- Truyện
- Giấc mơ hoa cúc vàng - Truyện ngắn của Tàn Tuyết
Giấc mơ hoa cúc vàng - Truyện ngắn của Tàn Tuyết
Tàn Tuyết tên thật là Đặng Tiểu Hoa, sinh năm 1953, là một nhà văn và phê bình văn học tiên phong của Trung Quốc. Những năm gần đây, Tàn Tuyết liên tục được đề cử trao giải Nobel văn học. Một số tác phẩm của bà đã được xuất bản ở Việt Nam như: Hoàng Nê phố, Bảng lảng trời xanh, Đào nguyên ngoài cõi thế, Những chuyện tình thế kỉ mới, Phố Ngũ Hương…
Minh họa Phạm Hà Hải
Một
Thật nực cười và đáng xấu hổ khi Lão Giang đột nhiên bỏ đi. Lẽ ra tôi phải sớm nhận ra hắn sẽ làm một việc như vậy. Cuộc đời tôi vốn đầy rẫy những bất cẩn. Một tháng trước, hắn kiếm được ở đâu đó một cái rìu, rồi cứ xoay quanh gốc cây già trước cửa như thể đo đạc thứ gì. Tôi thì trốn sau cửa sổ, chĩa khẩu súng hơi ngắm một con chim sẻ trên mái nhà xa xa. Tôi đã nhắm bắn suốt hai tiếng. Khi cuối cùng bóp cò súng, lòng tôi dù đầy tự tin, nhưng viên bi thép lại phóng xoẹt thẳng vào cánh tay Lão Giang. Có trời mới biết vì sao tôi lại mất trí đúng giây phút ấy. Tôi sinh ra đã mang cái tính bốc đồng này. Hắn liền nhảy dựng, xông vào phòng, gào lên: “Giết người! Giết người!” Tôi xấu hổ tới độ không biết giấu mặt vào đâu.
Toàn bộ việc ấy diễn ra lén lút. Hắn luôn bắt đầu công việc trước bình minh, khi tin tôi đã say ngủ. Hắn leo lên thang, vung rìu chặt chừng nửa tiếng, rồi lấy một tấm ga giường rách quấn quanh thân cây, quét sạch mảnh gỗ văng. Sau đó, hắn hớn hở cả ngày, cưỡi cái xe đạp trẻ con vòng vòng trong phòng. Ở đâu đó hắn lại phóng những cái máy bay giấy tráng sáp hắn gấp. Hắn còn véo mũi tôi, hân hoan hỏi: “Trong một ngày xuân đẹp như tranh thế này, mi nghĩ sao về việc đi săn lợn trên núi? Mi có tin rằng, vào khoảnh khắc nhỏ bé trong một đêm chết lặng, có thể một trận khủng hoảng khủng khiếp như động đất đang âm thầm nảy sinh? Khi ngủ say, lỗ mũi một người có thể phun ra cát sông trắng xóa không?” Sau tất cả, hắn bắt tôi nhìn ra tấm ga giường rách, lớn tiếng tuyên bố nó tự bay lên cây. “Hu-u-uýt! Hu-u-uýt! Hai hồi còi! Một tác phẩm nghệ thuật đích thực! Không thể tưởng tượng nổi!”
Thị lực của tôi ngày càng nhạy bén. Có những lúc, tôi có thể ngắm nghía suốt cả ngày mà không chớp mắt. Khi ấy, tinh thần tôi phơi phới, rạng rỡ, tim đập mạnh, mặt nổi mụn trứng cá. Trong lòng đầy kiêu hãnh, tôi nảy ý muốn mua thêm một cái xe đạp trẻ con để cùng cưỡi với Lão Giang. Nhưng tôi hay lơ đãng. Một lần, vô tình tôi bắn thủng tai hắn bằng viên bi. Tôi đã hoảng hốt mấy ngày liền. Tôi tháo súng ra lắp lại, kiểm tra, chỉnh sửa không ngừng, mồ hôi lạnh chảy ròng trên trán. Nửa đêm, tôi cầm đèn pin ra soi cây. Trên cành mọc đầy chim sẻ đẫm máu.
