TIN TỨC
  • Truyện
  • Não lòng mạy cưởm | Truyện ngắn dự thi của Nguyễn Xuân Mẫn

Não lòng mạy cưởm | Truyện ngắn dự thi của Nguyễn Xuân Mẫn

Người đăng : vctphcm
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
251 lượt xem

CUỘC THI TRUYỆN NGẮN HAY 2022

        Nằm bên bờ suối Nậm Thàng, bản Mạy Cưởm ngày đêm nghe suối rì rào bản nhạc nước. Trước kia nghèo khó nên không ai được đi học chữ, nhưng người già vẫn truyền lại cho con cháu rằng: Ngày xưa cách đây chín mười đời, sau khi ăn Tết rằm tháng 7, có 3 người đàn ông họ Hoàng, họ Lù và họ Nông đi tìm nơi khai phá ruộng nước.

Khi đến bờ suối Nậm Thàng này đã trưa, 3 người ngồi nghỉ dưới gốc cây cổ thụ đón làn gió mát từ suối đưa lên. Sau khi xuống suối tắm mát, lại lên gốc cây mở cơm nắm ra ăn. Ngay bên kia bờ suối là khu rừng bằng phẳng toàn lau sậy, mọc dưới bóng những cây nhội tía, vông nước, nhìn qua các ngài đều biết sẽ là nơi khai phá được nhiều ruộng, chỉ cần đắp một con đập nhỏ trên đầu suối là tha hồ có nước tưới ruộng, không sợ khô hạn như ở quê cũ. Đang vui vẻ chuyền tay nhau nắm cơm nếp dẻo thì giật mình bị vật gì như hòn sỏi nhỏ rơi xuống lưng. Mọi người ngẩng lên nhìn thì ra trên đầu là tán cây trám trắng (tiếng Tày gọi là mạy cưởm) quả sai trĩu. Họ bèn dựng lán ngay gốc cây trám để ngày ngày sang bên kia bờ suối vừa khai phá ruộng lại đỡ phải đi kiếm thức ăn. Vụ lúa đầu tiên đã trả công cho 3 chàng trai những dậu thóc hạt căng mẩy để bản Mạy Cưởm của người Tày ra đời từ đấy.

Đến nay không ai biết cây trám bao nhiêu tuổi nhưng năm sáu người dang tay ôm không hết. Cây trám trắng và dòng Nặm Thàng gắn bó với bao đời người Tày bản Mạy Cưởm. Đi làm đồng về, lội qua suối Nặm Thàng, người người lên ngồi nghỉ dưới gốc cây trám trắng trò chuyện dăm ba câu việc ruộng, chuyện nhà và cả việc chồng con, rồi khi làn gió mát thay quạt xua tan mỏi mệt mới ai về nhà nấy. Đêm đêm, trai gái rủ nhau ra gốc trám, xuống mấy tảng đá bên bờ suối tâm tình. Hầu như ngự trị nhiều nhất ngoài gốc trám và dòng suối chính là lũ trẻ. Buổi sáng, lũ trẻ đi học để túi sách dưới gốc cây trám rủ nhau xuống suối rửa mặt mũi chân tay sạch sẽ để đến lớp được cô giáo khen. Gốc trám trắng là sân chơi mắc kẹ, đánh chuyền, nhảy cò của con gái, là sân bóng, bãi đánh khăng, bãi chọi con quay của lũ con trai. Trừ những ngày đông giá lạnh, khi chán các trò chơi, lũ trẻ lại cởi phăng quần áo nhờ những rễ cây trám nổi như bàn tay người lớn giữ hộ rồi con gái cũng như con trai tồng ngồng ào xuống suối, mặc cho phò me gọi khô cổ bỏng họng không thiết về ăn cơm.

