TIN TỨC

“Minh Châu tỏa sáng” với nhiều góc nhìn

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-12-17 16:15:11
mail facebook google pos stwis
1234 lượt xem

LÊ THANH HUỆ

“Minh Châu tỏa sáng” – truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Trường, Báo Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam số 35+36 ra ngày 28/8/2021. Đây là truyện ngắn hấp dẫn về song mộ (2 mộ chôn cất một người); một sự kiện có thật: xử trảm Phó Tổng trấn thành Gia Định Huỳnh Công Lý.

Khai thác một số tình tiết trong lịch sử nhà Nguyễn, tác giả cho nhân vật dẫn chuyện (ông Đình – có năm mươi năm làm nghề khảo cổ, chuyên gia khai quật mộ cổ) gắn kết các nhân vật có tên trong sử và thêm những nhân vật hư cấu thời quá khứ, trong hiện tại làm nên chất keo hấp dẫn để lý giải việc Tổng trấn Lê Văn Duyệt dùng thượng phương bảo kiếm trảm Phó Tổng trấn thành Gia Định Huỳnh Công Lý; trở thành nghi án được nhiều sách, báo, tuồng tích dàn dựng theo nhiều cách hư cấu khác nhau để mong lý giải vụ án...

HIỆN THỰC HUYỀN ẢO

Ông Đình tham gia khảo cổ ngôi mộ cổ (xây dựng bằng hổn hợp ô đước chôn cất người qua đời thuộc gia đình quyền quý hoặc giàu có), tìm thấy hài cốt có đầu tách rời với thân xác. Bằng khoa học và lịch sử, xác định mộ của Phó Tổng trấn thành Gia Định Huỳnh Công Lý. Trong lúc uống rượu một mình, ông Đình say rượu và ảo ảnh ngài Huỳnh Công Lý hiện ra với thái độ thiếu tự tin, đòi ông Đình phải đến cù lao Ông Hổ, nơi có mộ ngài. Hoảng sợ, ông Đình ngã từ lan can tầng một xuống đường, gảy chân. 3 tháng trị bệnh, ông có đủ thời gian để tìm ra vị trí Cù lao Hổ và thân thế sự nghiệp Huỳnh Công Lý. Theo sử sách ghi lại: “giặc Sư Kế - kẻ lôi cuốn được hàng ngàn người Chân Lạp bởi mê tín kéo sang đánh phá trấn Phiên An. Tướng Đào Quang Lý mang năm ngàn quân đi đánh dẹp, mấy trận đều thua”. Huỳnh Công Lý mang quân dẹp được loạn. Ông có công “lĩnh 10 vạn dân binh đào An Thông hà và Bảo Định giang, mang lại nhiều lợi ích giao thông đường thủy cũng như tưới tiêu, giải lũ cho miền Tây Nam bộ”. Đặc biệt, Huỳnh Công Lý cũng là ông nhạc của vua Minh Mạng.

Ông Đình về cù lao ông Hổ, tìm được miễu thờ và mộ thứ hai của ngài, gặp ông Ba, cháu nội Huỳnh Công Lý và được kể lại câu chuyện linh thiêng về việc ngài mượn cháu gái từ Vũng Tàu về quê lần đầu bổng dưng lên đồng đòi xây lại miễu thờ to lớn, trang nghiêm xứng với công trạng của ngài. Dân thờ, dân lo, bà con góp tiền xây lại miễu như là hành động đánh giá đúng công trạng của người góp công khai khẩn và bảo vệ miền đất phía tây xứ Đồng Nai.

Do là người được ngài cử đến, ông được gia đình mời ở lại qua đêm và bức màn bí mật được tác giả vén ra cho độc giả.

NHỮNG GÓC NHÌN KHÁC

Góc nhìn từ phía gia đình

Đêm đó, Phó Tổng trấn Huỳnh Công Lý báo mộng với sự tự tin, ngợi khen ông Đình đã tuân lệnh của mình. Nhưng khi được hỏi về thực hư việc bị chém đầu, bà Ba (vợ hai của ngài) hiện ra làm chủ cuộc trò chuyện.

Nguyễn Trường vốn có tài khắc họa những người phụ nữ đẹp và tài hoa. Trong có 565 chữ, nhà văn đã làm rõ nét một người phụ nữ Nam bộ vẹn toàn từ nét đẹp mặn mà, đầy sức sống, và một lòng sắt son tin yêu chồng, tạo ra sự quyết đoán.

