TIN TỨC

Hơn thế kỷ cuộc đời trọn với nước non

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-06-08 16:41:54
mail facebook google pos stwis
1074 lượt xem

TRẦM HƯƠNG

22 tuổi, Bà đã là Phó bí thư tỉnh uỷ Vĩnh Long, lãnh đạo Khởi nghĩa Nam Kỳ. Người phụ nữ ấy đã bị địch bắt, bị kết án tù chung thân khổ sai sau khi cuộc khởi nghĩa bị dìm trong biển máu. Là một trong số 10 nữ Đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên, là người bạn đời chia sẻ những cay đắng ngọt bùi, những năm tháng gian khổ và hạnh phúc với Cố Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh. Người phụ nữ ấy đã nhập cuộc và là chứng nhân bao giây phút thăng trầm của đất nước. Bà tên là Ngô Thị Huệ (tên cha mẹ đặt là Ngô Thị Ngỡi, sinh năm 1918, tại làng Mỹ Qưới, huyện Phước Long, Sóc Trăng) - Nguyên Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ Trung ương Đảng, Đại biểu Quốc hội từ khóa I đến khóa IV. Bà từng là Phó chủ tịch Hội bảo trợ Bệnh nhân nghèo TP.HCM), cùng 11 cán bộ phụ nữ lão thành dốc sức sáng lập, xây dựng Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ. Bà là người phụ nữ hiếm hoi của thế kỷ 21 được trao tặng Huy hiệu 85 năm tuổi Đảng, Huân chương Hồ Chí Minh...

Sống qua hai thế kỷ, bà kịp ghi lại hồi ký "Tiếng sóng bủa ghềnh" để thế hệ con cháu hiểu những gian truân của thế hệ tiền nhân đứng trên đầu ngọn sóng, dám hy sinh cuộc đời, tuổi thanh xuân cho độc lập tự do đất nước. Hơn thế kỷ cuộc đời trọn với nước non, 8 giờ tối ngày 5.6.2022 bà vĩnh viễn ra đi, để lại một kho huyền sử chan chứa tình yêu thương...


Bà Ngô Thị Huệ trong buổi ra mắt sách về đồng chí Phạm Hùng. Ảnh TH

Từ nhà chùa đến với cách mạng

Chớm tuổi thiếu nữ, bà đã đến với nhà chùa tụng kinh, ăn chay trường, làm công quả… mong tìm thấy một lối thoát trong tôn giáo. Nhưng đến chùa rồi, bà vẫn không ngăn được bao đợt sóng ngầm vò xé lòng bà. Trong những ngày rằm đầy lễ vật của những khách thập phương mang đến cúng chùa, bà có dịp nhìn thấy sự bất công trong cách đối xử của nhà chùa theo sức mạnh của từng mâm lễ vật. Đó cũng là dịp cho những người giàu có đem khoe lòng mộ đạo. Họ được xun xoe, kính trọng còn những người nghèo bị hất hủi, khinh miệt. Bà hoang mang, đau khổ… Sự hoài nghi thôi thúc bà đi tìm một con đường. Qua những người làm "kinh tế mạo hiểm" cho hoạt động cách mạng, bà chợt nhận ra có một con đường thiết thực hơn để giải phóng cho mình, cho dân tộc. Từ đó, bà bắt đầu dấn thân…

Nam kỳ Khởi nghĩa

Cuộc đời bà có biết bao kỷ niệm sâu sắc gắn bó với cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ. Đó là những ngày bi tráng không quên. Hoạt động Cách mạng khiến bà phải tiếp xúc, liên lạc nhiều đồng chí. Sợ những người xung quanh dị nghị, để che mắt sự theo dõi của mật thám, một buổi tiệc thân mật đã diễn ra nhằm hợp pháp mối quan hệ giữa bà và đồng chí Quảng Trọng Hoàng (Xứ uỷ viên Xứ uỷ Nam Kỳ. Nhưng bà giao hẹn với ông: "Đợi đến ngày khởi nghĩa thành công, có sự chứng kiến của cha mẹ đôi bên, tôi mới thực sự là vợ anh". Khởi nghĩa Nam kỳ diễn ra, bà và ông Hoàng mỗi người chia tay mỗi ngã, lao vào đại cuộc. Năm ấy bà Ngô Thị Huệ mới 22 tuổi, là phó Bí thư tỉnh uỷ Vĩnh Long, chỉ huy cuộc khởi nghĩa ở Châu Thành. Kế hoạch khởi nghĩa tại thị xã bị lộ, địch đề phòng rất nghiêm mật. Bà đã kịp thời chuyển hướng chiến thuật, điều nghĩa quân quay lại phía sau, đánh chiếm các đồn bốt lẻ và tuyên truyền võ trang, bao vây thị xã. Đội nghĩa quân của bà được sự cưu mang, đùm bọc của đồng bào, hoạt động một thời gian khá dài sau khi cuộc khởi nghĩa thất bại. Tiếp theo đó là những ngày tù đày gian khổ. Bà bị bắt vào tù lần thứ nhất rồi được thả. Bà lại bị bắt vào tù lần thứ hai, bị kết án chung thân khổ sai. Cũng sau Nam Kỳ khởi nghĩa, Quảng Trọng Hoàng bị bắt vào tù, bị kết án tử hình.  Họ vẫn gởi cho nhau những bài thơ tràn đầy niềm tin ngày chiến thắng và nghĩa khí của những con người dấn thân cho lý tưởng. Cho đến khi ông bị đưa ra trường bắn cùng nhiều đồng chí nữa, bà đau đớn hiểu rằng chẳng còn dịp nào nữa để bà đưa người ấy trở về quê hương, ra mắt họ hàng của bà nữa.

Người đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên

Năm 1945, nhân dân ta vùng lên giành chính quyền. Bà được thoát khỏi nhà tù trở lại quê hương hoạt động. Người dân lúc đó có một suy nghĩ giản dị: “Một người phụ nữ mới 22 tuổi bị bắt vào tù sau Nam Kỳ khởi nghĩa, bị kết án chung thân khổ sai, đã qua thời gian thử thách trong nhà tù sẽ không phản bội lại nhân dân…”. Và thế là họ đã dồn những lá phiếu cho bà. Bà không thể quên được chuyến đi hợp Quốc hội đầu tiên ra Trung ương: “Thật là bỡ ngỡ… Tôi cũng không lường hết được những gian khổ, hiểm nguy. Lúc ấy, chúng tôi không thể đi công khai. Đoàn đại biểu đi trên một chiếc ghe đánh cá nghi trang. Tôi đi với anh Bạch, anh Quang, anh Nguyễn… Ba anh thay nhau lái, đôi lúc tôi cũng cầm lái. Tôi chỉ có được bộ bà ba trên người suốt hành trình trên biển vì va - li đựng quần áo và các vật dụng thiết yếu bị thất lạc. Tàu đến mũi Cà Mau, qua biên giới đến Thái Lan. Ở đây, chúng tôi được Việt kiều ra đón. Mãi đến cuối năm năm 1946, tôi mới về được Hà Nội. Sau khi hộp Quốc hội, toàn quốc đã đi vào kháng chiến. Đảng có chủ trương đưa các đồng chí người miền Nam trở về Nam. Tôi đi cùng anh Ba Duẩn, Quản Trọng Linh vào Nam. Tôi háo hức được trở về Nam, được gặp lại đồng bào Nam Bộ. Niềm vui đó khiến bao gian khổ trên chặng đường về vơi đi. Tôi về đến Sài Gòn vào cuối năm 1947. Anh Mười Cúc (sau là Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh) lúc đó là Bí thư thành uỷ Sài Gòn - Gia Định ra đón chúng tôi. Tôi còn nhớ lúc đó anh mặc một chiếc áo sơ mi vá vai …”.

Mãi dấn thân làm cách mạng, đến năm 29 tuổi, bà mới lập gia đình. Người đàn ông bà chọn làm người bạn đời lý tưởng chính là vị Bí thư Thành ủy măc chiếc áo vá vai đi đón bà năm ấy. Vẫn còn nguyên vẹn những ký ức ban đầu, về chiếc áo vá vai, dù đã nhiều năm trôi qua. Từ ngày ấy, hai người đồng chí gắn bó cuộc đời với nhau. Và cuộc đời họ, gắn liền với bao biến động của đất nước. Do hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt, năm 1959 bà mang ba con ra Hà Nội, chồng bà ở lại miền Nam hoạt động. Họ đã chịu cảnh xa cách nhau đúng 15 năm. Ngoài những trọng trách bà mang trên đôi vai: Vụ trưởng vụ tổ chức cán bộ thuộc ban tổ chức Trung ương, bà cũng như bao nhiêu người phụ nữ khác với những gian khổ, nhọc nhằn thời chiến tranh phải chịu đựng: xa chồng, một mình nuôi con, vừa tham gia công tác

Hơn thế kỷ cuộc đời trọn với nước non

Nhân kỉ niệm 82 năm Ngày Thành lập Đảng, bà Ngô Thị Huệ được trao tặng Huy hiệu 75 năm tuổi Đảng và Huân chương Hồ Chí Minh vì đã có nhiều công lao, thành tích xuất sắc trong công tác xây dựng, bảo vệ đất nước. Năm 2022, bà đã 85 năm tuổi Đảng. Bà xác lập một kỷ lục hiếm có về một chứng nhân gắn với thăng trầm đất nước, với Đảng từ những ngày khởi đầu...

