TIN TỨC

Mỗi truyện như một giếng sâu...

Người đăng : vanchuong
Ngày đăng: 2021-10-23 08:30:28
mail facebook google pos stwis
1474 lượt xem

Đọc Khai khẩu, tập truyện ngắn của Nguyễn Trường, Nxb Thanh niên, 2019.           

BÙI VIỆT THẮNG                              

Khai Khẩu, tập truyện mới của Nguyễn Trường gồm 8 truyện. Trong số này có chùm ba truyện dự thi Cuộc thi truyện ngắn Báo Văn nghệ (2015-2017) đoạt Giải Nhất: Vương quốc mộng mơ, Mùa thanh long Quà tặng tương lai. Phụ bản số Tết Tân Sửu 2021 báo Văn nghệ chọn đăng truyện Quá khứ của hôm nay của Nguyễn Trường.

Có thể nói, Nguyễn Trường đang là cây bút văn xuôi có nội lực, giàu tiềm năng và có nhiều bạn đọc trên văn đàn hiện nay. Ai đó thì nói rõ hơn, sát hơn: Nguyễn Trường là người có duyên văn. Anh viết ít, nhưng “cái” nào cũng tạo sóng dư luận trên văn đàn. Ví như cái truyện Khai khẩu, in trên báo Văn nghệ, ngay lập tức sau đó có lời bình (in đầy 1 trang) của các đồng nghiệp văn chương Hoàng Quốc Hải (Nguyễn Trường với truyện ngắn Khai khẩu), Bùi Việt Thắng (Khai khẩu – khai tâm) và Lê Thanh Huệ (Một bút pháp mới lạ). Tám truyện trong tập Khai khẩu được Nguyễn Trường viết vào những thời điểm khác nhau. Như truyện Đêm chiến tranh viết cách nay vài chục năm, còn Khai khẩuQuá khứ của hôm nay thì còn nóng hổi trên mặt báo Văn nghệ thời gian gần đây (2018-2019). Như vậy có thể nói Khai khẩu là một “bộ sưu tập” (collection) những truyện ngắn hay của Nguyễn Trường sáng tác trong vệt thời gian hơn hai chục năm. Đây là tập truyện ngắn thứ hai của Nguyễn Trường, sau Thiên nhãn (1996, tái bản 2003). Nếu so sánh với Võ Thị Xuân Hà (người giữ kỷ lục, tính đến năm 2019 đã in 20 tập truyện ngắn) thì sẽ thấy Nguyễn Trường viết chậm, ít, có vẻ như khiêm tốn. Nhưng chậm mà chắc. Cũng giống thể thơ lục bát dễ làm nhưng khó hay. Ai cầm bút mới vào nghề viết văn cũng đều có thể tung hoành viết truyện ngắn. Nhưng viết cho được vài ba truyện tầm cỡ như Vương quốc mộng mơ, Khai khẩu, hay Quá khứ của hôm nay thì quả thật không dễ dàng gì, khác nào vượt vũ môn (!?).

Truyện của Nguyễn Trường, theo tôi, đứng được (hay nói như đại chúng là “bắt mắt”) vì có “cấu tứ” độc đáo. Trong nghề viết văn thì việc tìm “tứ” rất quan trọng, đặc biệt với người làm thơ. Sinh thời nhà thơ Xuân Diệu đã viết hẳn một tiểu luận Tìm tứ cho một bài thơ. Thi sĩ nhấn mạnh: “Lao động thơ, trước hết là kiếm tìm tứ (...). Ý là của chung mọi người, tứ mới là của riêng mỗi thi sĩ” (Xuân Diệu tác phẩm chọn lọc, NXB Giáo dục Việt Nam, 2009, tr.189-190).Tứ quan trọng không chỉ với thơ, quan trọng cả với truyện (ngắn, vừa, dài). Nhà văn Dạ Ngân có nói một ý hay: Truyện thiếu “tứ” như người đàn ông thắng một bộ complet rất “mode” nhưng chân lại... đi dép... không quai hậu. Nghĩa là nó cọc cạch, nó phản nhau, nó khập khiễng, nó không ra...thể loại gì (!?). Mỗi truyện trong Khai khẩu đều lấp lánh một “cấu tứ” vừa thâm hậu, vừa sát sườn đời sống, vừa có chiều sâu tư tưởng – nghệ thuật, và quan trọng là đọc xong tạo dư ba, liên tưởng, ám ảnh. Có thể còn nhiều ý kiến bình luận khác nhau, nhưng tựu trung bạn đọc đều “khoái trá” với cấu tứ của truyện Khai khẩu. Tất nhiên cấu tứ đó phải sống lại qua một câu chuyện cụ thể, sinh động, vừa có ý nghĩa triết lý, vừa có ý nghĩa nhân sinh. Ở đây là câu chuyện về nhân vật Nguyễn Thành Nam (tức ông Đạo Dừa). Nguyên văn câu ông Đạo Dừa nói với Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm: “Thua dân thì còn, thắng dân thì mất”.

