TIN TỨC

Đừng kể công cho mẹ - Tập thơ mang theo tiếng lòng đau đáu

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-10-18 13:10:28
mail facebook google pos stwis
1662 lượt xem

TS. Hoàng Thị Thu Thủy

33 bài thơ trong tập thơ “Đừng kể công cho mẹ” của nhà thơ Nguyễn Hữu Quý trùng với 33 năm tuổi đời của mẹ, và cùng với đó là những tháng năm đằng đẵng đau đáu nhớ thương. Nhớ thương trong tâm hồn, rồi xúc cảm thành thơ, đi theo suốt năm tháng và khi chọn lọc để in thành tập thơ là câu chuyện mà nhà thơ Nguyễn Hữu Quý muốn gửi gắm đến độc giả rằng tình mẫu tử thiêng liêng là tình cảm đẹp nhất trên đời.

Nhà thơ Nguyễn Hữu Qúy

 

Đã nhiều lần tôi chọn thơ anh đưa vào kịch bản trang thơ của đài truyền hình Huế - TRT, và có lẽ số bài lựa chọn nhiều nhất vẫn là những bài thơ viết về mẹ, xem như thơ anh viết về mẹ đã có thương hiệu.

Là mẹ đấy, chẳng hùng hồn diễn thuyết/ túi ba gang đựng cau chát, trầu cay/ ru bát ngát bằng nhấp nhô tiếng Việt/ bát ngát ngủ rồi mẹ buộc gió vào cây” (Con nghĩ về mẹ

Nhà thơ Nguyễn Hữu Quý từng tâm sự: “Tôi dùng thi ca để khẳng định giá trị mẹ một cách giản dị và chân thực… Cái tình mẫu tử đích thực đủ sức tỏa sáng vào mỗi hoài niệm, ngẫm suy của người cầm bút trên tinh thần nhân văn của nhân loại bao la...”.

Tứ của bài thơ “Đừng kể công cho mẹ” dung dị như chính những điều giản dị nhất khi con nghĩ về mẹ: “Đừng kể công cho mẹ/ người ăn ít nhất trong mỗi kỳ giáp hạt/ lưng đẫm mồ hôi chông chênh mùa gặt/ mẹ như cánh đồng chìm cuối dòng sông/ có bông lúa vớt lên từ đỉnh lũ/ kể công cho mẹ, bằng thừa” – hình ảnh so sánh “mẹ như cánh đồng chìm cuối dòng sông” gợi thật nhiều thương cảm về nỗi truân chuyên, nhọc nhằn, chịu đựng của mẹ. Có lần, tôi tự hỏi lòng mình: mỗi ngày tôi chỉ ăn chưa đầy một bát cơm, mà sao luôn bận rộn thế nhỉ, vì trách nhiệm với con cái và gia đình hay là thiên chức của phụ nữ. Và chắc chắn cũng không ai để ý vì sao tôi ăn ít thế, nhưng tôi ăn ít không phải vì thiếu đói mà vì giữ dáng; còn mẹ trong thơ Nguyễn Hữu Quý lại “ăn ít nhất trong mỗi kì giáp hạt”, mẹ không chỉ “một nắng hai sương” mà còn như ẩn mình đi trước cái đói, cái rét, cái khổ, nhường nhịn cho chồng con…

Hình ảnh mẹ đi cùng nhà thơ từ tuổi ấu thơ cho đến lúc “nửa đời, tóc ngả màu sương”. Nhà thơ Phùng Quán từng viết: “Có những phút ngã lòng/ Tôi vịn câu thơ và đứng dậy”, sau này nhiều người sử dụng động từ “vịn” như là cách khẳng định niềm tin của mình. Nhà thơ Nguyễn Hữu Quý không chỉ vịn mà còn tựa vào mẹ với một niềm tin bất diệt: “Mẹ ơi,/ con tin ở chốn xa xăm/ mẹ vẫn dõi theo con như hằng bảo lưu ký ức/ mẹ con ta vẫn bên nhau như hơn năm mươi năm trước/ mẹ là con khi san sẻ bát cơm thường./ Mẹ còn đây thấp thoáng nắng sương/ vạt nâu bạc trở hai chiều gió nổi/ hai phía giang sơn/ nơi trập trùng bóng núi/ nơi biển hóa mây bay trên ngọn buồm xa”. (Khúc đồng hành mẫu tử). Thơ anh có những câu lung linh như ngọc quý, biết là hay mà không biết vì sao hay, chỉ biết là những câu thơ đó như chạm khắc vào trong ta về sự tảo tần của mẹ, như cánh cò thuở nào trong ca dao - “vạt nâu bạc trở hai chiều gió nổi” (Khúc đồng hành mẫu tử); “Áo mẹ mặc che hướng nào cũng bão” (Đi tìm đồng xu nhỏ bé)… Kí ức về mẹ trong anh là hình ảnh những người phụ nữ lam lũ tảo tần, bạc vai áo quanh năm không ngơi nghỉ.