Lìn và Sín cũng sinh ra trong bản cây trám trắng ấy. Ngày ngày đợi nhau đi lấy củi, đợi nhau đi thả trâu, khi về cũng cùng chúng bạn ra gốc trám, xuống bến suối. Ngày ấy vùng cao còn thiếu nhiều thầy giáo nên khi đi học vỡ lòng hai đứa đã lên 10. Đi học đợi nhau dưới gốc trám, Sín thường bảo Lìn: “Mỏ A pa tít ở gần làng mình, Lìn học giỏi đi, sau này làm thợ lái ô tô mỏ, thỉnh thoảng đưa xe về ngõ nhà mình bấm còi pim pim gọi cho mình ngồi xe một tý!”. Lìn tủm tỉm: “Nhà… mình, sao không phải nhà người ta!”. Nhưng Sín cũng phải học giỏi sau này làm cô giáo về dạy ngay trường xã mình, tha hồ sờ tí me!”. Cả hai đứa cùng cười như nắc nẻ…

Không phải cứ mơ là được, cứ ước là khắc có. Giặc Mỹ ném bom ra miền Bắc khi Lìn và Sín sắp vào học lớp 7. Trong bản đã có mấy thanh niên tòng quân, người đi chiến trường miền Nam, người ngồi trên mâm pháo bảo vệ cầu Làng Giàng bắc qua sông Hồng vào đất mỏ. Mấy lần Lìn viết đơn tình nguyện đi bộ đội nhưng khi thì xã đội trưởng bảo chưa đủ tuổi, lúc lại trả lời con liệt sĩ hy sinh trong trận Điện Biên Phủ, lại là con độc nhất không phải đi bộ đội. Năm 1967, khi giặc Mỹ đánh phá ác liệt khắp miền Bắc và trong chiến trường miền Nam, đế quốc Mỹ và ngụy quân đàn áp dã man đồng bào ta, Lìn lấy máu viết đơn lần nữa và quả nhiên những dòng chữ viết bằng mực chảy từ con tim được chấp nhận, không như mấy lá đơn viết bằng mực Cửu Long. 

… Xế trưa, Sín vừa ở ngoài ruộng về đến gốc trám trắng định xuống suối rửa chân tay thì nghe tiếng Lìn vội vã phía sau: “Sín à! Anh có giấy gọi đi bộ đội rồi! Nhưng gấp quá, 7 giờ sáng mai phải có mặt ngoài huyện đội!”. Tối hôm ấy, mọi người đến chật nhà chia tay, khi mọi người ra về, hai đứa ra gốc trám già rồi dắt nhau xuống tảng đá phẳng bên bờ suối. Từ ngày hai đứa yêu nhau, hai gia đình đã bàn chờ cuối năm gặt lúa mùa xong sẽ làm đám cưới. Nhìn trời đêm đầy sao, Sín bỗng thấy một ngôi sao vọt sáng bay về phương Nam rồi cũng nhanh chóng vụt tắt. Sín rùng mình nghĩ chiến trường bom rơi đạn nổ ác liệt… Không cầm nổi lòng mình, ôm chặt lấy Lìn, cô nấc lên… tự nguyện dâng hiến phần trinh trắng cho người ngày mai đi xa… Sáng hôm sau chia tay nhau dưới gốc trám, Lìn thủ thỉ: “Sín đợi nhé, chắc chỉ một hai năm hết giặc anh về!”.

        Máy bay Mỹ ném bom cầu đường miền Bắc rất ác liệt. Đường sắt Hà Nội - Lào Cai cũng ngày đêm bị đánh phá. Vừa vào đơn vị, Lìn viết thư gửi ngay về nhưng phải 3 tháng sau ở nhà mới nhận được. Theo số hòm thư của Lìn, Sín viết bốn năm lá thư đi nhưng đều không thấy thư Lìn gửi về. Từ hôm Lìn đi, hầu như ngày nào Sín cũng sang nhà thăm hỏi hay đỡ đần mẹ anh. Một buổi chiều đi làm đồng về, tạt qua xem me Lìn nấu cơm nước gì chưa rồi Sín định về ngay vì tối nay phải họp đội sản xuất. Nhìn cổ cô con dâu chưa cưới nổi gân xanh, ôm choàng lấy cô, mẹ Lìn dân dấn nước mắt: “Sáng sớm hôm đi, thằng Lìn đã nói hết với me rồi! Chưa được cưới nhưng mấy hôm nữa me sẽ sang nhà xin ông bà cho con về đây ở!”.

        Thằng cu Hòa sinh ra trong niềm vui xen lẫn nỗi buồn của hai bên nội ngoại. Bà nội nó lúc nào cũng không rời cháu. Đi thả trâu, lên nương đào sắn cũng đưa theo. Lúc nhỏ thì địu, khi lớn thì bà đi trước, cháu theo sau. Cả bản ai cũng bảo: Gia Lìn góa chồng từ trẻ nên trời bù cho đứa cháu nội giống gương mặt, điệu cười và cả tính háu đói như bố nó. Một buổi chiều tà, hai bà cháu gọi gà về cho ăn, đếm thấy thiếu con gà mái, chạy ra sau nhà, rẽ đám cỏ um tùm không may nắm tay phải đuôi con rắn hổ mang bành, nó ngoái đầu lại đớp vào cổ chân bà. Dù lấy lá thuốc nam đắp ngay nhưng vì nọc con rắn quá độc nên chỉ nửa tiếng sau bà tắt thở trên đường cáng ra bệnh viện.

Tin vui chiến thắng giải phóng Sài Gòn, giải phóng miền Nam làm nức lòng nhân dân cả nước. Người bản Mạy Cưởm hân hoan treo cờ đỏ sao vàng lên tận ngọn cây trám trắng để từ xa ai cũng nhìn thấy lá cờ Tổ quốc phần phật tung bay mừng hòa bình thống nhất non sông. Những lá thư từ miền Nam tới tấp bay về Mạy Cưởm, địa chỉ nhận chỉ có một người nhưng mỗi lá thư là niềm vui chung của cả bản. Ngồi dưới gốc trám trắng, người ta truyền tay nhau đọc đi đọc lại những lá thư đi xa cả nghìn cây số. Người đọc cũng như người nghe đều cười rưng rưng lệ: Chắc chỉ mươi lăm hôm sẽ được về nhà... Nghe và xem thư của những người trong bản nhưng Sín mong mãi vẫn không thấy ông thông tin xã đến ngõ nhà mình. Đêm nghe tiếng con vạc ăn đêm bay lưng trời hòa vào tiếng suối rì rào, Sín càng nôn nao không ngủ nổi, ôm chặt thằng Hòa vào lòng. Nghe tiếng ngáy đều đều của con, Sín mường tượng thấy Lìn đeo ba lô bước vào sân, nó nhảy ào từ trên sàn nhà xuống ôm chầm lấy bố. Gần sáng Sín mệt mỏi thiếp đi, chập chờn mơ thấy Lìn về ngồi dưới gốc cây trám già vừa chia quà cho trẻ con vừa ríu rít chuyện trò với người lớn. Lúc lại mơ thấy Lìn về đến ngõ nhưng không vào nhà, mà cứ đứng gọi: “Me ơi!”. Sín giật mình tỉnh dậy nhận ra thằng Hòa đang lay chân mình, miệng cười: Me ơi! Con ăn cơm rồi, xin mẹ con đi học!

Không chỉ thư ở miền Nam gửi về mà những người con của Mạy Cưởm cũng lần lượt khoác ba lô về với bản Tày mang tên cây trám trắng. Ai cũng hỏi có gặp người Mạy Cưởm mình không? Người lính lắc đầu mỉm cười: “Chiến trường rộng lớn rải khắp miền Nam, sang cả Lào và Campuchia, chẳng gặp được nhau đâu!”. Người đưa lá thư của chồng con mình ra hỏi có biết hòm thư này không? Người từ chiến trường về trả lời không biết hòm thư này, còn hai chữ JB và hai số 05 là địa chỉ của chiến trường miền Nam. Nhìn Sín ngân ngấn nước mắt, mọi người động viên: “Đợi mấy ngày nữa thế nào cũng có thư của bố thằng Hòa!”. 

Cùng với niềm vui, những câu chuyện chiến thắng, người lính còn mang theo những chuyện gian khổ, ác liệt và sự hy sinh mất mát của đồng đội, đồng bào miền Nam. Dù chỉ được nghe qua người khác kể lại những điều ấy nhưng Sín cứ mong chồng mình không bị cụt chân như anh Phù khi đánh trận Xuân Lộc khi tiến vào giải phóng Sài Gòn. Sín càng mong bố thằng Hòa không như anh Đao người bản Mai cùng 5 chiến sĩ, trước khi vào trận đánh tổng kho Long Bình, đơn vị làm lễ truy điệu sống vì biết họ mãi mãi ra đi để làm nên chiến thắng huy hoàng.

Cùng với niềm vui, bản Mạy Cưởm bốn lần đau buồn làm lễ truy điệu 4 liệt sĩ của bản đã anh dũng hy sinh. Sín cứ nhoi nhói mong mẹ con mình không phải chịu nỗi bi hùng như mè Sài, chị Kẻn…

Mấy lần Sín lên huyện đội rồi lên cả tỉnh đội hỏi tin chồng, các cán bộ chỉ lắc đầu: Chúng tôi chưa biết tin tức gì, thôi chị về nhà đợi xem sao. Ba tiếng đợi xem sao ấy như một điệp khúc bao lần tiễn chân Sín ra khỏi các cơ quan quân sự, rồi theo tiếng xích xe đạp khô dầu mở hành khúc cọt kẹt trên đường về tận nhà khi trời nhá nhem tối.

Ba tiếng ĐỢI XEM SAO theo Sín suốt ngày đêm từ tháng trước sang tháng sau, từ mùa đông nọ tới những mùa đông kia. Con trai của Sín đã là kỹ sư mỏ A pa tit, lấy vợ cũng là kỹ sư cùng làm ở mỏ, rồi sinh cho mè Sín một thằng con trai và đứa con gái, giúp mè khuây khỏa nỗi lòng. Nhiều lần Hòa nghỉ phép vào miền Nam đi khắp các huyện đội, tỉnh đội, các phòng, sở lao động thương binh - xã hội và đến từng nghĩa trang nhưng không thấy nơi nào có tên bố. Mà lạ thế, anh cũng như mẹ, đến đâu cũng nhận được lời khuyên về nhà đợi xem sao…

Thao thức đợi suốt 8 năm chờ ngày hòa bình thống nhất. Vò võ đợi chờ 45  năm sau ngày giải phóng miền Nam, nhiều đêm không ngủ, sợ động giấc của con nên Sín ra ngoài gốc trám ngồi nhìn những vì sao lấp lánh trên nền trời, rồi dõi nhìn theo con đường chìm khuất trong đêm. Sín ngồi dưới gốc trám từ lúc ánh mắt đen long lanh như hạt thừng mực, qua bao mùa đông lại sang hè. Những giọt sương đêm trên cây trám thánh thót nhả giọt buồn thấm ướt bờ vai người phụ nữ. Mỗi mùa ra quả, cây trám già cũng não lòng buông những tiếng rơi lộp bộp vào tận tâm can của Sín. Những đường nhăn chờ đợi dày thêm, khỏa lấp gương mặt trái xoan ngày son trẻ của cô gái xinh nhất vùng Mường Na. Mòn mỏi đợi chờ và lo toan cho con khôn lớn trưởng thành từ thưở tóc Sín còn xanh, đến khi loáng thoáng hoa râm rồi đầu trắng xóa.

Đằng đẵng đợi chờ và công việc vất vả đã âm thầm hợp sức dắt căn bệnh ung thư len vào phổi mè Sín từ lúc nào không rõ. Khi mè đã bước sang tuổi 73, nó mới trỗi dậy hành hạ khốc liệt. Mấy tháng liền Hòa đưa mẹ đi tận các bệnh viện Trung ương, các giáo sư bác sĩ tận tình điều trị rất nhiều loại thuốc tốt cũng không chữa nổi số mệnh của người đàn bà đợi chồng chưa cưới suốt bao năm. Vợ chồng Hòa đành đón mẹ về nhà phụng dưỡng. Nhìn mẹ mỗi lần lên cơn đau vật vã, vợ chồng Hòa lòng đau như thắt.

Hôm đó chừng 10 giờ trưa, sau khi thăm khám kỹ cho mè Sín, bác sĩ San, bạn thân của Hòa kéo anh ra sân nói nhỏ: “Đôi tai cụ đang cụp xuống rồi, chỉ mươi tiếng đồng hồ nữa là cụ đi!”. Cùng lúc ấy một chiếc xe con màu trắng mang biển số 51 đỗ dưới gốc trám, người Mạy Cưởm đoán là bạn đồng nghiệp của vợ chồng Hòa, người tưởng Hòa mời thầy thuốc tận thành phố Hồ Chí Minh ra chữa cho mẹ. Khi người lái xe già tóc bạc trắng, nói giọng miền Nam hỏi thăm nhà liệt sĩ Hoàng A Lìn, mọi người đứng quanh xe đều bàng hoàng...

Ngồi bên giường bệnh mè Sín, ông Ba Huề người miền Nam đỗ xe ngoài gốc trám nghẹn ngào kể:

… Em về làm đại đội phó của đại đội trưởng Hoàng A Lìn mới được 7 ngày, anh em chưa hiểu nhiều về nhau thì ngày 28/4/1975, đại đội em nhận nhiệm vụ đánh cửa mở cho tiểu đoàn tiêu diệt căn cứ Đồng Dù án ngữ tây bắc Sài Gòn. Cấp trên yêu cầu đại đội em chỉ 2 tiếng đồng hồ phải hoàn thành nhiệm vụ phá tan hàng rào. Mười quả mìn định hướng nặng 20 cân lần lượt quét nhưng vẫn còn hai hàng rào lò so dày nằm sát nhau. Anh Lìn lệnh cho tiểu đội cảm tử cầm bộc phá ống lao lên. Năm chiến sỹ lên đến giữa chừng đều lần lượt ngã xuống vì hai khẩu đại liên của địch từ hai lô cốt bắn ra đan chéo cánh sẻ. Em bảo: “Anh để em lên!”. Anh quát: “Lệnh cho đồng chí lui lại chỉ huy bộ đội!”. Nói rồi anh bò đi dưới làn đạn địch. Kinh nghiệm chiến trường đã chỉ cho anh biết khi hết đạn, địch phải mất thời gian thay băng mới, phải nhanh chóng chớp thời cơ ấy mới giành chiến thắng. Quả nhiên khi một trong hai khẩu đại liên ngừng bắn thì anh nhanh chóng cầm hai ống bộc phá vọt lên. Tiếng nổ vừa xé tung hai hàng rào cuối cùng, một quả đạn cối từ trong căn cứ địch bắn ra, nổ ngay trước mặt anh. Em lệnh cho các chiến sỹ đại đội cùng đơn vị bạn xông vào căn cứ địch, khi qua chỗ anh nằm, thấy người anh đầm đìa máu, em cho hai chiến sĩ đưa anh về tuyến sau. Nhờ ống bộc phá của anh mà đơn vị hoàn thành mở cửa trước thời gian được giao, cả căn cứ Đồng Dù tan hoang, bọn giặc lũ lượt giơ tay hàng. Là người Sài Gòn nên em tiếp tục được giao nhiệm vụ chỉ huy đại đội dẫn đường đưa trung  đoàn vượt sông Sài Gòn vào nội thành. Sau ngày Sài Gòn giải phóng, em cùng các chiến sĩ trong đại đội tìm khắp các nghĩa trang quanh Đồng Dù nhưng không thấy mộ anh và các chiến sĩ cùng đại đội. Em cũng chẳng biết quê quán anh ở đâu vì sống với nhau mới được mấy ngày, lại phải chiến đấu dồn dập. Bốn năm sau, em được lệnh cùng đơn vị sang Campuchia giúp bạn diệt bọn Pôn Pốt, xong quay về nước đi học, tiếp tục ở bộ đội cho đến ngày nghỉ hưu. Ở nội thành có nhà lầu đàng hoàng nhưng ồn ào ngột ngạt em không chịu nổi, vợ chồng con cái bàn nhau mua đất ngoại thành gần căn cứ Đồng Dù cũ, làm nhà ở và làm trang trại tăng gia. Hai tháng trước, thằng Hai nhà em thuê máy xúc về làm ao. Chẳng hiểu linh tính thế nào mà nó không dùng máy nữa, lại thuê thợ đào thủ công, còn bắt người ta phải đào xúc thật cẩn trọng. Buổi chiều ngày đầu tiên, thợ đào chạm ngay một ngôi mộ rồi tiếp đó là 5 ngôi nữa, đều là liệt sỹ quân giải phóng. Người còn xương cốt nguyên vẹn, người chỉ còn đôi dép cao su. Đến ngôi mộ chỉ có chiếc lược làm bằng đuya-ra từ mảnh máy bay Mỹ khắc chữ L-S và cái lọ pênixilin được nút chặt, bọc kỹ năm sáu lượt ni-lon, thằng Hai mở ra xem rồi đưa cho em. Tuy mực đã mờ nhưng vẫn còn đọc được, em run bắn người khi nhìn rõ họ tên anh, cả tên đơn vị chúng em, quê quán và ngày giờ hy sinh.

