TIN TỨC
  • Truyện
  • Não lòng mạy cưởm | Truyện ngắn dự thi của Nguyễn Xuân Mẫn

Não lòng mạy cưởm | Truyện ngắn dự thi của Nguyễn Xuân Mẫn

Người đăng : vctphcm
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
804 lượt xem

CUỘC THI TRUYỆN NGẮN HAY 2022

        Nằm bên bờ suối Nậm Thàng, bản Mạy Cưởm ngày đêm nghe suối rì rào bản nhạc nước. Trước kia nghèo khó nên không ai được đi học chữ, nhưng người già vẫn truyền lại cho con cháu rằng: Ngày xưa cách đây chín mười đời, sau khi ăn Tết rằm tháng 7, có 3 người đàn ông họ Hoàng, họ Lù và họ Nông đi tìm nơi khai phá ruộng nước.

Khi đến bờ suối Nậm Thàng này đã trưa, 3 người ngồi nghỉ dưới gốc cây cổ thụ đón làn gió mát từ suối đưa lên. Sau khi xuống suối tắm mát, lại lên gốc cây mở cơm nắm ra ăn. Ngay bên kia bờ suối là khu rừng bằng phẳng toàn lau sậy, mọc dưới bóng những cây nhội tía, vông nước, nhìn qua các ngài đều biết sẽ là nơi khai phá được nhiều ruộng, chỉ cần đắp một con đập nhỏ trên đầu suối là tha hồ có nước tưới ruộng, không sợ khô hạn như ở quê cũ. Đang vui vẻ chuyền tay nhau nắm cơm nếp dẻo thì giật mình bị vật gì như hòn sỏi nhỏ rơi xuống lưng. Mọi người ngẩng lên nhìn thì ra trên đầu là tán cây trám trắng (tiếng Tày gọi là mạy cưởm) quả sai trĩu. Họ bèn dựng lán ngay gốc cây trám để ngày ngày sang bên kia bờ suối vừa khai phá ruộng lại đỡ phải đi kiếm thức ăn. Vụ lúa đầu tiên đã trả công cho 3 chàng trai những dậu thóc hạt căng mẩy để bản Mạy Cưởm của người Tày ra đời từ đấy.

Đến nay không ai biết cây trám bao nhiêu tuổi nhưng năm sáu người dang tay ôm không hết. Cây trám trắng và dòng Nặm Thàng gắn bó với bao đời người Tày bản Mạy Cưởm. Đi làm đồng về, lội qua suối Nặm Thàng, người người lên ngồi nghỉ dưới gốc cây trám trắng trò chuyện dăm ba câu việc ruộng, chuyện nhà và cả việc chồng con, rồi khi làn gió mát thay quạt xua tan mỏi mệt mới ai về nhà nấy. Đêm đêm, trai gái rủ nhau ra gốc trám, xuống mấy tảng đá bên bờ suối tâm tình. Hầu như ngự trị nhiều nhất ngoài gốc trám và dòng suối chính là lũ trẻ. Buổi sáng, lũ trẻ đi học để túi sách dưới gốc cây trám rủ nhau xuống suối rửa mặt mũi chân tay sạch sẽ để đến lớp được cô giáo khen. Gốc trám trắng là sân chơi mắc kẹ, đánh chuyền, nhảy cò của con gái, là sân bóng, bãi đánh khăng, bãi chọi con quay của lũ con trai. Trừ những ngày đông giá lạnh, khi chán các trò chơi, lũ trẻ lại cởi phăng quần áo nhờ những rễ cây trám nổi như bàn tay người lớn giữ hộ rồi con gái cũng như con trai tồng ngồng ào xuống suối, mặc cho phò me gọi khô cổ bỏng họng không thiết về ăn cơm.

Lìn và Sín cũng sinh ra trong bản cây trám trắng ấy. Ngày ngày đợi nhau đi lấy củi, đợi nhau đi thả trâu, khi về cũng cùng chúng bạn ra gốc trám, xuống bến suối. Ngày ấy vùng cao còn thiếu nhiều thầy giáo nên khi đi học vỡ lòng hai đứa đã lên 10. Đi học đợi nhau dưới gốc trám, Sín thường bảo Lìn: “Mỏ A pa tít ở gần làng mình, Lìn học giỏi đi, sau này làm thợ lái ô tô mỏ, thỉnh thoảng đưa xe về ngõ nhà mình bấm còi pim pim gọi cho mình ngồi xe một tý!”. Lìn tủm tỉm: “Nhà… mình, sao không phải nhà người ta!”. Nhưng Sín cũng phải học giỏi sau này làm cô giáo về dạy ngay trường xã mình, tha hồ sờ tí me!”. Cả hai đứa cùng cười như nắc nẻ…

Không phải cứ mơ là được, cứ ước là khắc có. Giặc Mỹ ném bom ra miền Bắc khi Lìn và Sín sắp vào học lớp 7. Trong bản đã có mấy thanh niên tòng quân, người đi chiến trường miền Nam, người ngồi trên mâm pháo bảo vệ cầu Làng Giàng bắc qua sông Hồng vào đất mỏ. Mấy lần Lìn viết đơn tình nguyện đi bộ đội nhưng khi thì xã đội trưởng bảo chưa đủ tuổi, lúc lại trả lời con liệt sĩ hy sinh trong trận Điện Biên Phủ, lại là con độc nhất không phải đi bộ đội. Năm 1967, khi giặc Mỹ đánh phá ác liệt khắp miền Bắc và trong chiến trường miền Nam, đế quốc Mỹ và ngụy quân đàn áp dã man đồng bào ta, Lìn lấy máu viết đơn lần nữa và quả nhiên những dòng chữ viết bằng mực chảy từ con tim được chấp nhận, không như mấy lá đơn viết bằng mực Cửu Long. 

… Xế trưa, Sín vừa ở ngoài ruộng về đến gốc trám trắng định xuống suối rửa chân tay thì nghe tiếng Lìn vội vã phía sau: “Sín à! Anh có giấy gọi đi bộ đội rồi! Nhưng gấp quá, 7 giờ sáng mai phải có mặt ngoài huyện đội!”. Tối hôm ấy, mọi người đến chật nhà chia tay, khi mọi người ra về, hai đứa ra gốc trám già rồi dắt nhau xuống tảng đá phẳng bên bờ suối. Từ ngày hai đứa yêu nhau, hai gia đình đã bàn chờ cuối năm gặt lúa mùa xong sẽ làm đám cưới. Nhìn trời đêm đầy sao, Sín bỗng thấy một ngôi sao vọt sáng bay về phương Nam rồi cũng nhanh chóng vụt tắt. Sín rùng mình nghĩ chiến trường bom rơi đạn nổ ác liệt… Không cầm nổi lòng mình, ôm chặt lấy Lìn, cô nấc lên… tự nguyện dâng hiến phần trinh trắng cho người ngày mai đi xa… Sáng hôm sau chia tay nhau dưới gốc trám, Lìn thủ thỉ: “Sín đợi nhé, chắc chỉ một hai năm hết giặc anh về!”.

        Máy bay Mỹ ném bom cầu đường miền Bắc rất ác liệt. Đường sắt Hà Nội - Lào Cai cũng ngày đêm bị đánh phá. Vừa vào đơn vị, Lìn viết thư gửi ngay về nhưng phải 3 tháng sau ở nhà mới nhận được. Theo số hòm thư của Lìn, Sín viết bốn năm lá thư đi nhưng đều không thấy thư Lìn gửi về. Từ hôm Lìn đi, hầu như ngày nào Sín cũng sang nhà thăm hỏi hay đỡ đần mẹ anh. Một buổi chiều đi làm đồng về, tạt qua xem me Lìn nấu cơm nước gì chưa rồi Sín định về ngay vì tối nay phải họp đội sản xuất. Nhìn cổ cô con dâu chưa cưới nổi gân xanh, ôm choàng lấy cô, mẹ Lìn dân dấn nước mắt: “Sáng sớm hôm đi, thằng Lìn đã nói hết với me rồi! Chưa được cưới nhưng mấy hôm nữa me sẽ sang nhà xin ông bà cho con về đây ở!”.

        Thằng cu Hòa sinh ra trong niềm vui xen lẫn nỗi buồn của hai bên nội ngoại. Bà nội nó lúc nào cũng không rời cháu. Đi thả trâu, lên nương đào sắn cũng đưa theo. Lúc nhỏ thì địu, khi lớn thì bà đi trước, cháu theo sau. Cả bản ai cũng bảo: Gia Lìn góa chồng từ trẻ nên trời bù cho đứa cháu nội giống gương mặt, điệu cười và cả tính háu đói như bố nó. Một buổi chiều tà, hai bà cháu gọi gà về cho ăn, đếm thấy thiếu con gà mái, chạy ra sau nhà, rẽ đám cỏ um tùm không may nắm tay phải đuôi con rắn hổ mang bành, nó ngoái đầu lại đớp vào cổ chân bà. Dù lấy lá thuốc nam đắp ngay nhưng vì nọc con rắn quá độc nên chỉ nửa tiếng sau bà tắt thở trên đường cáng ra bệnh viện.

Tin vui chiến thắng giải phóng Sài Gòn, giải phóng miền Nam làm nức lòng nhân dân cả nước. Người bản Mạy Cưởm hân hoan treo cờ đỏ sao vàng lên tận ngọn cây trám trắng để từ xa ai cũng nhìn thấy lá cờ Tổ quốc phần phật tung bay mừng hòa bình thống nhất non sông. Những lá thư từ miền Nam tới tấp bay về Mạy Cưởm, địa chỉ nhận chỉ có một người nhưng mỗi lá thư là niềm vui chung của cả bản. Ngồi dưới gốc trám trắng, người ta truyền tay nhau đọc đi đọc lại những lá thư đi xa cả nghìn cây số. Người đọc cũng như người nghe đều cười rưng rưng lệ: Chắc chỉ mươi lăm hôm sẽ được về nhà... Nghe và xem thư của những người trong bản nhưng Sín mong mãi vẫn không thấy ông thông tin xã đến ngõ nhà mình. Đêm nghe tiếng con vạc ăn đêm bay lưng trời hòa vào tiếng suối rì rào, Sín càng nôn nao không ngủ nổi, ôm chặt thằng Hòa vào lòng. Nghe tiếng ngáy đều đều của con, Sín mường tượng thấy Lìn đeo ba lô bước vào sân, nó nhảy ào từ trên sàn nhà xuống ôm chầm lấy bố. Gần sáng Sín mệt mỏi thiếp đi, chập chờn mơ thấy Lìn về ngồi dưới gốc cây trám già vừa chia quà cho trẻ con vừa ríu rít chuyện trò với người lớn. Lúc lại mơ thấy Lìn về đến ngõ nhưng không vào nhà, mà cứ đứng gọi: “Me ơi!”. Sín giật mình tỉnh dậy nhận ra thằng Hòa đang lay chân mình, miệng cười: Me ơi! Con ăn cơm rồi, xin mẹ con đi học!

Không chỉ thư ở miền Nam gửi về mà những người con của Mạy Cưởm cũng lần lượt khoác ba lô về với bản Tày mang tên cây trám trắng. Ai cũng hỏi có gặp người Mạy Cưởm mình không? Người lính lắc đầu mỉm cười: “Chiến trường rộng lớn rải khắp miền Nam, sang cả Lào và Campuchia, chẳng gặp được nhau đâu!”. Người đưa lá thư của chồng con mình ra hỏi có biết hòm thư này không? Người từ chiến trường về trả lời không biết hòm thư này, còn hai chữ JB và hai số 05 là địa chỉ của chiến trường miền Nam. Nhìn Sín ngân ngấn nước mắt, mọi người động viên: “Đợi mấy ngày nữa thế nào cũng có thư của bố thằng Hòa!”. 

Cùng với niềm vui, những câu chuyện chiến thắng, người lính còn mang theo những chuyện gian khổ, ác liệt và sự hy sinh mất mát của đồng đội, đồng bào miền Nam. Dù chỉ được nghe qua người khác kể lại những điều ấy nhưng Sín cứ mong chồng mình không bị cụt chân như anh Phù khi đánh trận Xuân Lộc khi tiến vào giải phóng Sài Gòn. Sín càng mong bố thằng Hòa không như anh Đao người bản Mai cùng 5 chiến sĩ, trước khi vào trận đánh tổng kho Long Bình, đơn vị làm lễ truy điệu sống vì biết họ mãi mãi ra đi để làm nên chiến thắng huy hoàng.

Cùng với niềm vui, bản Mạy Cưởm bốn lần đau buồn làm lễ truy điệu 4 liệt sĩ của bản đã anh dũng hy sinh. Sín cứ nhoi nhói mong mẹ con mình không phải chịu nỗi bi hùng như mè Sài, chị Kẻn…

Mấy lần Sín lên huyện đội rồi lên cả tỉnh đội hỏi tin chồng, các cán bộ chỉ lắc đầu: Chúng tôi chưa biết tin tức gì, thôi chị về nhà đợi xem sao. Ba tiếng đợi xem sao ấy như một điệp khúc bao lần tiễn chân Sín ra khỏi các cơ quan quân sự, rồi theo tiếng xích xe đạp khô dầu mở hành khúc cọt kẹt trên đường về tận nhà khi trời nhá nhem tối.

Ba tiếng ĐỢI XEM SAO theo Sín suốt ngày đêm từ tháng trước sang tháng sau, từ mùa đông nọ tới những mùa đông kia. Con trai của Sín đã là kỹ sư mỏ A pa tit, lấy vợ cũng là kỹ sư cùng làm ở mỏ, rồi sinh cho mè Sín một thằng con trai và đứa con gái, giúp mè khuây khỏa nỗi lòng. Nhiều lần Hòa nghỉ phép vào miền Nam đi khắp các huyện đội, tỉnh đội, các phòng, sở lao động thương binh - xã hội và đến từng nghĩa trang nhưng không thấy nơi nào có tên bố. Mà lạ thế, anh cũng như mẹ, đến đâu cũng nhận được lời khuyên về nhà đợi xem sao…

Thao thức đợi suốt 8 năm chờ ngày hòa bình thống nhất. Vò võ đợi chờ 45  năm sau ngày giải phóng miền Nam, nhiều đêm không ngủ, sợ động giấc của con nên Sín ra ngoài gốc trám ngồi nhìn những vì sao lấp lánh trên nền trời, rồi dõi nhìn theo con đường chìm khuất trong đêm. Sín ngồi dưới gốc trám từ lúc ánh mắt đen long lanh như hạt thừng mực, qua bao mùa đông lại sang hè. Những giọt sương đêm trên cây trám thánh thót nhả giọt buồn thấm ướt bờ vai người phụ nữ. Mỗi mùa ra quả, cây trám già cũng não lòng buông những tiếng rơi lộp bộp vào tận tâm can của Sín. Những đường nhăn chờ đợi dày thêm, khỏa lấp gương mặt trái xoan ngày son trẻ của cô gái xinh nhất vùng Mường Na. Mòn mỏi đợi chờ và lo toan cho con khôn lớn trưởng thành từ thưở tóc Sín còn xanh, đến khi loáng thoáng hoa râm rồi đầu trắng xóa.

Đằng đẵng đợi chờ và công việc vất vả đã âm thầm hợp sức dắt căn bệnh ung thư len vào phổi mè Sín từ lúc nào không rõ. Khi mè đã bước sang tuổi 73, nó mới trỗi dậy hành hạ khốc liệt. Mấy tháng liền Hòa đưa mẹ đi tận các bệnh viện Trung ương, các giáo sư bác sĩ tận tình điều trị rất nhiều loại thuốc tốt cũng không chữa nổi số mệnh của người đàn bà đợi chồng chưa cưới suốt bao năm. Vợ chồng Hòa đành đón mẹ về nhà phụng dưỡng. Nhìn mẹ mỗi lần lên cơn đau vật vã, vợ chồng Hòa lòng đau như thắt.

Hôm đó chừng 10 giờ trưa, sau khi thăm khám kỹ cho mè Sín, bác sĩ San, bạn thân của Hòa kéo anh ra sân nói nhỏ: “Đôi tai cụ đang cụp xuống rồi, chỉ mươi tiếng đồng hồ nữa là cụ đi!”. Cùng lúc ấy một chiếc xe con màu trắng mang biển số 51 đỗ dưới gốc trám, người Mạy Cưởm đoán là bạn đồng nghiệp của vợ chồng Hòa, người tưởng Hòa mời thầy thuốc tận thành phố Hồ Chí Minh ra chữa cho mẹ. Khi người lái xe già tóc bạc trắng, nói giọng miền Nam hỏi thăm nhà liệt sĩ Hoàng A Lìn, mọi người đứng quanh xe đều bàng hoàng...

Ngồi bên giường bệnh mè Sín, ông Ba Huề người miền Nam đỗ xe ngoài gốc trám nghẹn ngào kể:

… Em về làm đại đội phó của đại đội trưởng Hoàng A Lìn mới được 7 ngày, anh em chưa hiểu nhiều về nhau thì ngày 28/4/1975, đại đội em nhận nhiệm vụ đánh cửa mở cho tiểu đoàn tiêu diệt căn cứ Đồng Dù án ngữ tây bắc Sài Gòn. Cấp trên yêu cầu đại đội em chỉ 2 tiếng đồng hồ phải hoàn thành nhiệm vụ phá tan hàng rào. Mười quả mìn định hướng nặng 20 cân lần lượt quét nhưng vẫn còn hai hàng rào lò so dày nằm sát nhau. Anh Lìn lệnh cho tiểu đội cảm tử cầm bộc phá ống lao lên. Năm chiến sỹ lên đến giữa chừng đều lần lượt ngã xuống vì hai khẩu đại liên của địch từ hai lô cốt bắn ra đan chéo cánh sẻ. Em bảo: “Anh để em lên!”. Anh quát: “Lệnh cho đồng chí lui lại chỉ huy bộ đội!”. Nói rồi anh bò đi dưới làn đạn địch. Kinh nghiệm chiến trường đã chỉ cho anh biết khi hết đạn, địch phải mất thời gian thay băng mới, phải nhanh chóng chớp thời cơ ấy mới giành chiến thắng. Quả nhiên khi một trong hai khẩu đại liên ngừng bắn thì anh nhanh chóng cầm hai ống bộc phá vọt lên. Tiếng nổ vừa xé tung hai hàng rào cuối cùng, một quả đạn cối từ trong căn cứ địch bắn ra, nổ ngay trước mặt anh. Em lệnh cho các chiến sỹ đại đội cùng đơn vị bạn xông vào căn cứ địch, khi qua chỗ anh nằm, thấy người anh đầm đìa máu, em cho hai chiến sĩ đưa anh về tuyến sau. Nhờ ống bộc phá của anh mà đơn vị hoàn thành mở cửa trước thời gian được giao, cả căn cứ Đồng Dù tan hoang, bọn giặc lũ lượt giơ tay hàng. Là người Sài Gòn nên em tiếp tục được giao nhiệm vụ chỉ huy đại đội dẫn đường đưa trung  đoàn vượt sông Sài Gòn vào nội thành. Sau ngày Sài Gòn giải phóng, em cùng các chiến sĩ trong đại đội tìm khắp các nghĩa trang quanh Đồng Dù nhưng không thấy mộ anh và các chiến sĩ cùng đại đội. Em cũng chẳng biết quê quán anh ở đâu vì sống với nhau mới được mấy ngày, lại phải chiến đấu dồn dập. Bốn năm sau, em được lệnh cùng đơn vị sang Campuchia giúp bạn diệt bọn Pôn Pốt, xong quay về nước đi học, tiếp tục ở bộ đội cho đến ngày nghỉ hưu. Ở nội thành có nhà lầu đàng hoàng nhưng ồn ào ngột ngạt em không chịu nổi, vợ chồng con cái bàn nhau mua đất ngoại thành gần căn cứ Đồng Dù cũ, làm nhà ở và làm trang trại tăng gia. Hai tháng trước, thằng Hai nhà em thuê máy xúc về làm ao. Chẳng hiểu linh tính thế nào mà nó không dùng máy nữa, lại thuê thợ đào thủ công, còn bắt người ta phải đào xúc thật cẩn trọng. Buổi chiều ngày đầu tiên, thợ đào chạm ngay một ngôi mộ rồi tiếp đó là 5 ngôi nữa, đều là liệt sỹ quân giải phóng. Người còn xương cốt nguyên vẹn, người chỉ còn đôi dép cao su. Đến ngôi mộ chỉ có chiếc lược làm bằng đuya-ra từ mảnh máy bay Mỹ khắc chữ L-S và cái lọ pênixilin được nút chặt, bọc kỹ năm sáu lượt ni-lon, thằng Hai mở ra xem rồi đưa cho em. Tuy mực đã mờ nhưng vẫn còn đọc được, em run bắn người khi nhìn rõ họ tên anh, cả tên đơn vị chúng em, quê quán và ngày giờ hy sinh.

Ông Ba Huề ngừng kể, bằng chút hơi tàn, cầm chiếc lược đuya-ra ấp trên ngực, mè Sín nấc lên: “Em đợi suốt bao nhiêu năm! Sao giờ anh mới về! Bây giờ anh phải đón em cùng đi quê xa phụng dưỡng phò me!”.           

N.X.M

Bài viết liên quan

Xem thêm
Bến nguyện – Truyện ngắn của Ninh Giang Thu Cúc
Bước chậm chậm, Dã Quỳ để mặc cho làn mưa bụi hắt vào mặt những sợi nước li ti mát lạnh, gió xuân mơn man vuốt nhẹ từng lọn tóc thả hững hờ trên đôi vai tròn trịa, chiếc áo dài bằng lụa màu tím than ôm sít sao dáng vóc gợi cảm của người thiếu phụ.
Xem thêm
Quy cố hương - truyện ngắn Châu Đăng Khoa
Để anh nhớ xem. Mẹ vẫn gọi là loài trên cạn em à. Tín hiệu mẹ cài trong đầu mình đó, em tìm lại xem. Gọi gì cũng được, mình cứ gọi theo tổ tiên thôi.
Xem thêm
Người của buôn làng - truyện ngắn của Phạm Minh Mẫn
Rút từ tập truyện ngắn GIẢI NOBEL THỨ BẢY của tác giả.
Xem thêm
Cô bé có đôi bàn tay kỳ diệu
Nguồn: Mẹ - tập truyện ngắn của Lê Thanh Huệ, Nhà xuất bản Công an nhân dân, in năm 1997; trang 221.
Xem thêm
“Ông Ba Hay” – Truyện ngắn của Phan Đức Nam
“ÔngBa Hay” – Truyện ngắn của Phan Đức Nam
Xem thêm
Những trang sách cũ
Mẹ tôi kể là trong ngày sinh nhật đầu tiên, gia đình đã bày trước mắt tôi một cây bút, một quyển sách, một tờ giấy bạc, một chiếc hàn thử biểu và một cái muổng gỗ dùng để nấu ăn. Chọn thứ nào sẽ là dự báo tương lai cho cuộc đời tôi.
Xem thêm
Làng Nủ thân thương
Tác giả Bỉ Hao tên thật là Nguyễn Phúc Bảo Huy sinh năm 2007 (17 tuổi), tại Đăk Lăk. Hiện đang là học sinh Trường Trung học phổ thông Krông Bông. Em viết truyện ngắn, bút ký, tản văn và cả sáng tác thơ. Có thể nói các tác phẩm của em đang được ví như một viên ngọc nhỏ thô sơ còn cần thời gian gọt dũa, mài sáng, nhưng tôi tin rằng, trong thời gian tới, khi ở tuổi trưởng thành, em sẽ tiến bộ nhiều hơn nữa. Văn chương TP.HCM trân trọng giới thiệu tản văn Làng Nủ thân của Bỉ Hao đến với bạn đọc.
Xem thêm
Bạn cấp ba – Truyện ngắn của Nguyễn Văn Phúc
Phòng đã tắt hết đèn, ánh sáng từ điện thoại chiếu vào mặt tôi, hắt sáng tạo thành cái bóng hình đầu người in trên tường. Đây! “Carl Jung” của tôi đây rồi, tôi cười như một thằng dở người giữa buổi tối tĩnh mịch, hiu hiu gió và tiếng ve hở chút lại réo lên.
Xem thêm
Những ngày nông nỗi - Truyện ngắn Thúy Dung
Con tàu to lớn cập bến Sầm Sơn, (nay là cảng cá Lạch Hới, phường Quảng Tiến, thành phố Sầm Sơn tỉnh Thanh Hóa), bước chân lên đất liền, Hiệp quá mệt mõi vì hành trình hơn một tuần lễ trên biển. Mặc dù chiếc tàu của Ba Lan rất to lớn nhưng lần đầu tiên ra biển quả là chới với, chưa hết hồi hộp. Cái cảnh tàu chồng chành, khi nó nghiêng bên phải, cả bạn con gái lăn qua, khi nghiêng bên trái, bọn con trai bị lăn lại thì say sóng là điều không tránh khỏi. Thậm chí, có vài em nhỏ sức yếu, không sống nổi khi lên được bờ.
Xem thêm
Đường vòng - Truyện ngắn
Nguồn: Để sống bình yên – tác giả Lê Thanh Huệ, Nhà xuất bản Phụ nữ
Xem thêm
Nơi Bão Đi Qua - VOV
Truyện Bích Ngân
Xem thêm
Miền gió - Truyện ngắn của Viên Kiều Nga
Từ trong góc khuất, một tên khủng bố nhắm bắn Ngạn vì cho rằng cô là “con mồi” đơn độc, yếu ớt nhất và không có khả năng phản kháng. Hắn giương họng súng hướng về phía cô và bắt đầu lên đạn. Dường như có một dự cảm không lành, Hoàng đột nhiên lao tới. Anh đứng chắn ở phía trước và ôm chầm lấy Ngạn. Bất chợt có tiếng súng nổ ở cự ly rất gần. Mọi thứ diễn ra chỉ trong vài tích tắc.
Xem thêm
Con trâu - Truyện ngắn của Lê Thanh Huệ
Con trâu đủng đỉnh bước. Bình minh Đồng Tháp Mười mát lạnh. Hương tràm, hương thảo mộc hòa với gió quyện hơi nước sông Vàm Cỏ Tây mát lạnh. Con Khỏe vơ vội mấy nhánh cỏ ven đường đẫm sương đêm.
Xem thêm
Lứa đôi - Truyện ngắn Lê Thanh Huệ
Truyện ngắn của Lê Thanh Huệ
Xem thêm
“Bến nước” cơ quan | Truyện ngắn Lại Văn Long
Tôi đang đứng trước gương trong nhà tắm rộng rãi, ốp đá Italia cầu kỳ với la bô, bồn cầu, bồn tắm nhập từ Nhật Bản có bộ điều khiển điện tử và máy nghe nhạc cực chuẩn, để tự vấn.
Xem thêm