Những truyện hay của Nguyễn Trường, theo tôi, trước hết nhờ ở những “cấu tứ” có hấp lực với bạn đọc. Vương quốc mộng mơ là một ví dụ. Vẫn là chuyện ông Đạo Dừa. Nhưng trong truyện này, “cấu tứ” lại gắn chặt với nhân vật đắc đạo, ảo tưởng có thể xây dựng mẫu hình một vương quốc theo ý muốn, giải quyết mọi xung đột bằng lý thuyết “bất chiến tự nhiên thành” (bất bạo động). Tất nhiên, ông Đạo Dừa chỉ là một cá thể (con người này), nhưng tâm lý của ông là tâm lý điển hình cho số đông - ảo tưởng, thiếu thực tiễn, duy ý chí (tất cả những khiếm khuyết này một thời gian dài như là căn tính thời nay của người Việt).

Trong cuộc Hội thảo Đổi mới tư duy tiểu thuyết do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức (năm 2002), nhà văn Ma Văn Kháng trong tham luận của mình có nói đến tình trạng “không tải” (thiếu tính/tầm tư tưởng) của văn chương nói chung, tiểu thuyết nói riêng. Trong cuộc Hội thảo Đổi mới tư duy tiểu thuyết, cũng do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức gần đây (2-2018) tình trạng/yếu kém kể trên vẫn được nhắc lại, thu hút sự quan tâm của văn giới. Ở đây, theo chúng tôi, tùy thuộc vào “căn cốt văn hóa” của cả nền văn chương cũng như từng nhà văn cụ thể. Mỗi năm chúng ta xuất bản hàng nghìn tác phẩm (đủ các thể loại) nhưng còn đọng lại, chịu được sự thử thách của thời gian và sự phán quyết, lựa chọn của bạn đọc là rất ít. Không ít tác phẩm vừa chào đời đã rơi ngay vào im lặng, vào sự quên lãng đáng sợ của người đọc. Nói như thi sĩ Xuân Diệu: “Thời gian vặt lông tất cả!”. Lựa trong số các cây bút văn xuôi hiện nay còn có nhiều người đọc, còn giữ được sức bền của ngòi bút, theo cảm nhận của riêng tôi – Lê Minh Khuê và Nguyễn Trường là hai tên tuổi nổi trội thuộc đội hình U60, U70.

Trở lại câu chuyện vì sao Nguyễn Trường giữ chân được bạn đọc, như đã nói, anh cố gắng phấn đầu viết ra mỗi tác phẩm (ngoài sự kể chuyện hay), còn phải gửi đến bạn đọc một thông điệp nghệ thuật nào đó khả dĩ lay chuyển những thành trì bảo thủ, những định kiến nhất thành bất biến về xã hội, con người, nhân tình thế thái.Quá khứ của hôm nay là một truyện, đọc xong, khó thoát ra khỏi nó (cái cấu tứ “Lòng yêu nước không của riêng ai”). Có nhiều cách ứng xử với quá khứ. Một cách như là “ăn mày dĩ vãng” (dựa theo cái gọi là “ăn mày cửa Phật”) – tìm thấy trong quá khứ những bài học hữu ích, hữu dụng cho hôm nay. Đó là ký ức lương thiện. Một con người, một thế hệ, một dân tộc nếu chà đạp/ xóa bỏ ký ức lương thiện là mấp mé bờ hủy diệt. Suốt một thời gian dài chúng ta ứng xử cực đoan, bất công với quá khứ (coi quá khứ như một thứ  “bóng đè”). Sau khi đọc xong truyện Giếng sâu, tôi nhắn tin ngay cho tác giả “một truyện ám ảnh, gây đau!”, cũng bởi cái tứ “Mặt nước lặng sóng chưa chắc không có sóng ngầm dưới đáy”. Hóa ra tất cả chúng ta đều có cái nguy cơ mắc vào những “bi kịch chất đống” do hoàn cảnh tạo ra, trong đó đôi khi con người chỉ như là tù binh của hoàn cảnh.Cái chết của Liên trong truyện như một lời cảnh tỉnh không phải về sự sa ngã của con người (ở đây là Quảng, anh chồng Liên, quan hệ với em dâu), mà là những tấm lưới vô tình giăng mắc trong đời không phải lúc nào cũng dễ tránh. Nhiều trường hợp ranh giới giữa hạnh phúc và bất hạnh chỉ là một...sợi tóc.Nhưng cũng có trường hợp như Mùa thanh long, “cấu tứ” được tác giả giấu kín/ kỹ, người đọc phải chịu khó truy tầm, mãi rồi chính tôi mới nhận ra sự thâm trầm của tác giả khi anh “buông/cài” vào truyện một tiếng thở dài về cái tình cảnh, nỗi khổ tâm “đi làm mướn cho người khác” mà chính chúng ta đôi khi vô tình (hay cố tình) không nhận ra, không thoát ra được(!?).