Thay Phó Tổng trấn Huỳnh Công Lý, bà Ba đấu tranh đòi công bằng cho chồng. Hóa ra đây là sự dàn dựng của bà bằng cách mượn oai danh chồng để triệu ông Đình về nơi chôn nhau cắt rốn nhằm cho ông Đình thấy một góc nhìn khác, góc nhìn của người dân được hưởng công lao của chồng mình. Đó là sự thật thứ nhất về công trạng và do đó bà suy diễn: người anh hùng có công lớn, sẽ không có lòng tư lợi, tham lam tiền của. Kết hợp với sự thật thứ hai: Tổng trấn Lê Văn Duyệt liên giới tính (bê đê). Để lập luận được vững chắc, bà Ba tưởng tượng ra chi tiết: một lần quá chén, Huỳnh tướng quân, sơ suất nói ra bí mật đó với thủ hạ. Từ đó bà suy diễn tiếp: khiến Lê Văn Duyệt nghi ngờ Huỳnh tướng công trêu ghẹo vợ ông ta và dẫn đến tư thù với chồng mình. Bà đưa ra kết luận:  Lê Văn Duyệt đã không tấu trình vua, dùng thượng phương bảo kiếm tiền trảm hậu tấu Huỳnh tướng công.

Nhưng do hai mệnh đề yếu, các mệnh đề bắc cầu cũng yếu, bà Ba đưa thêm yếu tố duy tình để tăng sức thuyết phục: không sợ bị trị tội, bà cho làm hình nhân chồng, lập mộ để thờ cúng trong khi thủ cấp chồng đang được mang ra Huế để tấu trình và chờ được Vua cho phép mới lại mang vào Gia Định chôn cất là quá lâu và không khả thi...

Ở trong một cù lao sông Hậu, xa chốn công đường, sự thật của bà Ba là một góc nhìn chấp nhận được và khiến ông Đình mũi lòng, muốn lật lại lịch sử để minh oan cho Phó Tổng trấn thành Gia Định Huỳnh Công Lý.

Góc nhìn hiện thực chủ quan

Ông Đình đến lăng Lê Văn Duyệt để mong tìm ra sự thật. Giấc mơ thứ ba để ông gặp lại Tả quân Lê Văn Duyệt, một người nhỏ bé và có giọng nói the thé. Do đó khi Tổng trấn Lê Văn Duyệt cho biết Huỳnh Công Lý tham nhũng đã có từ thời còn làm Tả thống chế quân thị trung ở Huế và thông tin bà Ba cung cấp về Tả quân Lê Văn Duyệt liên giới tính là đúng. Để khách quan, Tả quân Lê Văn Duyệt đưa ông Đình ra lại kinh thành gặp vua Minh Mạng trong buổi thiết triều.

Ở đây, tác giả khai thác tiếp sự thật Huỳnh Công Lý là cha vợ của vua Minh Mạng. Vua phải điều cha vợ vào thành Gia Định làm Phó tổng trấn là có ý giao cho Tả quân Lê Văn Duyệt, một công thần của triều đình đã từng xả thân vì vua cha, làm nên công trạng lớn hơn cha vợ, sẽ có đủ tài, có sức thuyết phục Huỳnh Công Lý tu tâm. Huỳnh Công Lý cậy có công và là ông nhạc của vua nên vẫn chứng nào tật đó, ăn của dân nhiều hơn. Một tướng dũng mãnh xả thân nơi chiến trường lại khó khăn trong việc xử lý “con ông cháu cha” là chuyện thường nên Tổng trấn Lê Văn Duyệt lại tấu trình tội trạng Huỳnh Công Lý về triều để vua xử cha vợ của mình.

Góc nhìn thứ ba: Xã hội phong kiến vốn duy tình đã được nhà văn đề cập: Người Việt sống duy tình, coi cha vợ như cha đẻ nên con rể xử cha bị cho là tội phạm; sẽ bị coi là mất nhân tâm. 

Triều Gia Long đã ban bố bộ luật Hồng Đức nhằm cai trị dân bằng phép nước, thay cho việc điều hành lúc chiến tranh: Quân pháp bất vị thân. Nhưng vấn đề xét xử và trừng trị tội phạm có chức quyền và quan hệ huyết thống với người cao nhất trong bộ máy nhà nước như Phó Tổng trấn Huỳnh Công Lý, muôn thủa bị bế tắc...