“Con người cần biết lượng sức mình.” Lão Giang lầm bầm trên giường.
Tôi rọi đèn pin vào hắn, thấy hắn vẫn ngủ. Cái chân trắng bệch, trụi lông, thò ra khỏi chăn. Tôi chạm vào, chả thấy gì. Lũ côn trùng li ti bò dọc chân giường.
“Trong trí tưởng tượng, mây và sương che khuất mục tiêu sao?”
Khi còn trẻ, Lão Giang thường cạo trọc. Tóc hắn quanh năm phảng phất mùi cần tây. Cái cổ không yết hầu của hắn dài đến kỳ lạ. Khi ngồi cạnh nhau trên giường, chỉ cần hắn rướn cổ, đã có thể nhìn ra ngoài cửa sổ. Rồi hắn quên bẵng tôi, bắt đầu đối thoại với cái ngoài kia. Tôi cố ghìm cổ hắn lại, nhưng hắn chẳng nhận ra, vẫn thao thao, nước bọt bắn vào khoảng trống. Dáng đi của hắn mềm nhẹ như con lươn trườn trong nước. Hắn gọi đó là “biểu tượng của sự dịu dàng”, lại còn tự hào. Nhưng thứ hắn ngưỡng mộ hơn cả là những ngón tay của hắn. Những ngón tay ngắn và cong, nhảy loạn như bị điện giật, không ngừng làm vỡ bát đĩa. Chúng đủ sức khiến bạn nhảy hoảng sợ. “Hắn giở trò sau lưng tôi!” Người đàn bà tức giận nói.
Mỗi tối đến, hắn vừa kì cọ mấy ngón tay đó, vừa thì thầm nói với chính mình. Giọng hắn dịu dàng mà thật là hoang mang: “Sao lại thế này? Hả? Ta phải trân trọng những ngón tay yêu quý này chứ. Có phải ta quá bất cẩn chăng? Một biểu hiện của óc sáng tạo! Không gì có thể sánh được, không cúi đầu sao được! Hả?”
Mùa thu năm ấy kéo dài đằng đẵng và đầy u ám. Tôi luôn ở trong phòng cùng hắn. Mưa lớn thấm đẫm không khí bằng hương hoa. Qua ô cửa sổ xám xịt, tôi dường như thấy những con ngài nhợt nhạt bay trong mưa phùn. Trên phố, một gã đi đôi ủng da khổng lồ gõ vào từng khung cửa bằng cây sào tre, như ma quỷ gõ cửa. Chúng tôi vô thức tựa lưng vào nhau. Chỉ cần khẽ động, người kia lập tức giật nảy lên. Lão Giang bảo, chúng tôi hãy cùng mơ về những con nhái cây trong mưa.
“Dễ thôi. Tóc ta không chỉ phảng phất mùi cần tây mà còn cả hương cỏ roi ngựa. Ta chẳng dám ra ngoài. Mỗi lần bước ra, ta lại thấy lưng một nàng tiên cá trồi lên trong ao nước lũ. Khi mi vắng mặt, bàn ghế trong phòng ta đều bay lơ lửng khi nhà bên chơi đàn tam thập lục. Ta buộc phải đóng chúng xuống sàn. Mi thì bỏ chạy vì bị chứng tự đại ám ảnh. Nhưng thật ra chả gì có thể thay đổi. Mỗi khi gặp người, mặt mi nóng bừng, định nói điều gì đó. Song hôm ấy là một ngày nắng. Gió nhẹ mang theo hương cúc thoảng qua. Mi dừng lại, rồi quên mất điều muốn nói. Mi và ta, lẽ ra phải cùng mơ về đám nhái cây. Sen nước sẽ nở dưới chân ta.”
