TIN TỨC

Hơn thế kỷ cuộc đời trọn với nước non

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-06-08 16:41:54
mail facebook google pos stwis
1248 lượt xem

TRẦM HƯƠNG

22 tuổi, Bà đã là Phó bí thư tỉnh uỷ Vĩnh Long, lãnh đạo Khởi nghĩa Nam Kỳ. Người phụ nữ ấy đã bị địch bắt, bị kết án tù chung thân khổ sai sau khi cuộc khởi nghĩa bị dìm trong biển máu. Là một trong số 10 nữ Đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên, là người bạn đời chia sẻ những cay đắng ngọt bùi, những năm tháng gian khổ và hạnh phúc với Cố Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh. Người phụ nữ ấy đã nhập cuộc và là chứng nhân bao giây phút thăng trầm của đất nước. Bà tên là Ngô Thị Huệ (tên cha mẹ đặt là Ngô Thị Ngỡi, sinh năm 1918, tại làng Mỹ Qưới, huyện Phước Long, Sóc Trăng) - Nguyên Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ Trung ương Đảng, Đại biểu Quốc hội từ khóa I đến khóa IV. Bà từng là Phó chủ tịch Hội bảo trợ Bệnh nhân nghèo TP.HCM), cùng 11 cán bộ phụ nữ lão thành dốc sức sáng lập, xây dựng Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ. Bà là người phụ nữ hiếm hoi của thế kỷ 21 được trao tặng Huy hiệu 85 năm tuổi Đảng, Huân chương Hồ Chí Minh...

Sống qua hai thế kỷ, bà kịp ghi lại hồi ký "Tiếng sóng bủa ghềnh" để thế hệ con cháu hiểu những gian truân của thế hệ tiền nhân đứng trên đầu ngọn sóng, dám hy sinh cuộc đời, tuổi thanh xuân cho độc lập tự do đất nước. Hơn thế kỷ cuộc đời trọn với nước non, 8 giờ tối ngày 5.6.2022 bà vĩnh viễn ra đi, để lại một kho huyền sử chan chứa tình yêu thương...


Bà Ngô Thị Huệ trong buổi ra mắt sách về đồng chí Phạm Hùng. Ảnh TH

Từ nhà chùa đến với cách mạng

Chớm tuổi thiếu nữ, bà đã đến với nhà chùa tụng kinh, ăn chay trường, làm công quả… mong tìm thấy một lối thoát trong tôn giáo. Nhưng đến chùa rồi, bà vẫn không ngăn được bao đợt sóng ngầm vò xé lòng bà. Trong những ngày rằm đầy lễ vật của những khách thập phương mang đến cúng chùa, bà có dịp nhìn thấy sự bất công trong cách đối xử của nhà chùa theo sức mạnh của từng mâm lễ vật. Đó cũng là dịp cho những người giàu có đem khoe lòng mộ đạo. Họ được xun xoe, kính trọng còn những người nghèo bị hất hủi, khinh miệt. Bà hoang mang, đau khổ… Sự hoài nghi thôi thúc bà đi tìm một con đường. Qua những người làm "kinh tế mạo hiểm" cho hoạt động cách mạng, bà chợt nhận ra có một con đường thiết thực hơn để giải phóng cho mình, cho dân tộc. Từ đó, bà bắt đầu dấn thân…