Tôi nhớ kỷ niệm 60 năm ngày Khởi nghĩa Nam kỳ, bà chân thành bày tỏ niềm xúc động với thế hệ con cháu, bởi bà là một trong 5 đồng chí "chi bộ tự động" đầu tiên còn sống đến hôm hay. Vì công lao đóng góp to lớn cho sự nghiệp Cách Mạng, vì tấm lòng đối với đồng bào trong việc đền ơn đáp nghĩa, làm sống dậy quá khứ hào hùng của phụ nữ Nam Bộ trong tâm huyết xây dựng Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ trở thành Bảo tàng mang tầm vóc Quốc gia; bà được trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh.

Những kỷ niệm riêng với dì Bảy Huệ

Riêng tôi không bao giờ quên được hình ảnh bà, ngày đầu đến Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ công tác, ra mắt các dì. Năm ấy (1990), tôi còn rất trẻ, nghe nói Bà Bảy Huệ - một trong những thành viên sáng lập bảo tàng Phụ nữ đương kim là phu nhân tổng bí thư nên có chút tò mò. Và tôi thật kinh ngạc, thật bất ngờ khi sau cánh cửa gian bếp hẹp của cơ quan, phu nhân tổng bí thư dung dị trong bộ quần áo bà ba đen đang cọ rửa một đống lớn ly tách (sau này tôi được biết các dì vừa tiếp một đoàn khách quốc tế, tự tay dì Bảy Huệ rửa và xếp đặt những chiếc ly, tách trà quý hiếm vào ngăn tủ cơ quan.

Cũng từ ngày 19.5.1990, tôi gắn bó với Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ hơn 30 năm, cho đến ngày về hưu. Nhiều bạn văn của tôi kinh ngạc vì điều đó. Họ nghĩ tôi phóng khoáng, không thích trói buộc thì làm sao ở một cơ quan toàn mấy bà má khó tính và mấy bà phụ nữ xét nét. Nhưng tôi đã được cái tình của các dì cưu mang và thuyết phục. Các dì đã truyền dẫn cho tôi tình yêu lịch sử, trách nhiệm với quá khứ. Cũng từ đó trang viết tôi đồng hành với số phận những người phụ nữ trên những nẻo đường đất nước. Những ngày đầu tiên của tôi đến với bảo tàng Phụ nữ Nam bộ thật không dễ dàng. Cá tính mạnh mẽ có phần "lập dị", vào cơ quan, ngoài công việc tôi cắm mặt vào quyển sách. Đọc, đọc và viết, tôi chẳng màng chú ý đến ai. Tất nhiên những lời xì xầm của đồng nghiệp đến tai các dì. Hôm ấy, đang ngời ở phòng khách đọc sách, dì Bảy Huệ bước vào. Với sự nhạy cảm của mình, tôi ái ngại xếp quyển sách lại, đầy cảnh giác. Dì nhìn tôi cười - nụ cười thật hiền, hồn hậu, thấu hiểu: "Con đọc sách đi. Thời giờ trống đọc sách thì quá tốt con à!". Tôi nhìn dì, tự dưng rơi nước mắt...