Đọc thơ anh nhiều khi cứ rưng rưng, từ cậu bé mồ côi, đến khi trưởng thành cái cô đơn cứ theo anh cùng năm tháng: “Ngó về cồn cát chang chang/ hao hao dáng mẹ từ làng bước ra/ vai gầy gánh nỗi gần xa/ bước rừng, bước biển đi qua mặt trời./ Bóng in cát bỏng, không lời/ dép mo cau của một thời xửa xưa/ nón quê đã chạm đỉnh trưa/ đựng trong túi áo tiếng đùa của con./ Cứ như... mẹ vẫn đang còn/ cuối sông iu ấp vuông tròn mai sau/ cứ như... mẹ chẳng còn đau/ nụ cười không một nét nhàu thời gian”. (Ngó về cồn cát). Hình ảnh mẹ trong thơ anh trở thành hình tượng chung của người mẹ Việt Nam: tảo tần, lam lũ, chịu thương chịu khó, thương yêu con vô bờ bến. Những hình ảnh thơ: vai gầy, dép mo cau, nón mê… trong bài thơ “Ngó về cồn cát” không chỉ tái hiện chân dung về mẹ trong hình dung tưởng tượng cùng nhớ thương theo năm tháng, mà còn rất riêng của một vùng đất mà hễ nhắc đến ai cũng hình dung ra nơi đó: cồn cát chang chang – “Chang chang cồn cát nắng trưa Quảng Bình” (Mẹ Suốt – Tố Hữu). Sử dụng thể thơ lục bát, bài thơ vẫn mới bởi nhịp điệu đa dạng: “Cứ như...//  mẹ vẫn đang còn/ cuối sông iu ấp // vuông tròn mai sau/ cứ như...//  mẹ chẳng còn đau/ nụ cười//  không một nét nhàu thời gian”. Nhịp 2/4, hay nhịp 2/6 cùng điệp ngữ “Cứ như...” như điểm dừng, điếm nhấn gợi thật nhiều xúc cảm.

Những câu thơ tài hoa trong nhiều bài thơ đã tạo nên dư ba trong lòng độc giả: “Trở về/ tròn bóng nắng trưa/ củ khoai bẻ nửa gió lùa chang chang/ bát canh ngọt mát vị làng/ mẹ như bằng trắc cũ càng đất đai” (Khi gió Lào cất lên); “mẹ tần tảo trong miền Trung chìm nổi/ áo nối tay, gieo vớt những mùa màng” (Vườn mẹ mai vàng); “Sông quê tôi ít phù sa/ bao nhiêu cát mặn đi qua cánh đồng/ tôi thương cây lúa nghẹn đồng/ củ khoai khát nước, xương rồng thèm sương” (Lời ru viết lại). Đây là tài thơ của thi nhân trong thi tứ dạt dào. Làm thơ khó nhất là tìm ra tứ thơ, tôi đã đọc nhiều bài thơ của anh, bài nào cũng có tứ thơ rất riêng; cái hay trong thơ anh còn ở hình tượng thơ với vốn từ vựng dồi dào, đọc bất cứ câu nào, dòng nào cũng cảm nhận được cái hay của ngôn từ với sự hòa quyện giữa tri thức dân gian cùng nét riêng của vùng miền.