Để bảo vệ phép nước (pháp luật), nhà vua cử Thiêm sự Hình bộ Nguyễn Đình Thịnh vào Gia Định điều tra cẩn thận rồi xét xử là sự hỗ trợ của Triều đình cho Trấn Gia Định thực hiện việc chấp pháp một vụ án chưa có tiền lệ. Việc Tả quân Lê Văn Duyệt dùng thượng phương bảo kiếm để xử trảm Phó Tổng trấn Huỳnh Công Lý chỉ là thực hiện phép nước theo đúng quyền hạn và trách nhiệm của Tổng trấn, không để xảy ra việc đùn đẩy trách nhiệm lên nhà vua làm người đứng đầu bộ máy khó xử…

VỀ VIỆC KHAI THÁC TƯ LIỆU LỊCH SỬ

Các chi tiết trong truyện được khai thác từ sử sách. Vốn nhạy cảm, tác giả đã phát hiện và khai thác một cách sáng tạo các tình tiết ít được quan tâm như:

- Ngôi mộ thứ hai của Phó Tổng trấn Huỳnh Công Lý ở Cù Lao Hổ của sông Hậu, tỉnh An Giang;

- Dáng hình và giọng nói của Tả quân Lê Văn Duyệt;

- Sự kiện tham nhũng của Huỳnh Công Lý ở Huế;

- Mối quan hệ bà con với vua Minh Mạng (cha vợ);

Đã cho ra một truyện ngắn hấp dẫn.

TÍNH LÔ GIC

Từ lúc khai quật mộ, cho đến lúc ngài xuất hiện một cách thiếu tự tin dẫn đến việc truy tìm xác định song mộ, việc đón tiếp ông Đình ở Cù lao Ông Hổ, việc gặp lại gia đình ngài, việc mô tả dáng hình, giọng nói Huỳnh Công Lý, Tả quân Lê Văn Duyệt được tác giả tính toán và xây dựng chặt chẽ đến từng chi tiết nhỏ nhằm đảm bảo tính lô gic của góc nhìn thứ nhất.

Tiếp tục mạch lô gic là việc miêu tả ông Đình tiếp kiến Tả quân Lê Văn Duyệt với hình dáng giọng nói cho thấy Huỳnh Công Lý là người đem việc nước làm quà cho vợ kế ở thôn quê, chứng tỏ ông không trọng phép nước, ham vui, hám tửu sắc, là thuộc tính của những kẻ tham nhũng được nhà văn khéo léo đưa vào các lập luận minh oan của bà Ba nhằm cho thấy: vì thật thà, những lời kêu oan chính là lời buộc tội khi độc giả gấp truyện ngắn lại và liên tưởng hình ảnh Huỳnh Công Lý.

Việc đặt Huỳnh Công Lý vào quá khứ tham nhũng ở Huế là lý do đưa ông vào trấn Gia Định cũng được hư cấu theo nguyên tắc lô gic.

Nhờ tính lô gic của mạch truyện đã tạo ra sự hấp dẫn.

VỀ CHỦ ĐỀ

Chủ đề nổi của truyện: ca ngợi triều đình nhà Nguyễn từ thời Gia Long đến Minh Mạng đã chú trọng xây dựng và cai trị giang sơn bằng pháp luật qua cốt truyện chống tham nhũng trong tầng lớp “con ông cháu cha” và ở bậc cao nhất dùng hình phạt cao nhất: xử trảm cha vợ của vua đang chấp chính; lại do chính quyền địa phương thực hiện theo luật định.

Truyện còn đề cập vấn đề nhức nhối xã hội: tham nhũng xuất phát từ tầng lớp “Con ông cháu cha” bắt rễ sâu trong lịch sử dân tộc...

Tả quân Lê Văn Duyệt đã quyết đoán, làm trái mệnh lệnh rút quân của Nguyễn Ánh để tránh thất bại. Ông dẫn quân xốc tới, nhờ đó chuyển bại thành thắng trong trận Thị Nại, làm thay đổi cục diện chiến tranh để giành toàn thắng. Một võ quan dũng mãnh, quyết đoán trong chiến tranh lại lúng túng,  không làm tròn nhiệm vụ vua giao thuộc thẩm quyền của mình và đúng luật. Đó là sự kiện từ quá khứ giúp chúng ta khẳng định chân lý: giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó hơn nhiều.

Chủ đề ẩn truyện: Do lịch sử được đúc kết và viết theo nghị trình của từng nhân vật lịch sử, trong khi bản thân nhân vật lịch sử là con người nên không hoàn hảo. Từ đó tạo kẻ hở cho những một số ít người tận dụng để tìm cách xét lại lịch sử. Nhưng việc xét lại lịch sử dưới mọi động cơ, không sớm thì muộn, đều thất bại.

Chuyện đặt ra nhiều vấn đề chuyên môn bếp núc của nghề viết văn trong khai thác vốn lịch sử để tái khẳng định những nhân vật lịch sử ở tầm cao hơn và sống động, dễ đi vào lòng người.

Ghi chú: Những chữ viết xiên là trích nguyên văn từ ngữ của truyện ngắn.

Mời đọc truyện: Minh Châu tỏa sáng

Nguồn: Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số 31, tháng 12/2024.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm