “Ngó về cồn cát chang chang/ hao hao dáng mẹ từ làng bước ra/ vai gầy gánh nỗi gần xa/ bước rừng, bước biển đi qua mặt trời./ Bóng in cát bỏng, không lời/ dép mo cau của một thời xửa xưa/ nón quê đã chạm đỉnh trưa/ đựng trong túi áo tiếng đùa của con./ Cứ như... mẹ vẫn đang còn/ cuối sông iu ấp vuông tròn mai sau/ cứ như... mẹ chẳng còn đau/ nụ cười không một nét nhàu thời gian”. (Ngó về cồn cát). Hình ảnh mẹ trong thơ anh trở thành hình tượng chung của người mẹ Việt Nam: tảo tần, lam lũ, chịu thương chịu khó, thương yêu con vô bờ bến. Những hình ảnh thơ: vai gầy, dép mo cau, nón mê… trong bài thơ “Ngó về cồn cát” không chỉ tái hiện chân dung về mẹ trong hình dung tưởng tượng cùng nhớ thương theo năm tháng, mà còn rất riêng của một vùng đất mà hễ nhắc đến ai cũng hình dung ra nơi đó: cồn cát chang chang – “Chang chang cồn cát nắng trưa Quảng Bình” (Mẹ Suốt – Tố Hữu). Sử dụng thể thơ lục bát, bài thơ vẫn mới bởi nhịp điệu đa dạng: “Cứ như...//  mẹ vẫn đang còn/ cuối sông iu ấp // vuông tròn mai sau/ cứ như...//  mẹ chẳng còn đau/ nụ cười//  không một nét nhàu thời gian”. Nhịp 2/4, hay nhịp 2/6 cùng điệp ngữ “Cứ như...” như điểm dừng, điếm nhấn gợi thật nhiều xúc cảm.

Những câu thơ tài hoa trong nhiều bài thơ đã tạo nên dư ba trong lòng độc giả: “Trở về/ tròn bóng nắng trưa/ củ khoai bẻ nửa gió lùa chang chang/ bát canh ngọt mát vị làng/ mẹ như bằng trắc cũ càng đất đai” (Khi gió Lào cất lên); “mẹ tần tảo trong miền Trung chìm nổi/ áo nối tay, gieo vớt những mùa màng” (Vườn mẹ mai vàng); “Sông quê tôi ít phù sa/ bao nhiêu cát mặn đi qua cánh đồng/ tôi thương cây lúa nghẹn đồng/ củ khoai khát nước, xương rồng thèm sương” (Lời ru viết lại). Đây là tài thơ của thi nhân trong thi tứ dạt dào. Làm thơ khó nhất là tìm ra tứ thơ, tôi đã đọc nhiều bài thơ của anh, bài nào cũng có tứ thơ rất riêng; cái hay trong thơ anh còn ở hình tượng thơ với vốn từ vựng dồi dào, đọc bất cứ câu nào, dòng nào cũng cảm nhận được cái hay của ngôn từ với sự hòa quyện giữa tri thức dân gian cùng nét riêng của vùng miền.

Dường như mọi chuyện vui buồn anh đều chuyện trò cùng mẹ, cái tôi trữ tình trôi chảy trong những bài thơ tự sự với mẹ, đối thoại với mẹ; để rồi khẳng định những suy nghĩ lựa chọn của mình là đúng bởi có mẹ chở che, bảo ban, nhắc nhở: “Xin bé nhỏ như đã từng bé nhỏ/ tôi là ai mà bé nhỏ trọn đời/ vệt mũi lem mẹ lau cho trước ngõ/ để bây giờ gương mặt sạch, tôi soi” (Bé nhỏ); “Mẹ lập trình con thật thà, ngay thẳng/ con biết làm gì trước dối trá, cong queo/ đời nhan nhản lọc lừa ngoắt ngoéo/ con về đâu khi vụng dại một bề?” (Lập trình); “Mẹ ơi đâu chỉ bạc tiền/ nhà cao cửa rộng làm nên con người/ câu thơ con góp cho đời/ có tình thương ở trong lời mẹ ru” (Mẹ ơi!)…

Có những câu thơ đọc mà rơi nước mắt, tình mẹ thẳm sâu bật cũng thành lời: “cuộc đời trôi chẳng chậm, chẳng mau/ mẹ cõi khác vẫn trong tôi hiển hiện/ tôi khổ đau mẹ âm thầm đến/ tôi vui cười mẹ lẳng lặng cỏ xanh” (Tuổi này nhớ mẹ) – mẹ và con nương tựa vào nhau, giọng thơ da diết đến nao lòng. Tình mẫu tử với anh thiêng liêng không gì so sánh được: “và con tin mẹ chưa hề ngưng sống/ trong mỗi tế bào, trong từng giọt máu con/ tình yêu thương mẹ truyền, con giữ trọn/ khúc đồng hành mẫu tử chẳng ngừng trôi…” (Khúc đồng hành mẫu tử).