Nghe hắn giục giã, tôi cũng thử, nhưng chả bao giờ mơ thấy nhái cây. Mà tôi mở mắt thao láo cả ngày lẫn đêm, nhìn các hố đen chi chít mở ra trên tường. Ngày nắng đầu tiên sau trận mưa dài, chúng tôi dìu nhau ra ngoài. Đã quên mất cách đi, vừa bước vài bước liền ngã xuống bùn, suýt gãy xương. Chả mở nổi mắt, chỉ nghe thỏ phóng qua và biển gầm rú. Chúng tôi lết đến tối mới bò về nhà.
Mẹ hắn chết khi mùa đông tới gần. Trước đó, hắn đã trộm hai cái nhẫn vàng của bà. Khi người ta báo tin, hắn đột nhiên nảy ý hộ tang bên quan tài. Tôi ngồi cùng hắn trong tang thất tối om, run rẩy sợ bà cụ bật dậy đòi nợ. Ngọn đèn dầu chập chờn, luồng gió lạnh lẻn dưới chân như rắn. Cái quan tài cứ như lơ lửng và kẽo kẹt.
Đêm khuya buông xuống, mấy bà già lén vào, miệng bảo: “Ăn gì đi, thức qua đêm nào! Ăn gì đi nào!” Họ nhóm lửa ngay cạnh quan tài nấu ăn. Lửa bốc cao đến mức quan tài bén cháy. Mùi lạ tràn ngập phòng. Sặc sụa, tôi ho, thấy Lão Giang và mấy bà húp gì đó trong nồi, nhai rau ráu. Nhìn kĩ, tôi giật mình thấy mẹ hắn ngồi giữa họ. Mắt bà lim dim, tóc cài hoa, cằm tì vào tay, cũng đang nhai.
Một lúc sau, Lão Giang thể hiện cảm xúc trên gương mặt. Hắn bật dậy, gào khóc um oang, rồi quỳ xuống trước từng “người mẹ”, thổn thức, than thở não nề rồi ôm lấy cái đầu giữa hai đầu gối xương xẩu, nức nở. Tôi chờ mãi, chán nản, ngạt khói đến buồn nôn. Rốt cuộc, tôi đứng lên, định ra ngoài hít chút ít không khí.
“Mi lại toan giở trò gì thế?” Lão Giang túm lấy người tôi từ phía sau. Ánh mắt hắn nghiêm khắc và sắc lạnh tựa như sắt đá; những đốm đen sì loang lổ trên gương mặt xanh xám của hắn. “Khốn kiếp, mi không còn lương tâm sao?”
Đám đàn bà già nhìn chằm chằm vào tôi, rồi thì thào với nhau. Một người chỉ vào tôi rồi chỉ vào quan tài, nhếch mép. Tôi hoảng loạn chạy khỏi phòng.
Nhiều năm sau, vào một buổi chiều đẹp trời, chúng tôi ngồi yên, nặng lòng dưới gốc cây bưởi. Một người hàng xóm nhắc lại chuyện ấy. Lão Giang lườm tôi đầy ác ý, nói: “Thật là thô tục!” Một con mèo trắng nằm dưới chân hắn.
Mối dây nối kết chúng tôi bắt đầu từ một ngày mưa rất xa xưa. Hắn từng là kẻ ăn nhờ ở đậu nhà tôi, như một loài rắn. Chỉ khi tập trung yên tĩnh, người ta mới nhận ra sự phiền phức của loại người ấy. Tình cảnh này kéo dài chừng mười năm. Về sau chúng tôi kết hôn chỉ vì tôi chợt nhận ra hắn cạo ria ba ngày một lần.
“Thật khôi hài.” Hắn nói to ông ổng. Nắng chiều chiếu xiên qua khung cửa sổ, phủ ánh sáng vàng lên quần áo của chúng tôi. Cả hai cùng cảm thấy ấm áp dễ chịu. Lão Giang bảo đó là “máu sục sôi của tuổi trẻ”. Rồi đột ngột hắn cầm cái bình hoa, đánh rơi và vỡ tan. Khi ấy tôi mới để ý đôi tay khác thường của hắn.