Dường như mọi chuyện vui buồn anh đều chuyện trò cùng mẹ, cái tôi trữ tình trôi chảy trong những bài thơ tự sự với mẹ, đối thoại với mẹ; để rồi khẳng định những suy nghĩ lựa chọn của mình là đúng bởi có mẹ chở che, bảo ban, nhắc nhở: “Xin bé nhỏ như đã từng bé nhỏ/ tôi là ai mà bé nhỏ trọn đời/ vệt mũi lem mẹ lau cho trước ngõ/ để bây giờ gương mặt sạch, tôi soi” (Bé nhỏ); “Mẹ lập trình con thật thà, ngay thẳng/ con biết làm gì trước dối trá, cong queo/ đời nhan nhản lọc lừa ngoắt ngoéo/ con về đâu khi vụng dại một bề?” (Lập trình); “Mẹ ơi đâu chỉ bạc tiền/ nhà cao cửa rộng làm nên con người/ câu thơ con góp cho đời/ có tình thương ở trong lời mẹ ru” (Mẹ ơi!)…

Có những câu thơ đọc mà rơi nước mắt, tình mẹ thẳm sâu bật cũng thành lời: “cuộc đời trôi chẳng chậm, chẳng mau/ mẹ cõi khác vẫn trong tôi hiển hiện/ tôi khổ đau mẹ âm thầm đến/ tôi vui cười mẹ lẳng lặng cỏ xanh” (Tuổi này nhớ mẹ) – mẹ và con nương tựa vào nhau, giọng thơ da diết đến nao lòng. Tình mẫu tử với anh thiêng liêng không gì so sánh được: “và con tin mẹ chưa hề ngưng sống/ trong mỗi tế bào, trong từng giọt máu con/ tình yêu thương mẹ truyền, con giữ trọn/ khúc đồng hành mẫu tử chẳng ngừng trôi…” (Khúc đồng hành mẫu tử).

12 tuổi – cái tuổi chuyển tiếp đến tuổi vị thành niên, cái tuổi có đã có nhiều suy tư (thi nhân Trần Đăng Khoa viết bài thơ “Hạt gạo làng ta” cũng mới 12 tuổi); nhà thơ Nguyễn Hữu Quý lúc 12 tuổi đã chứng kiến cảnh mẹ bị thương vì bom Mỹ cách nhà vài trăm mét rồi mẹ qua đời ngay đêm đó thì thật là khủng khiếp: “đêm rực cháy, đêm sặc mùi thuốc nổ/ đêm, chúng con thành năm đứa trẻ mồ côi” (Bài ca sau chiến tranh); “Cái buồn ở với mồ côi” (Thắp hương mộ mẹ)… Đau đớn đến tận cùng, đó cũng là nếp hằn sâu nhất trong trái tim anh. Nên khi anh chèo chống với bao giông bão của cuộc đời và vượt qua được để đạt đến tầm vóc người lính với quân hàm Đại tá và với tư cách là nhà văn, nhà báo, nhà thơ được nhiều độc giả biết đến, mến mộ thì ở anh là sự vượt lên của một thân phận mồ côi mẹ, quả thật là phi thường: “Tôi lưu giữ hạnh phúc khi còn mẹ. Tôi găm nén đau khổ khi mẹ mất. Mẹ vẫn hằng linh hiển trong tôi như một thánh nhân bình dị…” (Đừng kể công cho mẹ - Nguyễn Hữu Quý; tr.7)

Huế ngày mưa lũ 16/10/2022

 H.T.T.T

Bài viết liên quan

Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm
Nhà lý luận phê bình Đỗ Nguyên Thương và tập thơ “Tìm về miền ký ức”
Tôi quen nhà giáo, nhà Lý luận Phê bình văn học Đỗ Nguyên Thương thật tình cờ trong buổi Tọa đàm về Thơ 1-2-3 do nhà thơ Phan Hoàng chủ trì có sự phối hợp của Hội nhà văn Cần Thơ và khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn tường Đại học Cần Thơ.
Xem thêm
Tư tưởng nhân dân anh hùng
1. Vì tình yêu quê hương đất nước, Trần Bảo Định đến với văn chương. Nhà văn Long An để lại dấu ấn đáng kể trong sinh hoạt văn chương từ những năm 2010 đến nay. Bên cạnh bộ sách Đất và người Nam Bộ mến yêu gồm 14 tập truyện ngắn, Trần Bảo Định còn có 6 tập thơ, 5 tập tiểu luận phê bình. Năm 2024, nhà văn trình làng tuyển tập Đất Việt trời Nam liệt truyện gồm 3 tập (thượng, trung, hạ) do Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành. Tái hiện diễn trình lịch sử vùng đất Nam Bộ từ hồi một 1620, hồi hai 1859, đến hồi ba 1900, tuyển tập có thể xem như trường thiên tiểu thuyết ca ngợi tinh thần đấu tranh yêu nước anh dũng của nhân dân Nam Bộ, như lời giới thiệu của Nhà xuất bản: “Chính các anh hùng vô danh mới thể hiện toàn bộ chủ đích nghệ thuật của Trần Bảo Định, cho thấy tư tưởng: nhân dân anh hùng!”
Xem thêm
Thơ tình Nguyên Bình đắm đuối
(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Các nhà thơ từ cổ chí kim không nhiều thì ít đều viết thơ tình, điều đó không có gì lạ; vì tâm hồn họ lãng mạn, mơ mộng, tôn thờ phái đẹp. Nhà thơ Nguyên Bình không nằm ngoài số đó. Anh viết văn làm thơ từ thời sinh viên, cả trước và sau năm 1975. Những bài thơ tình, anh không dám trao tay cô nữ sinh xinh đẹp xứ Huế anh yêu say đắm: Vẫn mãi “Là bài thơ còn hoài trong vở/Giữa giờ chơi mang đến lại mang về” thơ Đỗ Trung Quân.
Xem thêm
Mỹ cảm của kiểu tự sự trong suốt trong tập tản văn “Nỗi buồn trong suốt” của Nguyễn Đức Phú Thọ
Tản văn là một thể loại dễ tiếp cận với mọi mặt của đời sống thông qua những lát cắt hiện thực, nhưng trung tâm tinh thần của thể loại này lại là cái tôi tư tưởng, cảm xúc của người nghệ sĩ. Tản văn vừa đậm chất trữ tình, vừa mang bản chất tự sự. Mỗi tác phẩm là một cách diễn giải về “Thế giới như tôi thấy”, đồng thời cũng là một tấm gương phản chiếu cấu trúc nội tâm của nhà văn.
Xem thêm
Cảm nhận thơ Trần Xuân Hóa từ một góc nhìn đa cảm
Bài viết của nhà thơ CCB Trần Trí Thông
Xem thêm
Hơi thở đất quê trong miền nhớ của Huỳnh Khang
Chủ đề và nội dung trong MIỀN NHỚ xoay quanh ký ức quê hương, tình mẫu tử, nghĩa làng nghĩa xóm, thiên nhiên, tình yêu đôi lứa, nỗi buồn mất mát, cùng những triết lý đời thường.
Xem thêm
Tiếng văn từ phía “bạn nguồn”
Nguyễn Minh Sơn, Hồ Tấn Vũ và Nguyễn Thị Như Hiền là ba cây bút thuộc thế hệ 7X và 9X
Xem thêm
Về trên dặm trường thiên lý “Miền Ô châu”
Tiếp theo các cuốn tản văn Sông vẫn chảy đời sông (NXB Thanh Niên 2023), Bốn mùa thương nhớ (NXB Thanh Niên 2024), nhà văn Nguyễn Linh Giang vừa ra mắt cuốn tản văn mới: “Miền Ô Châu” (NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2025).
Xem thêm
Thơ ca chào đón Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Cách mạng tháng Tám - 1945 thành công, mở ra trang sử vàng chói lọi cho dân tộc. Bác Hồ đọc “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập. Hai tiếng Việt Nam vang lên đầy phấn khởi, tự hào trên trường quốc tế, đã khơi nguồn, làm bừng dậy biết bao cảm hứng về thơ ca, nhạc, họa thật mới mẻ, mãnh liệt và sôi nổi, làm không khí văn nghệ đổi sắc thay da. Từ đây nền văn học của ta chỉ còn duy nhất một trào lưu là văn học cách mạng.