Ông Ba Huề ngừng kể, bằng chút hơi tàn, cầm chiếc lược đuya-ra ấp trên ngực, mè Sín nấc lên: “Em đợi suốt bao nhiêu năm! Sao giờ anh mới về! Bây giờ anh phải đón em cùng đi quê xa phụng dưỡng phò me!”.           

N.X.M

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thằng Bờm có cái nhà cao… – Truyện ngắn Chinh Văn
 Gọi lão bằng thằng, cả làng này ai mà dám thế? Chỉ trừ duy nhất một người: Ông già vợ lão: Ông Tám Trọng, ngoài ra gặp lão ai cũng chào “ông năm”, “chú năm” dù đằng sau tiếng chào không có vẻ gì kính cẩn.
Xem thêm
Hoàng Phủ Ngọc Tường: Chú dế rong chơi
Sau khi rời xa cõi tạm để lại rất nhiều tiếc nuối cho người yêu thích văn chương, mới đây NXB Trẻ đã cho ra mắt 3 tập sách gồm những bút ký, nhàn đàm, thơ ca đặc sắc của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường như một cơ hội để nhớ đến ông.
Xem thêm
Ngủ giữa trùng sơn – Truyện ngắn của Lê Vũ Trường Giang
Tôi đã bị mê hoặc ngay phút đầu khi thấy lăng Gia Long. Những câu chuyện bí ẩn liên quan đến nơi an táng thật sự của nhà vua, những bí mật trong chốn cung đình đã hấp dẫn, thôi thúc tôi ngồi vào bàn và viết trong gần một tháng trời. Khi ngừng bút, tôi chợt có ước ao được một đêm ngắm trăng thưởng rượu cùng bạn hiền trên Thiên Thọ, bên cung khuyết, bên lăng tẩm im lìm giữa trập trùng núi non, mênh mang sông nước.
Xem thêm
Nhẫn – Truyện ngắn của Lệ Hằng
Tiệc cưới sẽ bắt đầu vào lúc sáu giờ.Tôi còn hơn một tiếng rưỡi đồng hồ để tháo chiếc nhẫn này ra. Nó đã thít lại vào ngón tay tôi lúc nào mà tôi chẳng hay, cho đến khi tôi thấy mình cần tháo nó. Tôi ước gì, ước gì, ước gì… mình đã thấy cần tháo nó ra sớm hơn chứ không phải lúc này. Thời gian thì vẫn cứ đang trôi đi trong khi tôi ngồi đây tháo nhẫn. Tôi xoay, và đẩy, và níu, và giật, ngón tay đã đỏ rưng rức nhưng tôi vẫn mắc kẹt trong chiếc nhẫn của mình. Vô dụng. Không thể kéo nó ra được. Càng kéo ra càng thít vào thì phải. Chết tiệt, nó ôm lấy ngón tay tôi như một lời nguyền.
Xem thêm
Viên đạn ngọt – Truyện ngắn của Trần Quỳnh Nga
Tùy lặng yên. Trước mắt anh cảnh và người tưởng chừng như thân quen giờ đều trở nên xa lạ. Anh vẫn thường gặp trong giấc mơ của anh dòng sông Gấm trong đêm mùa đông sâu hun hút. Đồng đội anh phải níu vào chiếc dây thừng dài nối hai bên bờ để bơi qua sông trong cái rét tê người, càng không thể quên được khe Ve khi cả tiểu đội chỉ còn lại hai đứa cùng nhau chụm đầu ăn bữa cháo cuối cùng cạnh con khe nồng nặc mùi thuốc hóa học.
Xem thêm
Bí mật của H’Loan – Truyện ngắn của Hồng Chiến
Giờ kiểm tra toán, học trò lặng im chăm chú vào bài vở của mình. Cô giáo H’Xíu ngồi quan sát học sinh làm bài lòng vui vui. Cuối tháng tư rồi, chẳng còn mấy tuần nữa năm học sẽ kết thúc, lớp 3A của cô được nghỉ hè trước khi bước vào năm học mới và chắc chắn có thêm tấm giấy khen treo lên tường lớp học ghi nhận công lao của cô và trò sau một năm phấn đấu. Những gương mặt thơ ngây, thông minh và dễ thương ngày hai buổi đến trường đã trở thành niềm vui, niềm tự hào của chính cô – người mẹ thứ hai của các em.
Xem thêm
Chảy đi sông ơi – Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
Tất cả những quang cảnh ấy và cảm giác ấy đều thật tuyệt vời. Tuyệt vời hơn nữa còn là truyền thuyết huyễn hoặc về con trâu đen ở khúc sông này. Những người đánh cá ban đêm quả quyết đã nhìn thấy nó. Nó thường xuất hiện vào lúc nửa đêm. Nó ở dưới đáy lòng sông lao lên mặt nước. Toàn thân bóng nhẫy, đôi sừng cao vút, mõm thở phì phì, con trâu phi trên mặt nước như phi trên cạn. Con trâu phì bọt, nước dãi của nó tựa như trứng cá. Nếu ai may mắn hớp được bọt ấy sẽ có sức lực phi thường, bơi lặn dưới nước giỏi như tôm cá.
Xem thêm
Con mèo của Foujta – Truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng
Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà danh họa Foujita, người con của đất nước Phù Tang, những nhà chơi tranh, mua bán tranh trên thế giới đã nháo nhào chạy săn lùng tranh của Foujita. Dò theo bước đường phiêu lưu của ông, giới sành tranh biết rằng ở Việt Nam đang còn vài bức của ông. Từ Mỹ, từ Pháp, từ Úc, từ Canada… bằng thư hoặc bằng điện, họ gửi về những nhà mua bán tranh ở Việt Nam, bằng mọi giá phải tìm mua cho được tranh của Foujita, đặc biệt là tranh con mèo. Trên thế giới, họa sĩ nào cũng có một nét độc đáo, mang theo dấu ấn tài nghệ của mình. Nét độc đáo của Foujita là nét vẽ con mèo.
Xem thêm
Vợ chồng nhà Phó Nhọt – Truyện ngắn của Vũ Hùng
Tui dám khinh các ông nhân viên hành chánh cấp xã dưới chế độ cũ bởi không biết học hành, chữ nghĩa thế nào mà tên tuổi của công dân cứ làm sai be bét, dở khóc dở cười. Không phải chỉ mỗi thầy Dài đâu nghen mà cả thằng bạn thân của tui ở làng Tây Trù cũng chung số phận như vậy!
Xem thêm
Nụ hôn màu lửa – Truyện ngắn của Lại Văn Long
Thành phố thay đổi đến ngỡ ngàng. Những con đường trung tâm ngày thường đông nghịt, đêm lấp lánh muôn màu ánh sáng từ dòng xe cộ bất tận, giờ thênh thang, trống trải. Những tòa nhà bị giăng dây như những gã khổng lồ bị xiềng chân bức bí; những giao lộ lù lù barie, lều dã chiến được kiểm soát bởi công an, quân đội, dân phòng…
Xem thêm
Pháo hoa cổ trấn – Truyện ngắn Tống Phước Bảo
Cô cúp điện thoại và nghe lòng mình trống rỗng một cách lạ kỳ! Đêm đó trong giấc mơ với xứ mây này. Cô mơ về một ngày hội trấn cổ với bập bùng lửa thiêng, trai gái đủ mọi sắc tộc từ những bản làng kéo về. Muông chim tụ hội ríu rít vang động thinh không. Mùa gió thổi tung những lời khấn cầu của dân bản. Gió thổi những cánh hoa đỏ bay phấp phới trên không trung rồi rơi xuống đất. Cô nhặt những cánh hoa hình trái tim lên. Những cánh hoa chợt tan vào tay cô.
Xem thêm
Ông Trời | Truyện ngắn của Đặng Chương Ngạn
Nguồn: Viết & Đọc chuyên đề Mùa Thu 2023.
Xem thêm
Bức nude thứ chín – Truyện ngắn của Tống Ngọc Hân
Cả hai đứa quỳ xuống! Hai kẻ tội đồ không mảnh vải che thân mặt tái mét không còn một giọt máu sụm gối xuống nền đá hoa lạnh băng.
Xem thêm
Kí ức của mèo đen – Truyện ngắn của Nguyễn Đăng Khương
Nơi tôi sống là nhà kho hẹp sau dãy nhà lớn chứa nhiều sách báo cũ của thế kỷ trước mà chủ nhân của tôi vì bận việc công chức nên ít có thời gian để mắt tới. Tôi thường vuốt râu cười khì “chủ nhà ta là nhà thơ ba xu”.
Xem thêm
Tiếng mõ trong ngõ cụt - Truyện ngắn Kim Uyên
Trước đây, vợ lão Nam thường tụng kinh gõ mõ hai lần trong tháng, vào sáng mồng một và ngày rằm. Đầu năm nay nhân ngày rằm tháng giêng mụ mời một thầy chùa về làm lễ lớn, sau ngày đó mụ Nhung chăm tụng kinh hơn. Việc này khiến mọi người trong khu ngõ cụt không hài lòng, đặc biệt là các nhà liền kề với nhà lão Nam vì tiếng gõ công cốc nổi lên lúc năm giờ sáng.
Xem thêm
Bài điếu văn của lão Tân - Truyện ngắn Kim Uyên
Lão Tân thấy nhà đám náo động thì đứng dậy thất thểu ra về. Vừa đi lão vừa suy nghĩ căng thẳng lắm, lão chưa biết viết thế nào để hoàn thành bài điếu văn về ông chủ tịch cho em trai đọc vào lúc di quan sáng mai.
Xem thêm
Chạm mặt voi rừng - Truyện ngắn của Hồng Chiến
Những cơn gió trong rừng già bao giờ cũng khác với cơn gió bình thường. Trước khi đưa bàn tay mát rượi mơn man lên làn da, mái tóc chúng ta, gió thể hiện vũ khúc của mình bằng tiếng reo ầm ĩ như có hằng trăm, hằng ngàn con nai cùng chạy, làm các cành cây nghiêng ngã, xô đập vào nhau rầm rầm.
Xem thêm
Hai người mẹ | Truyện ngắn của Lê Thanh Huệ
Truyện hay về người mẹ Việt Nam
Xem thêm
Bắt cá trên cao nguyên - Truyện ngắn của Hồng Chiến
H’Lê làm lớp trưởng lớp 9A1, người dân tộc Êđê có nước da bánh mật, mặt trái xoan, tóc xoăn tự nhiên tạo nên một vẻ đẹp huyền bí. H’Lê học cùng lớp nhưng hơn Thanh một tuổi, người rắn chắc, khỏe mạnh ra dáng một thiếu nữ. Còn Thanh sinh ra, lớn lên ở ngoại ô thành phố, quanh năm nghe tiếng gầm của sóng biển.
Xem thêm
Bản năng kép - Truyện ngắn Phùng Phương Quý
Ta nắm tay đấm vào đầu để nhớ lại. Đuổi ngay cái dự án khu công nghiệp ra khỏi bộ nhớ. Mười phần trăm là cái gì. Mười lăm phần trăm cũng chả là cái gì. Lại hai mươi à? Cút xéo ngay cái phần trăm hoa hồng của chúng mày. Tao đếch cần! Tao thích bia hơi, thích tăng gô...
Xem thêm