“Ta có một mục tiêu.” Hắn nhìn tôi rất lâu rồi mới nói điều hệ trọng trong lòng. Tôi nín thở chờ nghe, nhưng hắn bỏ lửng giữa chừng, không bao giờ còn nhắc lại gì thêm nữa. Có lẽ đó là một điều cực kì sâu xa. Vào ngày hôm ấy, bức vách bằng gỗ trong phòng ken đặc những đạo quân mối, đi lại rộn ràng. Vừa leo lên giường, thân hình to khủng của hắn đã biến mất dưới chăn, chỉ còn cái đầu ló ra.
“Ta ngủ không chiếm chỗ đâu. Mi không phiền chứ? Không quấy nhiễu lẫn nhau, đó là nguyên tắc cả đời ta.” Hắn cọ đầu vào gối vừa nói vừa lườm tôi.
Tôi từng ngờ tóc hắn có thực sự có mùi cần tây. Nhưng mùi ấy ngày càng thật hơn theo lời khẳng định của hắn. Cuối cùng, tôi tin đó là sự thật. Khi tôi dè dặt nêu ra, hắn khạc nhổ dữ dội xuống đất và khinh bỉ bảo: “Thật thô tục!”
Việc chặt cây xảy đến thật đột ngột. Trước đó, hắn đã uể oải từ rất lâu, than vãn trong bụng có thứ gì quẫy đạp. Hắn lục lọi hết sách y, liên tục hỏi tôi: “Có từng có trường hợp đàn ông mang thai không?” Khi ấy, hắn còn trao cho tôi khẩu súng hơi, bảo đó là thứ “tao nhã”. Hắn muốn tôi luyện “óc tập trung” bằng việc sử dụng súng. Nhưng cứ mỗi lần tôi lén giương súng lên, hắn lại thét lên theo phản xạ “Giết người! Giết người!” rồi biến mất không dấu vết. Lần nào cũng là vậy.
Sáng nay, tôi nghe tiếng hắn lần mò xuống giường. Tưởng hắn lại định ra chặt cây, tôi liền giả vờ ngủ. Nhưng tuyệt nhiên tôi không nghe thấy tiếng rìu. Chờ lâu, tôi mới dậy, phát hiện hắn đã biến mất. Leo lên thang, tôi giật tấm ga giường xuống. Trước mắt tôi là thân cây nguyên vẹn, không hề có vết chém. Đúng lúc ấy, một cơn gió thoảng qua mang theo mùi cần tây, cỏ roi ngựa và hương hoa cúc. Cúi xuống, tôi thấy hàng vạn con mối đang lũ lượt bò lên thang về phía tôi.
Hoa cúc vàng nở ở nơi đâu?
Hai
Tôi mơ thấy con hạc đúng lúc Nhu Thục cũng có giấc mơ ấy. Hôm đó, chúng tôi nằm trên những cái ghế vải ở bãi cỏ. Suối róc rách, gió ấm lướt qua mặt. Thỉnh thoảng, Nhu Thục cúi xuống bắt một loại sâu trắng, dùng hai ngón tay kẹp cho tới chết. Nàng chăm chú tới mức đồng tử trong mắt tuồng như nhập thành một.
Nắng hắt qua trán, nàng đỏ mặt thì thầm: “Chúng ta hãy cùng mơ nhé.”
Thế là tôi thấy con hạc thon thả, kiều diễm, phong thái quý tộc. Nó bay quanh hồ, rồi xoải cánh vút lên. Khi tỉnh dậy, Nhu Thục nói nàng cũng mơ y hệt. Trong mơ, nàng còn hỏi tôi có đang mơ không, và tôi đã trả lời là có. Trong mơ nàng cũng có một con hạc, và tôi biến thành một quý ông mặc đồ đen, còn nàng mặc váy voan tím. Nàng hỏi rất chi tiết rằng trong mơ tôi có thấy nàng mặc đồ tím không. Tôi không thể trả lời, vì kì lạ thay, trong giấc mơ của tôi hình như chỉ có con hạc. Thực ra, tôi lại ước gì nàng mặc đồ tím. Có lẽ một ngày nào đó, nàng sẽ bất chợt ngồi xuống bãi cỏ và bắt đầu đan. Trên đầu nàng, một cái ô hồng khổng lồ sẽ bật mở.
“Con hạc đó là một khởi đầu tốt.” Hai chúng tôi đều thốt lên. Xúc động, tôi khẽ vỗ mông nàng, trong lòng dấy lên ý nghĩ mình đủ sức bảo vệ nàng.
Nhu Thục gọi tôi là “Lão Già” trong lúc chúng tôi bước về nhà. Túi áo nàng phồng lên. Nàng mập mờ nói đó là đóa hoa hồng vừa hái, nhưng tôi biết rõ đó là những xác sâu trắng mà nàng đã giết. “Lão Già à!” Nàng mỉm cười. “Em tin rằng cách sắp đặt căn phòng của chúng ta nên thoát khỏi mọi cảnh tượng thô tục.”
“Tóc anh rất dày.” “Em cũng vậy. Cái tên “Lão Già” chứa một thứ mường tượng tình dục, giống như một cây bưởi…” Nàng kiên nhẫn để khai sáng cho tôi.
Không lâu sau đó, tôi nhận ra được tính khí đầy chất điên loạn của nàng. Đêm nào nàng cũng bắt tôi xác nhận rằng tôi thật sự đã mơ thấy con hạc, và trong mơ thật sự tôi đã trả lời câu hỏi của nàng. Nàng mua hơn chục cái gối liền, chất thành một ngọn đồi trên giường, và rồi biến mất trong đống ấy ngay khi đèn tắt.
Từ trong đó, giọng nàng nghẹn lại: “Hãy tập trung chú ý chỉ vào một ý nghĩ thôi. Con hạc sẽ đáp xuống ấm trà. Anh mặc đồ đen, em mặc váy voan tím. Cả hai ta từ trước đến nay tầm thường, không có khát vọng. Thật đáng xấu hổ. Trong nắng chiều, chúng ta bước vào trong vòm cổng trắng. Mặt đất rải muôn lá vàng.”
Một lúc sau, nàng bắt đầu ném gối lên trần, rồi lăn lộn dữ dội, lật úp cả giường. Sáng hôm sau, nàng dậy, mắt quầng đen, như biến thành người khác. “Bạn bè đều nói em có tài phán đoán nhanh.” Nàng nghiến răng chải mái tóc rậm, soi gương nhìn tôi, như sắp nổ tung vì giận. “Thật phí hoài.” Nàng hừ khinh bỉ. “Trăng khi khuyết khi tròn, tròn rồi lại khuyết. Người mù lê bước trên con phố dài…”
Mùa đông, chúng tôi muốn hưởng thụ chút nắng. Nằm trên hai ghế vải giữa bãi cỏ khô, cả hai nhìn ra xa. Đằng xa có một khung giàn cẩu đen sì. Tôi bất an, cảm thấy mình đang héo rũ từng ngày. Nhu Thục quay lưng về phía tôi, mỗi ngày chìm trong suy tư riêng, một bàn chân nàng vạch chữ xuống đất. Một hôm, nàng quay lại, nhướn hai hàng lông mày bạc trắng. Tựa hồ chẳng có gì xảy ra, nàng nói thản nhiên: “Anh từng nhắc một loài hoa, giờ em đã ngửi thấy. Chẳng có gì. Trong trí óc trống rỗng, em thường thấy sóng biển và vách đá. Hôm qua, em thấy gương mặt mình trước khi chết. Kì lạ thay trên thái dương lại có một bông hoa đỏ bé xíu.”