Xem thêm
Hồi hộp trước “phút bù giờ” của Minh Đan
Ngôn ngữ của Minh Đan đôi lúc không còn chỉ là ký tự để giải nghĩa, mà là vật liệu có tâm hồn – biết khít lại, giãn ra, để tạo hình tượng và âm thanh.
Xem thêm
Phát triển
Nội dung quyết định hình thức. Xét cả quá trình văn học lâu dài, các hình thức tác phẩm kế tiếp nhau xuất hiện, tác động vào nền văn học, góp phần tạo ra phát triển văn chương. Bài viết chỉ đề cập đến chủ đề này của cuốn sách.
Xem thêm
Vẻ đẹp tình người và nỗi niềm ưu tư trong thơ Phạm Nguyên Thạch
Một trong những cánh én đầu đàn của văn học An Giang - nhà thơ Phạm Nguyên Thạch, anh sinh năm 1948, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật An Giang và hiện là Chi hội trưởng Chi hội Nhà văn Việt Nam tỉnh An Giang. Anh sáng tác từ trước năm 1975. Từ đó đến nay, nhà thơ đã có những tác phẩm tạo tiếng vang được xuất bản: “Ngôi nhà lợp ngói âm dương” (Văn Nghệ AG, 1986); “Theo tình” (VNAG, 1994); “Gió” (NXB Trẻ, 1999); “Thị trấn đá” (VNAG, 2002); “Cỏ lá quẩn quanh” (VNAG, 2006); “Mưa ảo” (NXB Hội Nhà văn, 2019).
Xem thêm
Nghiên cứu truyện Nam Cao theo góc nhìn thi pháp
Bằng cách ghi nhận từ các bài nghiên cứu, lời giới thiệu, chắt lọc những ý kiến nho nhỏ, có khi chỉ một vài nhận xét liên quan, có thể đưa ra một cách nhìn về tình hình nghiên cứu truyện ngắn Nam Cao trên góc độ thi pháp học hiện đại.
Xem thêm
Nguyễn Thành Phong – Nhà thơ tài hoa trữ tình, quan chiêm ngoại vi và nội hàm tự sự luận cảm của thơ Việt Nam thời kỳ đổi mới
Trữ tình và tự sự là những khái niệm của thơ, ngoại diên và nội hàm là những khái niệm của logic học. Ngoại vi là một phần của ngoại diên chỉ các đối tượng có phạm vi nhất định và chỉ định. Trong thơ, nó là các địa danh, hoặc các nhân vật trữ tình, các không thời gian xác định, tạo nguồn cảm hứng. Ngoại vi nhỏ hơn ngoại diên. Nội hàm là nội dung thuộc tính bên trong cả chủ quan và khách quan của sự vật, hiện tượng. Trữ tình nói bằng cảm xúc, gắn với bộc lộ chủ thể. Tự sự kể lại, tả lại khách thể. Phàm lệ mấy câu để bài viết này đỡ cảm thấy gượng ép, mong được đồng cảm.
Xem thêm
Hãy sống như những người đã chết - Một nhan đề độc đáo
Lúc đi học, thầy cô từng bảo nhan đề là tên của tác phẩm, còn có cách gọi khác là đầu đề, là cái tít chung của một văn bản. Nhan đề (đầu đề) thường do người viết đặt ra - như người bố, người mẹ đặt tên cho đứa con của mình; nhưng cũng có khi do người khác (cán bộ biên tập) đặt hộ, hoặc đổi tên đi cho hay, cho phù hợp với chủ đề của tác phẩm.
Xem thêm
Inrasara: Tác phẩm văn chương, từ tốt & hay đến lớn
Tại tọa đàm cùng tên do Hội Nhà văn TPHCM tổ chức, nhà thơ – nhà phê bình Inrasara đã mang đến những luận điểm sắc sảo, giàu trải nghiệm, mở ra cách nhìn mới về sự cộng hưởng giữa sáng tác và tiếp nhận, để văn chương thực sự chạm tới và ở lại lâu dài trong lòng người đọc.
Xem thêm
Văn học Đổi mới, một cách nhận diện
Cho đến nay, cụm từ “Văn học Đổi mới đã được sử dụng khá rộng rãi. Từ trong nhà trường đến ngoài xã hội, từ báo chí đến các các cơ quan truyền hình, đài phát thanh, trong các bài nói chuyện hay phát biểu của các nhà sáng tác, phê bình văn học, nó được xuất hiện một cách tự nhiên giống như một thuật ngữ đã được định hình.
Xem thêm