Truyện của Nguyễn Trường trong Khai khẩu thể hiện độ chín của ngòi bút. Riêng về truyện ngắn, tôi có thể tin tưởng để nói, Nguyễn Trường viết truyện ngắn có nghề. Nhưng phải nói ngay rằng trước khi bàn chuyện “nghề” thì phải nói đến nhân tố hàng đầu quyết định thành bại của sự viết – đó là vốn sống, vốn văn hóa của nhà văn. Ở đây nhân tố thứ hai cực kỳ quan trọng. Có điều kiện tiếp xúc với nhiều nhà văn thuộc nhiều thế hệ, tôi nhận ra ngay “sở trường” của những ai có căn cốt văn hóa và “sở đoản” của những ai cạn nguồn vốn này trong thực hành viết. Truyện ngắn Nguyễn Trường có biệt sắc gì? Một số bạn đọc đã hỏi tôi (kiểu như phỏng vấn) sau khi nhà văn chiếm giải khôi nguyên Cuộc thi truyện ngắn 2015-2017 của tuần báo Văn nghệ. Không khó để nói truyện ngắn Nguyễn Trường có mầm mống tiểu thuyết (hay là những “mảnh vỡ” của tiểu thuyết). Trong cách hình dung/định nghĩa truyện ngắn lâu nay người ta nghiêng về cái gọi là “mô – măng” (Khoảnh khắc, chốc lát) như là một đặc trưng quan trọng của thể loại (có người thích nói là “thi pháp”). Nhà văn Nguyễn Thành Long cho rằng nghệ thuật truyện ngắn là cách đưa con người/ nhân vật vào tình huống (mô - măng). Ông đã tường trình quan niệm này bằng một bài viết thú vị, xét về nghề viết truyện ngắn – Trường hợp viết Lặng lẽ Sa Pa.Tôi thấy, Nguyễn Trường khi viết truyện ngắn đi ra ngoài “phên giậu” của quy tắc này. Anh không dừng lại, xoáy sâu vào các “mô- măng”. Trái lại, anh chú ý đến chu trình/ quá trình của câu chuyện, xâu chuỗi các biến cố/ sự kiện, kiến thiết cốt truyện để làm nổi bật một cuộc đời/ kiếp người trong tính nhân - quả của nó. Vương quốc mộng mơ, Quà tặng tương lai, Giếng sâu, Quá khứ của hôm nay, Người  Hoa, Khai khẩu, là những truyện ngắn trĩu nặng một số phận, kiếp người. Từ những “cái” ngắn này có thể nhân/ nâng lên thành những tiểu thuyết ngắn chừng vài trăm trang, rất hợp thời với cơ chế và thị hiếu đọc hôm nay.

Truyện ngắn Nguyễn Trường có hấp lực, theo tôi, còn nhờ vào những tình huống truyện điển hình (đôi lúc nghẹt thở). Đêm chiến tranh là một ví dụ điển hình. Nó là một câu chuyện, một trường hợp, một “ca” tâm lý xảy ra trong chiến tranh giữa một anh lính Giải phóng (Bằng) và một “người tù binh” (sỹ quan cấp chỉ huy) của quân đội Việt Nam Cộng hòa. Đi trong đêm mưa, lại rơi vào bãi mìn do du kích cài, tình thế thật như cưỡi trên lưng cọp. Không may cho tù binh bị vướng mìn, bị thương nhẹ ở chân. Và chính Bằng cũng bị thương vào vai phải. Trên cánh đồng đêm đầy chết chóc chỉ có hai người. Bằng quyết định cởi trói cho tù binh và nhờ anh ta băng bó cho mình. Tình huống khiến hai người vốn ở hai chiến tuyến nay “Gã nghĩ đúng. Gã cần có Bằng cũng như bây giờ Bằng cần có gã. Hai người không giúp nhau lúc này thì cả hai cùng chết”. Trong chiến tranh những tình huống như thế không hiếm. Nhưng khi đi vào văn chương thì cái nhìn và cách viết của nhà văn mới thực sự quan trọng – nhà văn viết dưới ánh sáng nào? Cuối cùng thì cả hai người lính (dù ở phía nào) thì cũng đều là con người. Tôi thích cái kết của truyện bằng một đối thoại, có thể ai đó không để ý: “Anh nở một nụ cười nói với gã sỹ quan:

-Trời sáng rồi à?

- Dạ, sáng rồi!”

“Sáng rồi”, nghĩa trực tiếp nói về thời gian (trời sáng, đêm qua). Nhưng còn nghĩa bóng (ngộ ra, nhận ra) một điều gì lớn lao qua cái đêm khủng khiếp của chiến tranh – con người cần hòa bình như cần khí trời, nước uống.

Truyện ngắn Nguyễn Trường hấp dẫn bạn đọc còn nhờ được viết bằng một bút pháp biến ảo: phối kết hợp thực và ảo/ “thần thực” như cách nói của nhà văn Trung Quốc đương đại Diêm Liên Khoa (Vương quốc mộng mơ, Khai khẩu, Quá khứ của hôm nay), hiện thực nghiêm ngặt (Mùa thanh long, Quà tặng tương lai, Giếng sâu, Đêm chiến tranh), trữ tình (Quà tặng tương lai), biếm họa (Người Hoa). Ai đó nói chí lý, khi chú ý đến thay đổi bút pháp tức nhà văn đã quan tâm đến bạn đọc với tư cáchngười đồng sáng tạo theo lý thuyết tiếp nhận nghệ thuật. Tôi tin Nguyễn Trường còn đi xa hơn nữa, còn cống hiến cho bạn đọc nhiều hơn nữa những tác phẩm giàu sức hấp dẫn.

Hà Nội, tháng 9-2019

BVT.