“Hoa cúc sao? Em đang héo rũ từng ngày!”
Nàng cúi xuống, nhặt mấy con sâu trắng, vò qua lại trong lòng bàn tay, mày nhíu chặt. Hai bàn tay nàng thấm đầy dịch độc, sưng rộp như bánh bao hấp.
“Ngày nào cũng vậy, đúng giờ này, có kẻ đưa một con cá xanh nhạt, trơn như lươn, luồn qua khe cửa.” Nàng thở dốc vào bàn tay, nước mắt lăn ra. Tôi không nhớ rõ chúng tôi bắt gặp chiếc máy bay thủy tinh từ bao giờ. Nó lượn vòng quanh chúng tôi trong nắng, phát ra những tiếng nổ chát chúa. Tôi thấy lành lạnh, rụt vai lại. Gõ nhẹ vào ống chân, tôi nghe tiếng khô rỗng như xương gãy. Nhu Thục quay lưng về phía tôi, vạch chữ trong không khí. Cử chỉ ấy để lộ cái ngạo mạn tận xương tủy nàng. Lúc đó, ngày nào nàng cũng bôi lên tường một lớp hồ mè vàng sậm. Khi chúng tôi rời đi, nàng còn gói đống sâu chết trong khăn tay, thành một bọc lớn.
Sự xuất hiện của lão già đánh dấu bước ngoặt. Mỗi khi nhớ lại, tôi vẫn thấy nỗi kinh hãi vô lí. Buổi sáng hôm tai nạn, tôi và Nhu Thục đều nghe tiếng sóng. Nhu Thục khẳng định con đê bảy dặm đã vỡ một lỗ to bằng cái chậu, nước biển đang ào vào thành phố. Trong ánh sáng lờ mờ, nàng cắn nát gối, vặn vẹo thân mình, rên rỉ: “Ùng ục, ùng ục…” Ông ta đến lúc bình minh. Tay cầm giỏ cá khô chưa ướp muối. Người ướt sũng, ông ta lao vào, ngồi phịch xuống mép giường. Cúi đầu, ông ta lục trong giỏ, rồi ngước nhìn trộm tôi, giọng chua chát: “Ở một đồng mưa nào đó, hoa cúc nở thảm hại. Ta không nói đây là sự thật. Chỉ là một manh mối thôi.”
Lúc tôi không chú ý, ông ta đã lẩn mất đi đâu rồi. Trong lòng đầy giận dữ, tôi định đuổi theo ông ta để hỏi cho rõ, nhưng Nhu Thục đã chặn lại ở cửa.
Nàng nhìn xuống mũi giày và lên tiếng: “Làm ầm lên để mà làm gì cơ chứ? Mọi chuyện đã rõ như ban ngày rồi đấy thôi. Chính anh cũng biết mà.”
Nàng hừ một tiếng đầy vẻ khinh bỉ, xông tới suýt hẩy ngã tôi xuống. Tôi thấy nàng nhặt lấy cái ống nhòm trên bàn, nhìn dõi theo bóng lưng lão già rất lâu. Rồi nàng cầm súng hơi và chĩa. Tiếng súng nổ khẽ đến mức gần như không nghe thấy. Cùng lúc ấy, đồng tử nàng giãn ra, tơ mảnh giăng thành hai mạng nhện.
Sáng hôm sau, tôi đang cạo râu thì nàng bắt chuyện sau lưng. Tôi biết nàng đang nhìn chằm chằm lưng tôi. “Nhái cây sinh con trong bong bóng. Khiếp khiếp lắm.” Ngoảnh đầu lại, tôi thấy tóc nàng ướt đẫm mồ hôi, từng giọt từng giọt rơi lộp độp xuống sàn gạch. Nàng bắt đầu kể một câu chuyện bằng chất giọng mềm mỏng. Trong câu chuyện đó, có một người đàn bà ngày nào cũng nôn ra máu.