Cũng từ đó, tôi gắn bó với các dì trong công tác tìm lại các nhân chứg lịch sử, các dự án xây dựng nhà tình nghĩa, những công trình phim tài liệu về phụ nữ. Nhờ tầm nhìn và tấm lòng các dì mà Bảo tàng có được những bộ phim tài liệu quý hiếm: "Chân dung người mẹ",  "Ngày ấy Trường Sơn", "Niềm vinh quang lặng lẽ", "Những người con gái trong khởi nghĩa Nam Kỳ... Và quyển sách lịch sử truyền thống phụ nữ Nam bộ do các dì chủ biên là một gia tài quý báu gởi lại cho thế hệ mai sau... Lần lượt các dì Tổ sử Phụ nữ Nam bộ ra đi. Bà Mười Thập (Nguyễn Thị Thập), Đại tá, anh hùng Hồ Thị Bi, dì Trương Thị Thu... Rồi hôm nay, chúng tôi ngậm ngùi tiễn đưa dì Bảy Huệ về trời. Dì ra đi để lại biết bao tình. Tôi nhớ mãi lúc quyết định một mình sinh con, ở một cơ quan truyền thống, đương nhiên tôi đối mặt nhiều sóng gió. Sau này dì Bảy Huệ nói với tôi, cảm thông và chia sẻ: "Không phải mấy dì khe khắt mà thương con quá. Con là đứa con gái tốt, xứng đáng được hưởng hạnh phúc lại phải một mình lội ngược dòng. Người ta vợ chồng có đôi mà nuôi một đứa con còn chật vật, khó khăn. Con chỉ có một mình... làm sao nuôi nổi hai đứa con đây?!". Một lần nữa, tôi nhìn dì, rơi nước mắt vì sự thấu hiểu, sẻ chia. Sau này, khi tôi không còn ở cơ quan, dì vẫn hỏi thăm, rất vui vì biết cuộc sống tôi ổn và những đứa trẻ ngoan ngoãn, trưởng thành.

Cuộc đời trải qua hơn thế kỉ, nếm trải vinh quang và cay đắng, có những lúc nuốt lại nỗi đau riêng; đi qua những khúc quanh thăng trầm của lịch sử, bà vẫn là bông hoa huệ trong trắng, thơm ngát và tỏa sáng tấm lòng trung kiên, nhân hậu của người phụ nữ Nam Bộ đối với đồng bào và sự nghiệp cách mạng. Giản dị mà đường bệ, cẩn trọng mà gần gũi, chân tình; bà là một hình ảnh đầy thuyết phục cho những người tuổi trẻ chúng tôi nhìn lại chính mình. Sống qua hai thế kỷ, trọn tình với nước non. Dì Bảy Huệ đi về thế giới bên kia còn để lại biết bao tình...

 Sài gòn, 6.5.2022

Bà Ngô Thị Huệ (hàng sau, thứ hai, từ trái) - một trong 10 nữ đại biểu Quốc Hội khóa  đầu tiên, năm 1946. Ảnh tư liệu bảo tàng PNNB

Bà Ngô Thị Huệ thời còn trẻ

Bà Ngô Thị Huệ cùng hai cháu ngoại lúc nhỏ

Bà Ngô Thị Huệ (bìa phải) cùng người em Ngô Duy Liên (Chín Bưởi) thăm di tích Khởi nghĩa Nam Kỳ ở Hòn Khoai năm 2000.

Bà Ngô Thị Huệ cùng Thủ tướng Võ Văn Kiệt trong cuộc họp kỷ niệm 60 năm Khởi nghĩa Nam kỳ năm 2000

Bà Ngô Thị Huệ (ngồi giữa) cùng nhà văn Trầm Hương (ngồi- bìa phải) trong buổi làm việc tại bảo tàng Phụ nữ Nam bộ năm 2008

Bà Ngô Thị Huệ (thứ hai từ phải- hàng đứng thứ nhất) trong buổi lễ mừng thọ 90 tuổi, tại Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ.