Nam kỳ Khởi nghĩa

Cuộc đời bà có biết bao kỷ niệm sâu sắc gắn bó với cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ. Đó là những ngày bi tráng không quên. Hoạt động Cách mạng khiến bà phải tiếp xúc, liên lạc nhiều đồng chí. Sợ những người xung quanh dị nghị, để che mắt sự theo dõi của mật thám, một buổi tiệc thân mật đã diễn ra nhằm hợp pháp mối quan hệ giữa bà và đồng chí Quảng Trọng Hoàng (Xứ uỷ viên Xứ uỷ Nam Kỳ. Nhưng bà giao hẹn với ông: "Đợi đến ngày khởi nghĩa thành công, có sự chứng kiến của cha mẹ đôi bên, tôi mới thực sự là vợ anh". Khởi nghĩa Nam kỳ diễn ra, bà và ông Hoàng mỗi người chia tay mỗi ngã, lao vào đại cuộc. Năm ấy bà Ngô Thị Huệ mới 22 tuổi, là phó Bí thư tỉnh uỷ Vĩnh Long, chỉ huy cuộc khởi nghĩa ở Châu Thành. Kế hoạch khởi nghĩa tại thị xã bị lộ, địch đề phòng rất nghiêm mật. Bà đã kịp thời chuyển hướng chiến thuật, điều nghĩa quân quay lại phía sau, đánh chiếm các đồn bốt lẻ và tuyên truyền võ trang, bao vây thị xã. Đội nghĩa quân của bà được sự cưu mang, đùm bọc của đồng bào, hoạt động một thời gian khá dài sau khi cuộc khởi nghĩa thất bại. Tiếp theo đó là những ngày tù đày gian khổ. Bà bị bắt vào tù lần thứ nhất rồi được thả. Bà lại bị bắt vào tù lần thứ hai, bị kết án chung thân khổ sai. Cũng sau Nam Kỳ khởi nghĩa, Quảng Trọng Hoàng bị bắt vào tù, bị kết án tử hình.  Họ vẫn gởi cho nhau những bài thơ tràn đầy niềm tin ngày chiến thắng và nghĩa khí của những con người dấn thân cho lý tưởng. Cho đến khi ông bị đưa ra trường bắn cùng nhiều đồng chí nữa, bà đau đớn hiểu rằng chẳng còn dịp nào nữa để bà đưa người ấy trở về quê hương, ra mắt họ hàng của bà nữa.

Người đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên

Năm 1945, nhân dân ta vùng lên giành chính quyền. Bà được thoát khỏi nhà tù trở lại quê hương hoạt động. Người dân lúc đó có một suy nghĩ giản dị: “Một người phụ nữ mới 22 tuổi bị bắt vào tù sau Nam Kỳ khởi nghĩa, bị kết án chung thân khổ sai, đã qua thời gian thử thách trong nhà tù sẽ không phản bội lại nhân dân…”. Và thế là họ đã dồn những lá phiếu cho bà. Bà không thể quên được chuyến đi hợp Quốc hội đầu tiên ra Trung ương: “Thật là bỡ ngỡ… Tôi cũng không lường hết được những gian khổ, hiểm nguy. Lúc ấy, chúng tôi không thể đi công khai. Đoàn đại biểu đi trên một chiếc ghe đánh cá nghi trang. Tôi đi với anh Bạch, anh Quang, anh Nguyễn… Ba anh thay nhau lái, đôi lúc tôi cũng cầm lái. Tôi chỉ có được bộ bà ba trên người suốt hành trình trên biển vì va - li đựng quần áo và các vật dụng thiết yếu bị thất lạc. Tàu đến mũi Cà Mau, qua biên giới đến Thái Lan. Ở đây, chúng tôi được Việt kiều ra đón. Mãi đến cuối năm năm 1946, tôi mới về được Hà Nội. Sau khi hộp Quốc hội, toàn quốc đã đi vào kháng chiến. Đảng có chủ trương đưa các đồng chí người miền Nam trở về Nam. Tôi đi cùng anh Ba Duẩn, Quản Trọng Linh vào Nam. Tôi háo hức được trở về Nam, được gặp lại đồng bào Nam Bộ. Niềm vui đó khiến bao gian khổ trên chặng đường về vơi đi. Tôi về đến Sài Gòn vào cuối năm 1947. Anh Mười Cúc (sau là Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh) lúc đó là Bí thư thành uỷ Sài Gòn - Gia Định ra đón chúng tôi. Tôi còn nhớ lúc đó anh mặc một chiếc áo sơ mi vá vai …”.

Mãi dấn thân làm cách mạng, đến năm 29 tuổi, bà mới lập gia đình. Người đàn ông bà chọn làm người bạn đời lý tưởng chính là vị Bí thư Thành ủy măc chiếc áo vá vai đi đón bà năm ấy. Vẫn còn nguyên vẹn những ký ức ban đầu, về chiếc áo vá vai, dù đã nhiều năm trôi qua. Từ ngày ấy, hai người đồng chí gắn bó cuộc đời với nhau. Và cuộc đời họ, gắn liền với bao biến động của đất nước. Do hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt, năm 1959 bà mang ba con ra Hà Nội, chồng bà ở lại miền Nam hoạt động. Họ đã chịu cảnh xa cách nhau đúng 15 năm. Ngoài những trọng trách bà mang trên đôi vai: Vụ trưởng vụ tổ chức cán bộ thuộc ban tổ chức Trung ương, bà cũng như bao nhiêu người phụ nữ khác với những gian khổ, nhọc nhằn thời chiến tranh phải chịu đựng: xa chồng, một mình nuôi con, vừa tham gia công tác