12 tuổi – cái tuổi chuyển tiếp đến tuổi vị thành niên, cái tuổi có đã có nhiều suy tư (thi nhân Trần Đăng Khoa viết bài thơ “Hạt gạo làng ta” cũng mới 12 tuổi); nhà thơ Nguyễn Hữu Quý lúc 12 tuổi đã chứng kiến cảnh mẹ bị thương vì bom Mỹ cách nhà vài trăm mét rồi mẹ qua đời ngay đêm đó thì thật là khủng khiếp: “đêm rực cháy, đêm sặc mùi thuốc nổ/ đêm, chúng con thành năm đứa trẻ mồ côi” (Bài ca sau chiến tranh); “Cái buồn ở với mồ côi” (Thắp hương mộ mẹ)… Đau đớn đến tận cùng, đó cũng là nếp hằn sâu nhất trong trái tim anh. Nên khi anh chèo chống với bao giông bão của cuộc đời và vượt qua được để đạt đến tầm vóc người lính với quân hàm Đại tá và với tư cách là nhà văn, nhà báo, nhà thơ được nhiều độc giả biết đến, mến mộ thì ở anh là sự vượt lên của một thân phận mồ côi mẹ, quả thật là phi thường: “Tôi lưu giữ hạnh phúc khi còn mẹ. Tôi găm nén đau khổ khi mẹ mất. Mẹ vẫn hằng linh hiển trong tôi như một thánh nhân bình dị…” (Đừng kể công cho mẹ - Nguyễn Hữu Quý; tr.7)