“Hoa bí ngô vàng rực như vàng thật. Người ta có thể lánh khỏi cái máy bay thủy tinh đáng ghét dưới bóng cây.” Cổ nàng uốn dẻo như một con rắn, đầy dục tình. Nàng rướn cổ, lặp đi lặp lại: “Ùng ục, ùng ục…” Tôi nghe tiếng sóng gần sát.
“Có người đang la.” Tôi cất dao cạo. Mặt nàng xúc động. “Người đàn bà đó nôn dữ dội, làm đầy từng cái ống nhổ. Bệnh ấy có từ khi sinh ra. Hai ta cùng đi trên đê, kẻ trước người sau, bóng anh đè lên bóng em. Chúng ta cứ thế đi, đi mãi. Sóng gầm dưới chân. Đồng thời, thành phố đặc kín chuột. Em muốn thử súng hơi.”
“Rốt cuộc, lão già ngã xuống. Em còn chẳng thèm nhìn nữa. Thí nghiệm của em chẳng có kết quả gì. Thật ra, em chỉ muốn khoe khoang, chứng tỏ mình chưa chịu thua. Thế là đủ. Mấy trò ấy chỉ là sản phẩm do chính em tạo ra.”
Đúng vậy, từng có một mộng tưởng! Nó chẳng phải con hạc, cũng chẳng phải bờ biển. Nó thường hiện trên bức tường xám buổi sớm, hoặc trong ngọn núi sáng trong buổi trưa. Ta không thể nhìn rõ, chỉ ngửi thấy thứ gì đó vừa có vừa không. Những lúc ấy, thân thể ta đầy năng lượng, lỗ mũi phập phồng. Ta vươn đầu ra cửa sổ, nhìn quanh, hoàn toàn mất phương hướng. Hương ấy có thể lẩn quẩn trong phòng suốt ngày. Nhu Thục hóa ra dịu dàng, xinh đẹp như thiếu nữ, đầy sức sống và hạnh phúc. Nàng tìm thấy cuộn len hồng bỏ dở mười năm trước, và nàng nói sẽ đan một “khăn choàng lấp lánh”. Vừa ngân nga, nàng vừa ngồi bên cửa sổ đan. Ngón tay nàng lanh lợi như thoi. Những ngón chân xinh bấm sàn bồn chồn. Suốt cả ngày, nàng ngồi bất động. Khi chiều xuống, thế giới trước mắt càng lúc càng xám mờ, càng thêm hư ảo. Vô thức, tôi véo dái tai mình, thấy mỏng như tờ giấy, bèn rên rỉ. “Mỗi lần chạm vào cây kéo, em lại cắt ra một chuỗi núi non vô tận.” Nhu Thục lẩm bẩm, nhăn cái mũi nhỏ nhọn xám tái. Nàng hất cái khăn choàng dở dang ra ngoài cửa sổ.
Lão già ấy mãi là một câu đố bí ẩn. Khi cánh cửa sổ kẽo kẹt trong đới gió thu suốt ngày đêm, tôi và Nhu Thục cứ nghĩ mãi về ông ta. Tư tưởng của chúng tôi dồn vào cùng một con đường. Trước mặt là một đường hầm tròn. Chúng tôi đã trở nên giống nhau đến mức mở miệng là cùng thốt ra cùng một lời. Gần đây, chúng tôi tìm ra một mánh thông minh: ngừng nói và chỉ trao đổi bằng ánh mắt hiểu ngầm.
Trong giấc ngủ sâu, hoa quế rụng xuống mái tóc của chúng tôi. Tim chúng tôi bỗng giật thót. Trong ánh nắng vàng xuất hiện hai thiếu nữ. Lông mi họ dài và mềm, và trong đáy mắt lặng lẽ bùng cháy những tia lửa của hoa cúc vàng.
Đào Quốc Minh (Dịch từ bản tiếng Anh)