Hơn thế kỷ cuộc đời trọn với nước non

Nhân kỉ niệm 82 năm Ngày Thành lập Đảng, bà Ngô Thị Huệ được trao tặng Huy hiệu 75 năm tuổi Đảng và Huân chương Hồ Chí Minh vì đã có nhiều công lao, thành tích xuất sắc trong công tác xây dựng, bảo vệ đất nước. Năm 2022, bà đã 85 năm tuổi Đảng. Bà xác lập một kỷ lục hiếm có về một chứng nhân gắn với thăng trầm đất nước, với Đảng từ những ngày khởi đầu...

Tôi nhớ kỷ niệm 60 năm ngày Khởi nghĩa Nam kỳ, bà chân thành bày tỏ niềm xúc động với thế hệ con cháu, bởi bà là một trong 5 đồng chí "chi bộ tự động" đầu tiên còn sống đến hôm hay. Vì công lao đóng góp to lớn cho sự nghiệp Cách Mạng, vì tấm lòng đối với đồng bào trong việc đền ơn đáp nghĩa, làm sống dậy quá khứ hào hùng của phụ nữ Nam Bộ trong tâm huyết xây dựng Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ trở thành Bảo tàng mang tầm vóc Quốc gia; bà được trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh.

Những kỷ niệm riêng với dì Bảy Huệ

Riêng tôi không bao giờ quên được hình ảnh bà, ngày đầu đến Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ công tác, ra mắt các dì. Năm ấy (1990), tôi còn rất trẻ, nghe nói Bà Bảy Huệ - một trong những thành viên sáng lập bảo tàng Phụ nữ đương kim là phu nhân tổng bí thư nên có chút tò mò. Và tôi thật kinh ngạc, thật bất ngờ khi sau cánh cửa gian bếp hẹp của cơ quan, phu nhân tổng bí thư dung dị trong bộ quần áo bà ba đen đang cọ rửa một đống lớn ly tách (sau này tôi được biết các dì vừa tiếp một đoàn khách quốc tế, tự tay dì Bảy Huệ rửa và xếp đặt những chiếc ly, tách trà quý hiếm vào ngăn tủ cơ quan.

Cũng từ ngày 19.5.1990, tôi gắn bó với Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ hơn 30 năm, cho đến ngày về hưu. Nhiều bạn văn của tôi kinh ngạc vì điều đó. Họ nghĩ tôi phóng khoáng, không thích trói buộc thì làm sao ở một cơ quan toàn mấy bà má khó tính và mấy bà phụ nữ xét nét. Nhưng tôi đã được cái tình của các dì cưu mang và thuyết phục. Các dì đã truyền dẫn cho tôi tình yêu lịch sử, trách nhiệm với quá khứ. Cũng từ đó trang viết tôi đồng hành với số phận những người phụ nữ trên những nẻo đường đất nước. Những ngày đầu tiên của tôi đến với bảo tàng Phụ nữ Nam bộ thật không dễ dàng. Cá tính mạnh mẽ có phần "lập dị", vào cơ quan, ngoài công việc tôi cắm mặt vào quyển sách. Đọc, đọc và viết, tôi chẳng màng chú ý đến ai. Tất nhiên những lời xì xầm của đồng nghiệp đến tai các dì. Hôm ấy, đang ngời ở phòng khách đọc sách, dì Bảy Huệ bước vào. Với sự nhạy cảm của mình, tôi ái ngại xếp quyển sách lại, đầy cảnh giác. Dì nhìn tôi cười - nụ cười thật hiền, hồn hậu, thấu hiểu: "Con đọc sách đi. Thời giờ trống đọc sách thì quá tốt con à!". Tôi nhìn dì, tự dưng rơi nước mắt...