Huế ngày mưa lũ 16/10/2022

 H.T.T.T

Bài viết liên quan

Xem thêm
Những trang văn phảng phất mùi thuốc súng
Bài tham luận của nhà văn Đỗ Viết Nghiệm
Xem thêm
Di cảo thơ Chế Lan Viên: Khi thơ là thuốc, là lời kinh kệ
Chế Lan Viên là người mà sự nghĩ ngợi vận vào thơ như thể thơ cũng là thuốc, thơ chẩn ra được cái bệnh đau của kiếp người, và “Có vào nỗi đau mới có ích cho người”.
Xem thêm
Cảm hứng sinh thái trong thơ Đặng Bá Tiến
 Là một nhà báo, nhà thơ mấy chục năm gắn bó với vùng đất Đắk Lắk, Đặng Bá Tiến đã sáng tác thành công về thiên nhiên, con người và văn hoá Tây Nguyên với nhiều tác phẩm: Lời chân thành với cỏ (Thơ, 2009), Rừng cổ tích (Trường ca, 2012), Hồn cẩm hương (Thơ, 2017), Linh hồn tiếng hú (Thơ, 2020). Anh là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Tây Nguyên đương đại, một nhà thơ “thứ thiệt”[1] có bản sắc riêng, thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo. Nổi bật trong sáng tác của anh là những tác phẩm viết về rừng, về sinh thái văn hoá và nhân văn.      
Xem thêm
Sức bền của ngòi bút
Nguồn: Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 116, ngày 21/3/2024
Xem thêm
Nguyễn Bính ở phương Nam
Nguyễn Bính (1918-1966), tên thật là Nguyễn Trọng Bính (có lúc tên Nguyễn Bính Thuyết), quê ở Nam Định nhưng sống khắp ba miền đất nước. Ông có phong cách một nhà thơ lãng tử, sáng tác về chủ đề tình cảm làng quê và tình yêu, tổ quốc. Thơ tình cảm mộc mạc của ông được rất nhiều người thuộc. Tác phẩm gồm 26 thi tập trong đó có : + 1 kịch thơ : Bóng giai nhân (1942): + 3 truyện thơ : Truyện Tỳ Bà (1942); Trong bóng cờ bay (1957); Tiếng trống đêm xuân (1958): + 1 vở chèo : Người lái đò sông Vỹ (1964) và rất nhiều bài thơ nổi tiếng của ông được nhạc sĩ phổ thành ca khúc : Tiểu đoàn 307 (Nguyễn Hữu Trí phổ nhạc, Quốc Hương ca);  Cô hái mơ (Phạm Duy); Ghen (Trọng Khương), Cô lái đò (Nguyễn Đình Phúc); Chân quê (Minh Quang). Hiện nay, nhiều thành phố có những con đường mang tên ông. Nhà thơ Nguyễn Bính nhận được giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (2000) cùng với Hoài Thanh, Bùi Đức Ái, Nguyễn Quang Sáng, …
Xem thêm
“Đánh thức mình bằng chân lý vô ngôn”
Tôi biết Nguyễn Minh Thuận (nguyên Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Tư pháp Đắk Lắk) làm thơ đã lâu, dễ hơn ba chục năm trước, thỉnh thoảng anh vẫn đọc cho tôi nghe và rải rác anh cho đăng trên facebook Trương Thị Hiền - vợ anh (TS, giảng viên Trường Đại học Tây Nguyên).
Xem thêm
Đọc “Thơ mười năm” của Hoàng Đình Quang
Bài viết của nhà thơ Trần Quang Khánh
Xem thêm
Hoàng hôn chín – chín mọng yêu thương
Về tập thơ in chung của Võ Miên Trường và Triệu Kim Loan
Xem thêm
Thơ Phan Hoàng trong hành trình ngược lối – Tiểu luận của Mai Thị Liên Giang
Tập thơ “Chất vấn thói quen” của Phan Hoàng từng nhận được nhận Giải thưởng Hội Nhà văn TPHCM và Tặng thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012, sau đó tập thơ này được trao Giải thưởng Nghệ thuật Danube năm 2023 của Hungary. Ngoài ra tập trường ca “Bước gió truyền kỳ” của ông cũng được Ủy ban nhân dân TPHCM trao Giải thưởng Văn học Nghệ thuật TPHCM 5 năm lần thứ II. Để hiểu thêm về hành trình sáng tạo thi ca của nhà thơ Phan Hoàng, xin trân trọng giới thiệu bài viết của nhà lý luận phê bình văn học Mai Thị Liên Giang.
Xem thêm
Những giải mã thú vị, khoa học của một người đọc tri âm
Với kiến văn sâu rộng, sự nghiên cứu cẩn trọng mang tính học thuật cao, khai thác nhiều vấn đề tri thức lý luận mới mẻ; Trần Hoài Anh đã đem đến những trang viết tinh tế, khai mở nhiều điều lý thú và bổ ích.
Xem thêm
Hồn xuân trong thơ Hồ Chí Minh
Nhà thơ Trung Quốc Viên Ưng đã nhận định sâu sắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một trí tuệ lớn, một dũng khí lớn, một tâm hồn lớn”.
Xem thêm
“Trung thực và quả cảm” trong sáng tác và phê bình văn học, nghệ thuật
Bài viết của nhà thơ Mai Nam Thắng trên Văn nghệ số 4/2024
Xem thêm
Nguyễn Quang Thiều với ‘Nhật ký người xem đồng hồ’
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa về tập thơ Nhật ký người xem đồng hồ của Nguyễn Quang Thiều
Xem thêm
Nửa lo giá chợ nửa ngây vì trời
Nguồn: Báo Văn nghệ số 4, ra ngày 27/1/2024.
Xem thêm
Dòng kinh yêu thương
Tháng 8 năm 1969, chương trình Thi văn Về Nguồn góp tiếng trên Đài phát thanh Cần Thơ vừa tròn một tuổi. Nhân dịp nầy, cơ sở xuất bản về Nguồn ấn hành đặc san kỷ niệm. Đặc san tập họp sáng tác của bằng hữu khắp nơi, với các thể loại như thơ, truyện, kịch… và phần ghi nhận sinh hoạt văn học nghệ thuật ở miền Tây trong một năm qua. Trong đặc san này, chúng tôi in một sáng tác của nhà thơ Ngũ Lang (Nguyễn Thanh) viết ngày 24/8/1969, gởi về từ Vị Thanh (Chương Thiện), có tựa đề “Đưa em xuôi thuyền trên kinh Xà No” Hơn nửa thế kỷ trôi qua với bao nhiêu biến động, ngay cả tác giả bài thơ chắc cũng không còn nhớ. Xin được chép lại trọn bài thơ của anh đã đăng trong Đặc san kỷ niệm Đệ nhất chu niên Chương trình Thi văn Về Nguồn, phát hành vào tháng 8 năm 1969.
Xem thêm
Minh Anh, người đánh thức thế giới
từng chữ từng chữ/ rơi vào từng dòng từng dòng/ chúng chụp lấy những khoảnh khắc/ đẹp não nùng/ không thể rời khỏi con tim/ cách duy nhất để tự nó đừng nở rộ quá mức/ vượt khỏi ký ức của ta/ là hãy viết xuống (Sự kỳ lạ của nghệ thuật viết).
Xem thêm
Ta sẽ không như cốc trà nguội cuối ngày
Bài viết của Nguyên Bình về tập thơ Vọng thiên hà của Hoa Mai.
Xem thêm
Con người Chí Phèo
Cái chết của Chí phèo như bản cáo trạng về xã hội thực dân nửa phong kiến thối rữa, nhàu nát, là tiếng kêu oan khốc thấu tận trời xanh của những kiếp người “siêu khổ”.
Xem thêm