Nguồn: Thời báo Văn học Nghệ thuật số 27, ngày 08/7/2021.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Hát câu đồng dao - thơ thiếu nhi cho mùa trăng
Hát câu đồng dao là tập thơ mới nhất và cũng là tập thơ thiếu nhi đầu tiên của nhà thơ Trần Thanh Bình (Hội viên Hội nhà văn TP.HCM). Sau sự dịu dàng, nhẹ nhàng là sự sâu lắng, là những thông điệp cuộc sống nhiều ý nghĩa với không chỉ riêng trẻ em. Và, đây là món quà nhỏ nhiều ý nghĩa nhà thơ dành cho thiếu nhi và độc giả yêu thơ thiếu nhi nhân mùa trăng về.
Xem thêm
Thăm thẳm nỗi niềm trong ‘Ngõ gió’ của Lưu Hồng Vân
Thâm trầm và lặng lẽ, Lưu Hồng Vân miệt mài với những con chữ đượm tình, sau một Rượu xưa đầy khắc khoải; Tập tàng vời vợi nhớ thương thì lại đến một Ngõ gió hoang hoải những chiêm nghiệm về tình yêu và cuộc đời.
Xem thêm
Vì tinh tú trong MẮT ẤM của Bùi Phan Thảo
Cảm nhận của Lệ Hồng về bài thơ “Mắt ấm” đăng Tạp Chí Sông Lam, số 36 (tháng 8/2023
Xem thêm
Nhà thơ Ngọc Khương vẫn giữ được một tâm hồn thơ trong trẻo
Nhà thơ Ngọc Khương sinh năm 1949 tại Quảng Bình. Mảnh đất Quảng Bình đã góp cho nền văn chương Việt Nam hiện đại nhiều tên tuổi như Lưu Trọng Lư, Xuân Hoàng, Lâm Thị Mỹ Dạ, Lê Xuân Đố, Hải Kỳ, Ngô Minh, Hoàng Vũ Thuật, Trần Quang Đạo…
Xem thêm
Hoàng Lan - Truyện ngắn Trần Thế Tuyển
Không nói chuyện không thể biết chị là người Việt. Mỗi sáng, tôi mở cửa mang rác ra vệ đường, nơi có thùng rác công cộng đều gặp chị. Là hàng xóm, nhà chị sát vách nhà con gái chúng tôi, nên tôi thấy chị cũng thường xuyên đổ rác.
Xem thêm
Mặn nồng một chút tình thơ với nhà giáo Phạm Như Vân
Rời chiến trường / Thầy về hậu phương/ với những vết thương đau nhức trên mình/ và một bên chân đứt lìa gửi lại/
Xem thêm
Trắng tay mình những cánh ngọc lan tang
Bài đăng Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh
Xem thêm
Nguyễn Tấn On với tập Tiết tấu thơ
Nhận được tập sách Tiết tấu thơ của Nguyễn Tấn On gửi tặng vào một chiều cuối thu đã muộn, tôi vội mở ra và tìm đọc ngay bài thơ cùng tên. Tên tập thơ và những câu thơ trong bài thơ cùng tên với thi tập Tiết tấu thơ đã tạo cho tôi ấn tượng. Ở đó, hiển hiện tâm thế, tấm lòng, sự chân thành của một người yêu thơ và sống trọn vẹn cho thơ.
Xem thêm
Những vần thơ nẩy mầm đơm hoa theo dấu chân nhà thơ khoát áo lính
     Tôi cầm trong tay tập thơ “Quang Chuyền thơ và đời” điện thoại hỏi anh: “Đây có phải là tuyển tập thơ không anh”? Anh cười: “Cũng là gom các bài thơ viết cả đời lại thành một tập, vì mình nay cũng đã tới ngưỡng tuổi 80 rồi”. Cắm cúi đọc hết tập thơ,tôi mới hiểu ra đây gần như là tập nhật ký bằng thơ của nhà thơ Quang Chuyền.
Xem thêm
Trình Quang Phú - tầm nhìn trong kí sự
Nguồn: Tạp chí Văn nghệ quân đội
Xem thêm
Êm ả một nỗi buồn của Lê Hoàng Anh
Rút từ tập thơ “Hạt Thời Gian” của Lê Hoàng Anh
Xem thêm
Cảm nhận về tập phê bình văn học “Đi tìm hương sắc văn chương” của Nguyễn Thanh
“Hương là mùi thơm, sắc là vẻ đẹp”. “Đi tìm hương sắc văn chương” * chính là thấu cảm sự thanh cao (hương) và trác tuyệt (sắc) của văn chương. Điều gì làm cho đời người thêm phong phú, điều ấy chính là cái Đẹp. Nước ta tự hào là “Văn hiến chi bang” với một nền văn học thơm hương đậm sắc. Cái hương sắc ấy trường tồn trong nhiều thư tịch, gởi tấm lòng người viết để lại muôn đời. Nếu người xưa quan niệm trong sách có người ngọc (Thư trung hữu nữ nhan như ngọc), thì ngày nay Nguyễn Thanh lại tìm thấy “hương sắc” trong văn chương ! Gẫm lại, người đẹp cũng chính là hương sắc (Quốc sắc thiên hương).
Xem thêm
Lưu Quang Vũ- Để gió và tình yêu thổi mãi
Lưu Quang Vũ (1948-1988) là một nghệ sĩ tài năng trên nhiều lĩnh vực: thơ, văn, kịch, họa... ông được đánh giá là nhà viết kịch xuất sắc nhất của nền kịch Việt Nam hiên đại, bên cạnh đó ở lĩnh vực thơ ông cũng có những đóng góp giá trị.
Xem thêm
Hoàng Phủ Ngọc Tường – Người hái nỗi buồn trong cõi phù vân
Không phải ngẫu nhiên trong Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, tập 4 – Thơ (Nxb. Trẻ ấn hành, 2002), trong lời mở đầu ông đã xác quyết: “Mỗi người chỉ thực là chính mình trong căn nhà của nó. Thơ cũng vậy. Thơ cần phải trở về căn – nhà - ở - đời của nó là nỗi buồn. Một quyền của thi sĩ là quyền được buồn”. (1)
Xem thêm
Lưu Quang Vũ từng say đắm 3 Nàng Thơ
Công chúng ngưỡng mộ nhà viết kịch Lưu Quang Vũ (1948-1988) không chỉ bởi những vở diễn “Tôi và chúng ta”, “Hồn Trương Ba da hàng thịt”, “Tin ở hoa hồng”, “Lời thề thứ 9”, “Hoa cúc xanh trên đầm lầy”, “Lời nói dối cuối cùng”... có sức rung động mạnh mẽ, mà còn bởi trái tim đa cảm mà ông thổ lộ trong thơ “đã có lần tôi muốn nguôi yên/ khép cánh cửa lòng mình cho gió lặng/ nhưng vô ích làm sao quên được/ những yêu thương khao khát của đời tôi”.
Xem thêm
Quang Chuyền: Sáng một tấm lòng lành
Với nhà thơ Quang Chuyền, đã có rất nhiều báo, đài dựng chân dung, phỏng vấn, viết về ông và thơ của ông. Những trình bày của tôi hôm nay, chỉ là góp thêm một góc nhìn về một đời người, một đời thơ khá đồ sộ, một sự nghiệp thơ vững vàng, đáng ngưỡng mộ.
Xem thêm