Cũng từ đó, tôi gắn bó với các dì trong công tác tìm lại các nhân chứg lịch sử, các dự án xây dựng nhà tình nghĩa, những công trình phim tài liệu về phụ nữ. Nhờ tầm nhìn và tấm lòng các dì mà Bảo tàng có được những bộ phim tài liệu quý hiếm: "Chân dung người mẹ",  "Ngày ấy Trường Sơn", "Niềm vinh quang lặng lẽ", "Những người con gái trong khởi nghĩa Nam Kỳ... Và quyển sách lịch sử truyền thống phụ nữ Nam bộ do các dì chủ biên là một gia tài quý báu gởi lại cho thế hệ mai sau... Lần lượt các dì Tổ sử Phụ nữ Nam bộ ra đi. Bà Mười Thập (Nguyễn Thị Thập), Đại tá, anh hùng Hồ Thị Bi, dì Trương Thị Thu... Rồi hôm nay, chúng tôi ngậm ngùi tiễn đưa dì Bảy Huệ về trời. Dì ra đi để lại biết bao tình. Tôi nhớ mãi lúc quyết định một mình sinh con, ở một cơ quan truyền thống, đương nhiên tôi đối mặt nhiều sóng gió. Sau này dì Bảy Huệ nói với tôi, cảm thông và chia sẻ: "Không phải mấy dì khe khắt mà thương con quá. Con là đứa con gái tốt, xứng đáng được hưởng hạnh phúc lại phải một mình lội ngược dòng. Người ta vợ chồng có đôi mà nuôi một đứa con còn chật vật, khó khăn. Con chỉ có một mình... làm sao nuôi nổi hai đứa con đây?!". Một lần nữa, tôi nhìn dì, rơi nước mắt vì sự thấu hiểu, sẻ chia. Sau này, khi tôi không còn ở cơ quan, dì vẫn hỏi thăm, rất vui vì biết cuộc sống tôi ổn và những đứa trẻ ngoan ngoãn, trưởng thành.

Cuộc đời trải qua hơn thế kỉ, nếm trải vinh quang và cay đắng, có những lúc nuốt lại nỗi đau riêng; đi qua những khúc quanh thăng trầm của lịch sử, bà vẫn là bông hoa huệ trong trắng, thơm ngát và tỏa sáng tấm lòng trung kiên, nhân hậu của người phụ nữ Nam Bộ đối với đồng bào và sự nghiệp cách mạng. Giản dị mà đường bệ, cẩn trọng mà gần gũi, chân tình; bà là một hình ảnh đầy thuyết phục cho những người tuổi trẻ chúng tôi nhìn lại chính mình. Sống qua hai thế kỷ, trọn tình với nước non. Dì Bảy Huệ đi về thế giới bên kia còn để lại biết bao tình...

 Sài gòn, 6.5.2022

Bà Ngô Thị Huệ (hàng sau, thứ hai, từ trái) - một trong 10 nữ đại biểu Quốc Hội khóa  đầu tiên, năm 1946. Ảnh tư liệu bảo tàng PNNB

Bà Ngô Thị Huệ thời còn trẻ

Bà Ngô Thị Huệ cùng hai cháu ngoại lúc nhỏ

Bà Ngô Thị Huệ (bìa phải) cùng người em Ngô Duy Liên (Chín Bưởi) thăm di tích Khởi nghĩa Nam Kỳ ở Hòn Khoai năm 2000.

Bà Ngô Thị Huệ cùng Thủ tướng Võ Văn Kiệt trong cuộc họp kỷ niệm 60 năm Khởi nghĩa Nam kỳ năm 2000

Bà Ngô Thị Huệ (ngồi giữa) cùng nhà văn Trầm Hương (ngồi- bìa phải) trong buổi làm việc tại bảo tàng Phụ nữ Nam bộ năm 2008

Bà Ngô Thị Huệ (thứ hai từ phải- hàng đứng thứ nhất) trong buổi lễ mừng thọ 90 tuổi, tại Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ.

Bức ảnh cuối cùng  tác giả chụp cùng bà Ngô Thị Huệ, tại Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ, năm 2019.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Sức quyến rũ của sự chân thành
16 giờ ngày 14.4.2024, Nhà xuất bản Hội Nhà văn tổ chức buổi gặp gỡ giao lưu giữa tác giả - Tiến sĩ Lê Kiên Thành (con trai cố Tổng bí thư Lê Duẩn)
Xem thêm
Sông chảy bên đời – Tuỳ bút của Nguyễn Thị Thu Thủy
Một đời người đã đi qua biết bao dòng sông, bao nhiêu ngã rẽ, khúc cua; mỗi dòng sông đều để lại bao luyến lưu, vương vấn, để lại những kí ức luôn tươi xanh mỗi khi nhớ về. Sông vẫn cứ chảy như thời gian trôi đi mải miết vì vậy “không ai tắm hai lần trên một dòng sông”.
Xem thêm
Rặng Diên Vĩ - Tản văn của Quốc Tuấn
Gió vẫn thổi, mái tóc thơm tuột khỏi giây buộc, quấn quanh đầu như vòng hoa nâu thẫm, vô tình quất bỏng môi người. Mùi hương đó, quen quá. Mùi tóc mẹ, hương quê vị quán. Tựa như làn nước lung linh, hơi thở chị uyển chuyển theo nhịp điệu không gian. Đôi mắt và đôi môi vẫn mỉm cười nhưng đã có chút tiếc nuối. Chính nỗi buồn ẩn chứa trên khuôn dung đã khiến chị trở nên hấp dẫn, pha lẫn sự hồn nhiên, ngây thơ tạo nên một tổng thể đẹp đến khó tin.
Xem thêm
Trần Bảo Định - Thú thưởng ngoạn văn chương qua tác phẩm “Đọc thơ bạn”
Có thể nói Trần Bảo Định là một hiện tượng văn học Việt Nam hiện đại: Chỉ trong vòng khoảng hơn 10 năm trở lại đây, từ khi về hưu anh đã cho ra đời 6 tập thơ, hơn 10 tập tản văn, truyện ngắn và 3 tập tiểu luận phê bình trong khi phải chống chọi với căn bệnh ung thư quái ác...
Xem thêm
Canh cá rô đồng – Tản văn của Châu Duyên
Tôi biết về món canh cá rô đồng đã lâu theo lời kể của cô bạn đang ở thành phố mang tên Bác, toàn những tin nhắn như là: Ê! Trưa nay tớ đang ăn canh cá rô đồng nè.
Xem thêm
Sài Gòn như nhà, như mẹ, như quê… – Tản văn của Triệu Vẽ
Ở Sài Gòn, không có ranh giới trọng khinh giữa dân “Sài Gòn” hay dân “tỉnh lẻ”, dân “phố” hay dân “phèn”. Trong huyết quản sâu xa của người Sài Gòn có ruộng đồng, bờ bãi, con trâu, con gà.
Xem thêm
Ơi mùa hoa ban! – Bút ký của Nguyễn Huy Bang
Chiếc máy bay VJ 299 từ Tân Sơn Nhất (sau 2 giờ 5 phút) bay qua không phận 3 nước.
Xem thêm
Tháng Ba hoa gạo – Tản văn của Bằng Lăng Tím
Đào phai, mai vàng là sự kì diệu của tháng giêng. Chúa của các loài hoa tháng ba chính là hoa gạo. Xuân sắp sửa đi qua, hạ lấp ló ở đầu ngõ. Hoa gạo đẹp theo nét riêng và tùy vào thời tiết. Hôm nào trời quang hoa đỏ thắm, ngời sắc trong khoảng không. Ríu rít đàn chim, lao xao ong bướm. Hoa như đốm lửa thắp sáng cả bình minh. Hôm nào sương dày đặc, nhìn hoa như ánh lửa đêm đông, lập lòe mang đến sự ấm áp lạ thường.
Xem thêm
Nhớ hoa đào - Tùy văn của Nguyễn Linh Khiếu
Mỗi năm khi sắp tết bao giờ mình cũng mua hoa đào. Hà Nội không có hoa đào làm sao gọi là tết. Dù là bích đào bạch đào hay đào phai thì hoa đào bao giờ cũng mang tết đến mỗi ngôi nhà thân thương. 
Xem thêm
Giữa những mùa hoa nở - Bút ký Nguyễn Xuân Thủy
Từ Yên Khương, thuộc huyện Lang Chánh chúng tôi đi theo đường tuần tra biên giới lên Đồn Biên phòng Bát Mọt, thuộc huyện Thường Xuân. Đường tuần tra biên giới chập chùng uốn lượn giữa núi non, len lỏi giữa màu xanh của rừng. Càng lên hướng Cửa khẩu Khẹo càng có cảm giác đang đi về nơi thâm sơn cùng cốc. Cũng đúng, Bát Mọt là tuyến cuối của dải biên giới xứ Thanh, nơi có cột mốc 378 là nơi tiếp giáp biên giới giữa Thanh Hóa và Nghệ An. Những nơi cuối đất cùng trời bao giờ cũng gợi cho người ta sự rưng rưng về những niềm thương nỗi nhớ.
Xem thêm
Lửa Cát Bi, ngọn trao truyền khí chất Hải Phòng
“Ơi Hải Phòng cửa biển quê hương/ Tổ quốc đang ghi những trang lịch sử/ Của Hải Phòng viết trên sóng bão Thái Bình Dương”. Với vị thế địa lý của Hải Phòng, trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, nơi đây luôn là miền đất tiền tiêu quan trọng, cửa ngõ chiến lược. Bởi kẻ thù thường tiến hành xâm lược Hải Phòng đầu tiên, lấy đó làm bàn đạp để đánh chiếm Thăng Long – Hà Nội. Khi thất bại, chúng cũng thường chọn Hải Phòng là một trong những tuyến đường rút chạy cuối cùng. Hải Phòng là địa phương luôn “đi trước về sau”, có vị trí xứng đáng, giữ vai trò quan trọng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc cũng như các cuộc kháng chiến của cách mạng Việt Nam, xứng đáng với danh hiệu “Thành phố Cảng trung dũng, quyết thắng”.
Xem thêm
Mùi Tết vương dấu chân xa – Tản văn của Đặng Tường Vy
Mỗi độ xuân về, người con xa xứ không tránh khỏi rưng rức, chạnh lòng. Nỗi nhớ trong lòng người tha hương rất lạ: sâu lắng, dịu dàng, chôn kín. Như gái đôi mươi thầm thương trộm nhớ một ai đó, âm thầm, mãnh liệt, nồng nàn,  tha thiết.
Xem thêm
Mùi hương thảo - Tản văn Quốc Tuấn
Chị mười tám, hay hai lăm tuổi. Tôi cũng chẳng biết và không cần biết, chỉ cần trong tôi đã bận lòng trước vẻ đẹp thuần khiết của loài cúc lam đồng thảo ấy. Nơi đáy mắt thể hiện những đốm lửa vui, những nét cong, nếp gấp mong manh nơi khóe miệng, bờ môi thể hiện sự phong phú nơi nhiệt tâm.
Xem thêm
Phép màu đã không đến với chị, chị Hồng Oanh ơi!
Chia sẻ của nhà văn Bích Ngân, Chủ tịch Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh
Xem thêm
Vào vườn hương
Thành phố Cần Thơ đất rộng người thưa không chỉ có gạo trắng nước trong để níu chân người và du khách bốn phương. Tây Đô còn là mảnh đất văn hiến với không hiếm những trang anh hùng hào kiệt yêu nước và nghệ sĩ phong lưu tài hoa nhân cách. Kế thừa truyền thống văn chương của Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa, Huỳnh Mẫn Đạt … và các bậc văn nghệ sĩ đàn anh: Kiều Thanh Quế, Lưu Hữu Phước, Hoài Sơn, Mai Văn Bộ, Trần Kiết Tường, …đã có không ít thế hệ đàn em kế thừa xứng đáng trên lĩnh vực văn học nghệ thuật.
Xem thêm
Suy ngẫm về “chữ” của “một thời vang bóng”_ Tản mạn của Quốc Tuấn
Người xưa, dẫu không biết chữ nhưng khi thấy một mẫu giấy có vết mực sẽ lượm lên, mang về cất giữ. Điều đó thể hiện sự “sùng chữ” (trân trọng giá trị của văn chương, chữ nghĩa) của ông cha. Những người không biết chữ đã biết đối xử với con chữ bằng tấm lòng trân quý như thế, thì dễ hiểu các trí giả đời trước họ sống với chữ nghĩa sâu sắc đến độ nào.
Xem thêm
Má tôi
Bài đăng báo Người Lao động Xuân Giáp Thìn 2024
Xem thêm
Xuân yêu thương - Tết sum vầy
Phút giao thừa, nhìn ngắm dòng người “tống cựu”, “nghinh tân”, cảm nhận trong mắt mỗi người lấp lánh ánh nhìn hạnh phúc, nhất là khi trên bầu trời đêm pháo hoa rực rỡ...
Xem thêm
Ngày cuối năm... - Tản văn Lê Thiếu Nhơn
Kẻ tha phương dù mải mê danh lợi cũng bất giác bần thần trước mênh mông tiếng gọi quê nhà ngày Tết. Tháng Chạp bao giờ cũng vội vàng trong mắt kẻ tha phương. Tháng Chạp bao giờ cũng hấp tấp trong lòng kẻ tha phương. Vì vậy, càng nhiều tuổi, tôi càng thấy sốt ruột khi thời gian nhích dần vào khoảnh khắc tất niên mà mình chưa kịp trở về ngôi nhà thơ ấu.
Xem thêm