Bức ảnh cuối cùng  tác giả chụp cùng bà Ngô Thị Huệ, tại Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ, năm 2019.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nỗi lòng Huyền Trân - Tản văn Nguyễn Linh Giang
Trên đường thiên lý Bắc- Nam, đoạn Quốc lộ 1 giao nhau với Quốc lộ 9 đi về hướng Cửa Việt (tỉnh Quảng Trị), có một bảng chỉ dẫn: “Miếu thờ bà Huyền Trân Công Chúa 500 mét”.
Xem thêm
Thầy tôi - Kho báu của tôi
PGS Chu Xuân Diên thuộc thế hệ những nhà nghiên cứu tiếp thu lý thuyết thế giới qua con đường tiếng Nga và tiếng Pháp. Thầy đã tham gia dịch những công trình kinh điển về folklore học mà đặc biệt phải kể đến bộ sách 2 tập rất dày dặn là Tuyển tập V. Ia. Propp - giới thiệu gần như đầy đủ trước tác của một tác giả quan trọng hàng đầu của trường phái Hình thức Nga và nghiên cứu folklore
Xem thêm
“Cú hattrick” của nhà thơ Triệu Kim Loan
Nhà thơ Triệu Kim Loan sẽ ra mắt độc giả ba quyển sách (hai tập thơ: Khát vọng xanh, Đối thoại đêm và quyển Cảm nhận văn chương)
Xem thêm
Đất có thổ công - Tản văn Nguyễn Linh Giang
Nhà văn Nguyễn Linh Giang quê quán tỉnh Quảng Trị, sinh sống và làm việc 30 năm tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hội viên Hội Nhà văn TP.Hồ Chí Minh năm 2022. Nguyễn Linh Giang vừa xuất bản tập tản văn: “Sông vẫn chảy đời sông” (NXB Thanh niên, 2023). Về tập tản văn này, nhà văn Lê Minh Quốc trong “Tựa” viết cho tập sách đã viết: “Dám nói rằng, con người và vùng đất của mỗi địa phương đều đóng góp cho bộ sử của cả nước đầy đặn hơn, phong phú hơn. Mỗi khi chúng ta nói đến lịch sử một dân tộc là cần hiểu rộng hơn bao gồm cả yếu tố văn hóa, phong tục, tập quán, ẩm thực, v.v… của nhiều vùng đất khác gộp lại. Vì lẽ đó, những quyển sách về đề tài này, bao giờ cũng cần thiết, Nếu khi đọc xong, bạn đọc gật gù, tâm đắc: “À, ước chi có dịp đến nơi ấy một lần nhỉ?”. Được thế. Nhà văn đã thành công. “Sông vẫn chảy đời sông” của Nguyễn Linh Giang là một trong những tập tản văn như thế”.Văn chương TP.Hồ Chí Minh xin giới thiệu tản văn Đất có thổ công được rút từ tập “Sông vẫn chảy đời sông” của nhà văn Nguyễn Linh Giang.
Xem thêm
Em đi tát nước… Tản văn của Nguyễn Linh Giang
Tôi lớn lên, vào những năm sau 1975, ruộng đồng vào mùa khô vẫn phải chống hạn bằng xe đạp nước. Có lần, được ngồi xe đạp nước đêm trăng cùng với cô bạn gái tôi mới biết giọt mồ hôi trên sợi tóc mai cùa cô thôn nữ vừa nghe mằn mặn vừa nồng ngầy ngậy, khó tả. Qua bao mùa trăng, tôi vẫn còn mơ được đi tát nước: “Hôm qua trăng sáng tờ mờ/ Em đi tát nước tình cờ gặp anh” (Ca dao).
Xem thêm
Dọc thượng nguồn sông Vàm Cỏ Đông – Ký của Thanh Thảo
Năm 1973, khi tôi từ chiến trường Nam Lộ Bốn (Mỹ Tho) trở về lại cơ quan binh vận ở R, tôi rất phấn khởi vì cơ quan tôi đã dời về đất Tây Ninh, đóng căn cứ ở Bến Tháp ngay sát sông Vàm Cỏ Đông. Đoạn sông này là biên giới tự nhiên giữa Việt Nam và Campuchia, cũng là thượng nguồn sông Vàm Cỏ Đông. Từ Mỹ Tho, trước khi băng qua đồng Tháp Mười lên chiến khu, chúng tôi đã vượt qua sông Vàm Cỏ Tây, bây giờ lại được ở sát sông Vàm Cỏ Đông, thật thú vị.
Xem thêm
Đỗ Nam Cao - Cô đơn và khắc khoải 
Những năm cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chúng tôi cùng sống và chiến đấu trên chiến trường Miền Đông gian lao mà anh dũng. Nhà thơ Đỗ Nam Cao công tác ở Ban Tuyên huấn Trung ương Cục, còn tôi là lính chiến thuộc Công trường 5 (Sư đoàn 5). Rừng Miền Đông bạt ngàn, bom đạn tàn phá, chất độc hóa học trắng rừng, nhưng chúng tôi thường xuyên gặp nhau qua Đài Phát thanh Giải phóng và chương trình Phát thanh Quân Giải phóng miền Nam. Đôi khi, hành quân giữa khuya, nghe đọc bài hoặc ngâm thơ Đỗ Nam Cao trong chương trình văn nghệ, tiếp sức cho cánh lính trẻ chúng tôi xông lên phía trước.
Xem thêm
Nhà thơ Thanh Thảo… Nghĩ
Bây giờ, khi đã ngấp nghé tuổi tám mươi, tôi mới nhận ra, khi mình càng về già thì thời gian trôi càng nhanh. Và thời gian là thứ mình không thể khắc chế được. Việc hôm nay chớ để ngày mai mới làm, vì có khi không kịp.
Xem thêm
Nghệ sĩ Bảo Anh đang trên đường trở về quê nhà
“Một đám rước”, dường như có những tương đồng với “đám rước” khi thân xác nghệ sĩ Bảo Anh được trở về quê nhà, về U Minh, Cà Mau, nơi chôn nhau cắt rốn của anh.
Xem thêm
Vũ Quần Phương tiết lộ chuyện đặc biệt về Xuân Diệu, Chế Lan Viên
Nhà thơ Vũ Quần Phương nhớ lại ký ức về những nhà thơ, nhà văn lão thành như Chế Lan Viên, Tố Hữu, Nguyễn Tuân… thế hệ đàn anh – những người đã “lót ổ” cho thế hệ hôm nay dưới mái nhà văn chương.
Xem thêm
Nhà văn Ma Văn Kháng: Sống rồi mới viết
Trong lớp nhà văn cao tuổi hiện nay, có một người tôi luôn chờ đợi đọc những sáng tác mới của ông. Đó là nhà văn Ma Văn Kháng (sinh năm 1936, tên thật Đinh Trọng Đoàn). Chỉ có điều thời gian gần đây tuổi cao đã khiến ông không viết đều, viết nhiều như trước. Thế nhưng, thi thoảng vẫn được đọc những truyện ngắn mới của ông, hay những bài báo gửi gắm trăn trở, suy tư.
Xem thêm
Cuộc chiến nhân tính – Tiểu luận của Hoàng Thuỵ Anh
Nhà văn Hữu Phương là một trong số những cây bút văn xuôi kỳ cựu của miền Trung, đã khẳng định sở trường, sự điêu luyện khi nhìn sâu và cắt nghĩa tính tàn bạo của chiến tranh thông qua những số phận bị chấn thương, bi kịch.
Xem thêm
Nhớ mãi kỷ niệm với nhà văn Nguyễn Quốc Trung
Qua các nguồn tin, được biết Hội nhà văn thành phố Hồ Chí Minh và Tạp chí Văn nghệ Quân đội chuẩn bị phối hợp tổ chức hoạt động tưởng nhớ nhà văn Nguyễn Quốc Trung sau 2 năm anh rời “cõi tạm” và nhân sự kiện anh được truy tặng Giải thưởng Nhà nước với tiểu thuyết Đất không đổi màu, tôi cảm thấy vui mừng xen lẫn sự bồi hồi, xao xuyến.
Xem thêm
Tàn thu vắng bóng - Tản văn của Đặng Tường Vy
 Châu Âu thật tuyệt với bốn mùa rõ rệt. Mùa nào cũng có nét quyến rũ riêng, làm người tha hương vơi đi nỗi buồn dịu vợi. ..
Xem thêm
Nhớ Nguyễn Quốc Trung
Nhà văn Bích Ngân, Chủ tịch Hội nhà văn TP HCM gọi điện thông báo với tôi về việc Hội nhà văn TP HCM phối hợp cùng Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức tưởng nhớ nhà văn Nguyễn Quốc Trung nhân hai năm ông rời cõi tạm và đặc biệt nhà văn được truy tặng giải thưởng Nhà nước về tiểu thuyết Đất không đổi màu.
Xem thêm
Mùa thu đây hỡi cờ hồng vàng sao – Tản văn của Lê Xuân
Tháng Tám cũng là tháng giữa thu, tháng để các em thiếu niên, nhi đồng phá cỗ trông Trăng, mừng Tết Trung thu, rước đèn, múa lân dưới trăng thanh, gió mát…
Xem thêm
Cửa bể Cần Giờ | Bút ký của Nguyễn Minh Ngọc
Bài đăng Báo Văn Nghệ (Hội Nhà văn VN) số 35+36, ra ngày 2-9-2023
Xem thêm
Tản Mạn Vàm Cỏ Đông - Tùy bút Trần Thế Tuyển 
Có lẽ trên trái đất này, không ở đâu cái giá để có độc lập dân tộc, tự do hạnh phúc lại đắt như ở Việt Nam. Để có hình hài đất nước, vị thế quốc gia như ngày hôm nay đã có hàng triệu triệu người con ưu tú ngã xuống. Máu xương của họ tan biến thành đất đai tổ quốc và hồn của họ bay lên hóa linh khí quốc gia.
Xem thêm